Kiến Thức Văn Học
TÀI HOA MỆNH BẠC I
Như một huyền thoại...
Ngày xưa có một nhà văn, đầy tài năng sáng tạo nhưng rất đỗi cô đơn
khinh bạc. Những tác phẩm chàng viết ra bằng tim óc và máu huyết chẳng được ai
đón nhận đích đáng giá trị của nó. Chàng lang thang nơi này nơi khác, không
cửa nhà định sở. Chàng đói, chàng lạnh; chàng tuyệt vọng và đau khổ. Cuộc đời
chàng là cả một chuỗi dài những tai họa liên tiếp bám đuổi nhau với tốc độ
càng lúc càng nhanh, càng lúc càng nặng nề bi thảm; đẩy chàng đến chỗ phải đối
nghịch lại với hầu hết những kẻ sống cùng thời đại; tước đoạt tình yêu mà
chàng khát khao một cách tuyệt vọng; làm tê liệt mọi tài năng chàng bằng mọt
thứ độc dược nguy hại; loại bỏ chàng ra khỏi xã hội con người bình thường như
một kẻ khốn cùng dơ bẩn; để rồi sau rốt khiến chàng gục chết từ cái bi kịch
đen đủi trong một quán rượu tối tăm ở Baltimore.
Có ai ngờ, chỉ vài chục năm, sau khi chàng đã chết, danh tiếng chàng
tràn lan khắp nơi trên thế giới, tên tuổi chàng được nhắc đến với sự kính
trọng tột bực; những lá thư và những bản thảo viết tay của chàng trở nên giá
trị nhất trong hàng ngũ các nhà văn lớn của Mỹ; số lượng tác phẩm của chàng
được in ra, người ta dự trù có thể nuôi một gia đình sống cuộc đời dư dã sung
túc cho đến cả hàng nhiều chục năm.
Từ cái tâm hồn cô đơn, chàng đã cho đi một tài năng rộng lớn, nhưng
nhận lại rất ít một cách thật cảm động những gì con người đáp trả trên chính
cá nhân chàng. Chàng đau khổ nhưng vô cùng kiêu hãnh, dù rằng trong suốt cuộc
sinh tồn ngắn ngủi, chàng lỡ mang cái định mệnh của một thi nhân đói ăn vì
nghèo túng, một nhà văn được trả lương rất thấp từ những tạp chí sớm nở tối
tàn.
Trong nhiều thế hệ tiếp nối, văn chương chàng được đọc đi đọc lại;
nhưng điều ấy không gọi là việc ngẫu nhiên, bởi vì ở vào thời đại cách đây gần
hai trăm năm, xuyên qua cái nội tâm bất ổn và luôn luôn đau khổ ấy, tác phẩm
chàng đã tỏ ra rất tân thời, rất mới một cách kỳ lạ. Chàng phân tích những ước
muốn về cái Chết, Tình Yêu và vẻ Đẹp trong tâm lý con người, thật lâu trước
khi Freud có thể xác định rõ được vấn đề ấy. Chàng ưa thích sự dữ dội mãnh
liệt nửa thế kỷ trước khi Hemingway chào đời. Chàng biết cách sáng tạo những
câu chuyện kinh dị trước khi loại truyện tâm lý xúc cảm được nghĩ đến. Chàng
biết sử dụng “nhị trùng phân cách” (double self) trước khi kẻ khác có thể tìm
ra cái phương pháp “nhị hóa phân cách” (split-personality). Quan trọng hơn cả,
trong tác phẩm chàng từ gần hai thế kỷ trước đã nói lên không ngừng cái chủ đề
chính mà thời đại văn chương ngày nay đang đề cập tới: “Con người với những
xung đột dữ dội trong nội tâm.”
Tuy nhiên, chàng bất hạnh hơn tất cả các văn nghệ sĩ khác vì đã lỡ sinh
ra trong nước Mỹ đúng ngay thời điểm của môït nền văn hóa còn rất phôi thai,
chưa khai mở. Vì vậy mà những tư tưởng đi trước quá xa của chàng trở nên lập
dị, khó thể chấp nhận với thời đại và xứ sở chàng đang sống. Vả chăng, từ cái
bề ngoài lôi thôi nghèo khổ, cái cá chất khinh bạc kiêu hãnh, cùng với những
thói quen khác biệt, mà chàng đã làm bực mình những người chung quanh và tạo
nên không biết bao nhiêu kẻ thù ganh ghét; dù rằng đó cũng chính là nguyên
nhân khiến chàng được nhớ đến mãi, trong khi những nghệ sĩ khác –trang nghiêm
chừng mực— lại bị quên lãng rất nhanh.
Cuộc đời chàng đáng gọi là mê hoặc đắm đuối hơn bất kỳ nhà văn Mỹ hàng
đầu nào khác. Chàng đã tự đốt lên chung quanh mình vầng hào quang rực sáng
được đánh đổi bằng cả một tài năng đặc biệt và cũng bằng một định mệnh đầy
những khổ đau bi thảm. Chàng đã trả cái giá rất đắt cho sự bất tử của tên tuổi
mình. Chàng giống y hệt một con chim lạ –như con quạ đen u ám trong tác phẩm
“Raven” rất nổi tiếng mà chàng đã viết--, xuất hiện bất ngờ rồi cũng bất ngờ
biến vào bóng đêm thăm thẳm. Chàng chính là một trong những nhà văn hàng đầu
của nước Mỹ. Tên chàng là Edgar Allan POE. I. (1809 – 1820)
Edgar Allan POE sinh ngày 19
tháng 1 năm 1809 tại
Còn lại một mình với hai con thơ (Edgar là người thứ nhì) và cái thai
trong bụng, bà Elizabeth Arnold phải kiếm sống bằng cách mang các con đi từ
tỉnh này sang tỉnh khác tùy theo những giao kèo diễn xuất được ký với đoàn
kịch. Bà đến
Ba người con nhỏ được phân ra làm con nuôi gia đình các cư dân trong
tỉnh.
Edgar Poe khi ấy hai tuổi, được vợ chồng ông John Allan, gốc người Tô
Cách Lan, chuyên nghề buôn bán, đem về đặt cho cái tên Allan (mà sau này Poe
không hề tỏ ra hãnh diện vì nó và luôn
luôn ký tắt chữ Allan bằng
mẫu tự A. viết hoa đơn giản, đặt
giữa hai chữ trong tên chính thức của mình: Edgar A. Poe.)
Vài tuần lễ sau khi bà
Thừa hưởng của mẹ bản chất nghệ sĩ, từ thuở nhỏ, Poe sớm được tiếng
thông minh, rất say mê âm nhạc, thi ca và cũng rất có năng khiếu về hội họa.
Đây phải gọi là ân sủng mà Thượng Đế đã ban riêng cho Poe, nhưng lại là điều
mang đến trong cuộc đời buồn bã của ông những nỗi bất hạnh còn kinh khủng đớn
đau hơn rất nhiều so với người mẹ tài hoa đã chết. ♣ ♣ ♣
Ngày 28/7/1815, hai ông bà
Allan đáp tàu sang Anh, đem theo cậu con nuôi lúc ấy sáu tuổi. Họ lưu lại đây
năm năm. Trong năm năm ấy, Poe được theo học một trường tư, mục đích giáo dục
học sinh trở nên là những người phong lưu trang nhã, đặt dưới quyền giám đốc
của bác sĩ Bransby ở Stoke
Ngày 21/7/1820, từ nước
Anh, hai ông bà Allan và Poe đáp tàu sang
Ngày 2/8/1820, họ trở về
sống ở
Những cuộc du lịch dài trên biển đã để lại trong tâm hồn cậu bé nhiều
mơ mộng một dấu ấn mạnh mẽ.
[Về sau, những xúc cảm và sự tĩnh tâm
lắng đọng mà biển cả mênh mông đã gây nên trong trí tưởng từ thuở nhỏ được tìm
thấy rất nhiều trong các tác phẩm của Poe.] II (1821 – 1825)
Năm 1821, gia đình Allan
dọn đến cư ngụ tại đường Fifth, khoảng giữa Clay và
Tháng 4/1823, Poe đổi sang
học trong trường William Burke, một tư thục lịch sự nổi tiếng ở
Càng lớn lên theo năm tháng, Poe
càng nhận thức được chỗ đứng bất thường của mình trong ngôi nhà to lớn sang
trọng của ông bà Allan (mua ngày 28/6/1825, tọa lạc tại góc đường Fifth và
Những điều này hẳn nhiên là nguyên nhân lớn lao cho một trạng thái tình
cảm bất bình thường bắt đầu hiện ra trong tâm hồn cậu nhỏ, tước đoạt hầu hết
sự thẳng thắn và thân mật có thể xảy ra giữa cậu với các bạn đồng môn.
Với hoàn cảnh như thế, cái ý muốn trỗi vượt hơn kẻ khác nổi dậy mạnh mẽ
trong Poe như một hình thức phản kháng để khinh bỉ lại những ai đã ban cho ông
cái nhìn hạ cố. Poe trở nên một tay bơi lội giỏi, chấp nhận những cuộc đánh cá
liều lĩnh và không thể chịu đựng được ý nghĩ rằng có ai ngang hàng trên những
môn thể thao mà ông đã chọn. Mối ưa thích dành cho Byron nẩy nở rất sớm trong
tâm hồn chàng tuổi trẻ khi Poe khám phá ra điều rằng nhà thi sĩ người Anh này
cũng được ghi nhận là một tay can đảm và bơi lội rất giỏi.
Ngoài ra, sự dẫn đầu và nổi bật dễ dàng của Poe trong các bộ môn văn
nghệ cũng đã là nguyên nhân để ông gánh chịu mọi nỗi thù ghét của rất nhiều bè
bạn. Luôn luôn Poe được nói đến như “một kẻ được tìm kiếm” mà không là “phải
đi tìm kẻ khác” trên những lãnh vực này.
[Một bạn đồng môn của Poe thời gian ấy,
về sau nhận định: “Poe, như ký ức của
tôi gợi lại bây giờ, là một người có rất nhiều tài năng nhưng tánh khí bất
thường và có khuynh hướng áp phục kẻ khác. Nhưng dù với những xung động dữ dội
trên bề mặt, ông cũng tỏ ra không phải là người có bản chất kiên quyết, luôn
cả thiếu sót sự hòa nhã dễ mến. Chính những điều này đã làm cho ông bị thù
ghét, lánh xa.”]
Kết quả của một hoàn cảnh như thế phải được xảy ra. Chàng tuổi trẻ cô
đơn tự rút vào đời sống nội tâm càng lúc càng nhiều hơn, tìm an ủi trong những
quyển sách đọc miên man và các bài thơ làm ra từ nhiều giấc mơ ao ước. Những
giấc mơ nói lên sự tương phản đối nghịch giữa những điều nhà văn “có” và những điều ông “muốn”; giữa đời sống thực tế và thế giới mộng tưởng:
“Trong ảo tưởng đêm đen
Tôi mơ về niềm vui đã mất
Nhưng sự thức tỉnh của giấc mơ đời và ánh
sáng
Lưu lại trong tôi một nỗi đớn đau...”
(In visions of the dark night
I have dreamed of joy departed
But a waking dream of life anh light
Hath left me broken-hearted...)
Những giấc mơ, để chiến đấu chống lại nghịch cảnh thực tế không chút
nào êm đẹp, đã được Poe kêu lên:
“Ôi tuổi xanh tôi, một giấc mơ tồn
tại
Hồn chưa tỉnh cho đến khi tia
sáng
Của vạn cổ thời gian, ngày hôm sau, đem đến
Dẫu giấc mơ là vô biên phiền muộn
Vẫn khá hơn thực tế phũ phàng…”
(Oh! That my young life were a lasting dream!
My spirit not awakening, till the beam
Of an Eternity should bring the morrow
Yes! Tho’ that long deam were of hopeless
sorrow
‘T were better than the cold reality…)
Vượt cao hơn hết trong những giấc mơ riêng ấy, hình ảnh người mẹ trẻ
đẹp tài hoa mà Poe không hình dung rõ ràng được chút kỷ niệm nào đã chiếm ngự
một chỗ đứng rất lớn:
“Tôi cảm biết trên thiên đường cao
đó
Những thiên thần nho nhỏ rỉ tai nhau
Giữa những lời yêu thương mê đắm nhất
Chẳng lời nào hơn tiếng ‘Mẹ’ thân yêu!
(Because I feel that, in the heaven above
The angels, whispering to one another
Can find, among their burning terms of Love
None so devotional as that of “Mother”...)
Hình ảnh người mẹ ấy là biểu tượng dịu dàng nhất của phái nữ trong tâm
hồn nhà văn, cũng giống như hương thơm quấn quýt tỏa ra từ những cánh hoa lẩn
khuất cúi mình trong đêm tối.
[Đó cũng là điều làm nên bi kịch suốt cả
đời Edgar Poe khi mà đối với ông, người nghệ sĩ mang tên Elizabeth Arnold là
tượng trưng cho cái Đẹp vô cùng ông sẽ đi tìm qua suốt các người đàn bà lần
lượt đi vào thi ca và định mệnh ông về sau.] ♣ ♣ ♣
Do bởi không có con mà bà Allan đã dành cho Poe một tình thương và sự
nuông chiều quá đáng. Còn ông Allan, trong những năm đầu tiên, lại kiêu hãnh
vì vẻ đẹp và sự thông minh của cậu bé mồ côi. Trong các bữa tiệc nhiều khách
khứa, ông thường bảo Poe ngâm lên những bài thơ dài và tỏ ra rất hoan hỉ vì
điều ấy, rồi cho phép Poe nếm những ly rượu mùi như một hình thức thưởng công
cậu bé. Chất men nồng đã sớm nhiễm vào máu, về sau trở nên là nguyên nhân lớn
lao, dự phần phá hủy cuộc đời nhà văn Edgar A. Poe.
[Bác sĩ Bransby, người chăm lo việc học
cho Poe trong 5 năm ở Anh, đã diễn tả về Poe như “một cậu bé thông minh nhanh nhẹn” và
sẽ “trở nên rất tốt nếu như không nhận
được sự cưng chiều quá đáng của những bậc cha mẹ nhu nhược chỉ biết nhét đầy
tiền vào túi cậu, làm nẩy sinh thái độ của một kẻ tự mãn, hơn là ban cho cậu
tình thương và sự hiểu biết thật sự.” Chính Poe về sau khi nói đến cha mẹ
nuôi, cũng bảo rằng ông không bao giờ nhận được đúng nghĩa một sự thông cảm và
tình gia đình mà ông cần thiết vô cùng.]
Cũng vì thiếu thốn tình mẹ mà ngay từ thuở nhỏ, Poe đã có khuynh hướng
tìm sự ẩn náu trong tình cảm của phái nữ. Cái khuynh hướng này ngày càng nẩy
nở nhiều hơn trong tâm hồn Poe. Thời gian ở
Năm 13 tuổi, Poe gặp bà
Jane Stith Stannard, mẹ của người bạn tên Bob Stannard. Cách trò chuyện tử tế
của bà đã làm nẩy sinh một tình yêu thanh cao trong trái tim cậu nhỏ. Bà trở
nên là người tri kỷ, được chàng thiếu niên kể cho nghe tất cả mọi nỗi niềm cô
đơn hay những ý nghĩ cuồng nhiệt mà chàng không có cơ hội giải bày trong gia
đình ông Allan hoặc nơi trường học.
Nhưng một thời gian ngắn sau khi gặp Poe, bà Jane Stannard qua đời lúc
chỉ mới ngoài ba mươi tuổi và vẫn còn rất đẹp. Cái chết của bà đã tạo nên
trong lòng Poe một nỗi đớn đau mạnh mẽ. Ông không thể chịu đựng được ý nghĩ bà
Stannard nằm cô đơn một mình trong ngôi mộ đen ngoài nghĩa trang lạnh lẽo.
Trong nhiều tháng sau đó, Poe nổi tiếng là người đêm đêm vẫn dám đi vào bãi
tha ma, đến ngồi bên cạnh nấm mồ bà Stannard để giữ cho ấm những kỷ niệm dịu
dàng mà bà đã đối với Poe.
Cũng cái chết đó đã làm nẩy sinh trong Poe một nỗi đam mê kỳ dị đối với
những bí mật của một ngôi mộ. Nhà văn ao ước được thăm dò tận sâu trong nơi
chốn trú ẩn cuối cùng của một đời người. Mối liên hệ mật thiết giữa tình yêu
và cái chết, sự sống lẩn khuất ngay trong cõi chết, sự hiện hữu vô hình vẫn
tồn tại trên một thân xác đã vữa nát..., chính là những chủ đề làm xáo trộn
không ngừng bộ óc dồi dào suy tư ấy. Những hồi niệm đêm đêm bên cạnh nấm mồ im
lìm của người đàn bà mà Poe cho rằng đã hiểu được ông cũng là khởi đầu cho các
tưởng tượng kỳ quái mang đầy tính cách định mệnh khắc nghiệt, được lập đi lập
lại nhiều lần trong văn chương Poe về sau.(*)
Sáng tác “To Helen” được Poe
cảm hứng từ “tình yêu sùng bái và lý
tưởng” dành cho người mẹ bạn mình thời gian vừa lớn. Đó là một trong những
bài thơ trữ tình hay nhất mà Poe đã viết ra trong cái tuổi 13. III (2/1826 – 1827)
Thời kỳ ấy, trong giới đại học đã không có những quy luật hạn chế đối
với sinh viên, mà chỉ là nỗi mong mỏi rằng sinh viên phải tự điều khiển mình
theo phong thái của một người lịch sự. Họ được tự do làm những gì họ muốn.
Những chàng công tử trẻ tuổi –hầu hết thuộc các gia đình nhiều tiền của—hăng
say phóng mình vào cuộc sống mới, tự khoác lên người những bộ tịch vừa phách
lối kiêu kỳ, vừa rộng rãi phóng túng, những điều mà họ cho rằng đúng với
phương cách của một kẻ quý phái. Trên hết, cờ bạc và uống rượu là hai yếu tố
cần thiết không thể bỏ qua của một thanh niên hào hoa thời đại ấy. Trong một
đêm, họ có thể đốt cả một món tiền kếch xù vì những truy hoan tác hại loại
này.
Lúc 17 tuổi, Poe vào đại học. Những năm tháng hạnh phúc của thời kỳ
niên thiếu đã vĩnh viễn qua đi, nhường chỗ cho một vận số đầy khó khăn khốn
đốn bắt đầu đến trong cuộc đời nhà văn.
Từ 14/2/1826 đến 15/12/1826
ở đại học
Trước khi vào đại học, Poe vẫn còn là một cậu nhỏ. Thế rồi bất thần ông
phải đối diện với những vấn đề của kẻ đã trưởng thành khi mà người cha nuôi
bắt đầu tỏ lộ bộ mặt bủn xỉn về tiền bạc với cậu con vừa lớn. Ông Allan cung
cấp cho Poe số tiền chẳng đủ thiếu vào đâu so với những chi phí tối thiểu ở
đại học. Túng trước hụt sau, Poe phải chạy vay khắp nơi trong bè bạn và ngay
cả những người Do Thái trong tỉnh với số tiền lời rất cao để đắp bù vào những
món chi tiêu cần thiết. Và rồi Poe lao vào các trò chơi cờ bạc để kiếm thêm
lợi tức sống; nhưng điều này chỉ càng khiến Poe thêm mắc nợ vì sự thua này
tiếp nối sự thua kia.
Thêm vào đó, sự đổ vỡ bắt đầu xảy ra giữa Poe và cha nuôi. Trên những
cách thế tự phụ, ông Allan tỏ thật với Poe cảm nghĩ rằng do bởi lòng thương
hại hay một sự nhân đạo rơi rớt nào đó của trái tim mà ông đã đem Poe vào gia
đình ông. Điều này rõ ràng đã làm cho Poe đau đớn. Chàng tuổi trẻ là người
giàu tình cảm, lãng mạn và tuyệt vọng trong sự kiếm tìm một tình thương chân
thật. Ông cha nuôi lại là một lái buôn Tô Cách Lan nặng đầu óc tính toán, tính
tình nghiêm khắc cố chấp, thực tế và trơ trơ như một tượng đá. Hai mẫu người
vô cùng khác biệt hẳn nhiên khó có thể tìm ra được một sự cảm thông đồng điệu.
Khi nghe Poe mắc nợ cờ bạc tại trường đại học lên đến con số hai ngàn đô la,
ông Allan đã thẳng thắn bãi bỏ việc học của Poe sau gần một năm lưu lại
đây.
Poe rời
Không ai uống rượu mà lại không có nguyên nhân, Trường hợp Poe, những
nguyên nhân càng rất dễ nhận định. Từ thuở nhỏ, Poe đã tỏ ra là một đứa nhỏ
nhiều tình cảm. Mồ côi mẹ rất sớm, trong gia đình Allan lại không thể tìm ra
cảm giác an ổn mà tất cả các đứa trẻ đều cần thiết. Do đó, nỗi thiếu thốn sự
bảo vệ của tình mẹ đã là nguyên nhân đầu tiên và lớn nhất làm nên sự cô đơn
trống rỗng trong tâm hồn nhà văn.
[Để rồi, tất cả những người đàn bà về sau
trong đời Poe đều chỉ được khoác cho vai trò thay thế hình ảnh người mẹ đã
chết, dù rằng điều ấy vẫn không làm đầy được nỗi cô đơn mà Poe càng lúc càng
cảm nghe có khuynh hướng trĩu nặng trong lòng.]
Thêm nữa, giòng máu giang hồ du mục được thừa hưởng từ người mẹ tài
hoa, tương phản đối nghịch hẳn với những thận trọng nghiêm khắc được nhìn thấy
và hấp thụ thuở đầu đời trong gia đình Allan, cũng là nguyên nhân lớn lao cho
những xung đột nội tâm mà Poe vướng mắc trên nhiều cách thức. Song song với
cái vẻ bề ngoài sung sướng của đứa trẻ con nhà giàu, chính là một nội tâm sâu
kín tiềm tàng tính chất u sầu ảm đạm và không ngừng quan sát để nhận ra sự dị
biệt giữa mình và những người cùng trang lứa:
“Từ thuở ấu thơ tôi đã không
giống như kẻ khác –Tôi chẳng nhìn
như kẻ khác nhìn—Tôi không có
nỗi rung động nào đến từ mùa xuân
Cũng chẳng nỗi buồn trong mùa xuân đó
Và tôi lại không cảm nghe thức dậy
niềm vui trong tim cùng một âm vang
Tất cả, tôi yêu, tôi yêu đơn độc...”
(From childhood’s hour I have not been
as others were –I have not seen
as others saw –I could not bring
my passions from a common spring
From the same source I have not taken
my sorrow; I could not awaken
my heart to joy at the same tone’
And all I lov’d, I lov’d alone...)
Rồi với tâm trạng bắt đầu thấm cảm những nỗi đau buồn của tuổi thanh
niên, trong thi ca Poe đã từng cất lên tiếng kêu ngờ vực:
“Tôi đứng giữa âm vang
nơi bờ biển xanh ngàn con sóng
vỗ
Tôi giữ trong tay
Những hạt cát vàng nhỏ bé
Ôi ít làm sao! Chúng bò dần đi
Thoát ra mười ngón, trôi xuống biển sâu
trong khi tôi khóc –trong khi tôi khóc
Ôi Thượng Đế ơi! Làm sao tôi nắm
những hạt cát vàng chặt lại trong tay?
Ôi Thượng Đế ơi! Làm sao tôi cứu
con người khỏi sự tàn nhẫn đại dương?
Có phải những gì ta đang nhìn thấy
chỉ là giấc mơ trong một giấc mơ?”
(I stand amid the roar
of a surf-tormented shore
And I hold within my hand
grains of the golden sand;
How few! Yet how they creep
through my fingers to the deep
while I weep –while I weep!
O God! Can I not grasp
them with a tighter clasp?
O God! Can I not save
one from the pitiless wave?
Is all that we see or seem
but a dream within a dream?)
Cứ vậy, trong cái định mệnh đầy lao đao đau khổ đó, cứ mỗi tai biến đưa
đến là thêm một chút nguyên nhân góp phần vào việc hủy hoại tinh thần và thân
xác nhà văn. Thế giới thực tại thật không chịu đựng nổi, Poe tìm sự giải thoát
trong văn chương, trong tình cảm các người đàn bà mang hình ảnh người mẹ đã
chết, và nhất là trong men rượu. Rượu đem được cho Poe sự trốn chạy những khổ
đau trong cuộc sống. Và ông dùng nó như một người nghiện thuốc phiện tìm thứ
hạnh phúc riêng cho chính mình.
Nhưng, giống như một lần Poe tuyên bố: “Tôi tuyệt
đối không hài lòng với chất kích thích của rượu mà thỉnh thoảng tôi đã dùng
quá độ”, thì hẳn nhiên, sự điên cuồng nằm sát bên dưới bề mặt hạnh
phúc giả tạo ấy, Poe cũng đã biết như thế nào rồi. Có thể nói, đối với Poe,
rượu chỉ là phương tiện gần gũi giúp ông thoát ra khỏi sự khảo tra dằn vặt của
ký ức, khỏi cái cảm giác cô đơn không thể chịu nổi và khỏi mối kinh hãi ám ảnh
về cái chết vẫn suốt đời không ngừng đeo đuổi tâm hồn ông. IV (1827-1830)
Thời gian còn ngồi ở bậc trung học tại
[Sau này, nhắc lại Poe, Sarah đã mô tả
rằng, đó là “một chàng thanh niên đẹp trai, có bộ dáng bề ngoài ấm áp buồn bã,
tính khí nồng nhiệt xung động, nhưng lại có tính ghen tuông mãnh liệt vì bất
cứ lý do gì”.]
Hai người tuổi trẻ âm thầm đính hôn với nhau. Khi cha cô Sarah biết
được chuyện, nghĩ rằng con gái mình còn quá nhỏ với chuyện yêu đương, nên đã
tịch thu tất cả các lá thư chàng thi sĩ từ trường đại học gửi về mà Sarah
không biết. Mãi cho đến lúc Sarah lấy chồng và trở thành bà
Ngày 24/3/1827, Poe bất
thần rời khỏi ngôi nhà cha mẹ nuôi ra đi. Hành động này có thể được giải thích
do từ nguyên nhân xung đột cha con, mà cũng vì Poe, bản chất đa cảm, muốn trốn
tránh để khỏi nhìn thấy người yêu xưa nay đang là vợ kẻ khác.
Ngày 7/4/1827, Poe đến
“Khi màn đêm buông xuống trên tấm phủ quan
tài
Trên huyệt mộ sâu, trên muôn ngàn thứ
Những cơn gió lạ thổi qua
Thì thầm trong nhạc điệu
Tôi bỗng nhiên thức dậy
Trong kinh hãi, cô đơn...)
(But when night had thrown her pall
Upon that spot, as upon all
And the mystic wind went by
Murmuring in melody
Then –ah, then- I would awake
To the terror of the lone lake.)
Cũng có bài làm ra trong tuổi 13 ở Richmond, một trong những bài hay
nhất của Poe, đề tặng bà Jane Stannard, bắt đầu với những câu như sau:
“Helen, đối với tôi, sắc đẹp của
em
Tựa như cánh buồm của giống dân thời Trung cổ
Trôi êm trên sóng, trong mùi thơm của biển
Từ từ, mệt mỏi
Về bến bờ quê cũ thân yêu...”
(Helen, thy beauty is to me
Like those Nicean barks of yore
That gently, o’er a perfumed sea
The weary, way-worn wanderer bore
To his own native shore...)
Nhưng, tập thơ không gây được chút tiếng vang nào trong giới phê bình
và cũng chẳng bán ra được quyển nào, dù giá đề cho mỗi quyển chỉ là 12 xu
ruỡi!
Chàng thi sĩ 18 tuổi không tiền bạc, chẳng bạn bè thân thích, thất vọng
vì tài năng mình bị bỏ quên, bèn đăng vào lính ngày 16/5/1827, làm một anh binh nhì
dưới cái tên Edgar A. Perry, căn cứ chính đóng tại
Trên bề ngoài, Poe tỏ ra xấu hổ khi được nhận vào lính, bởi vì sau đó
nhà văn đã tự thổi phồng lên những câu chuyện do chính ông bịa đặt để che giấu
giai đoạn sống trong quân đội. Và một lần, để tự biện minh rõ hơn cho điều ấy,
Poe đã bảo rằng, khoảng thời gian từ 1827 đến 1830, ông du lịch qua Hy Lạp và
Nga Sô. Tuy vậy, Poe hẳn phải là một anh lính gương mẫu. Sau một năm ruỡi phục
vụ, ông được thăng cấp thượng sĩ.
[Trung úy Howard sau này nhận định về Poe
là “một người có thói quen tốt và không
hề uống rượu”. Đại úy Griswold ngợi khen Poe có “thái độ cư xử rất đáng ca tụng và đạt được
uy tín với toàn đồng đội.” Đại tá Worth lại thêm: “Poe có giá trị về sự tín nhiệm rất
cao.”]
Ngày 29/2/1829, nhận tin mẹ
nuôi qua đời, Poe xin phép trở lại
Ngày 15/4/1829, sau hai năm
sống trong quân đội, Poe giải ngũ một cách vẻ vang. Và rồi xuyên qua ảnh hưởng
của ông Allan, Poe được nhận vào trường Võ Bị West Point.
Dù vậy, sau cái chết của người mẹ nuôi, tình cảm giữa ông Allan và Poe
vốn đã bị sứt mẻ từ trước, nay càng thêm đổ vỡ trầm trọng. Phần gia tài của bà
Allan bị ông chồng nắm hết, và về phía Poe thì chẳng còn trông mong gì vào sự
giúp đỡ vật chất của cha nuôi. Poe bèn bỏ đi đến Baltimore, tiểu bang
Maryland, lưu lại một thời gian trong ngôi nhà người cô –bà Maria Clemm lúc ấy
đang sống cùng đứa con gái 7 tuổi tên Virginia, và William Henry, người anh
lớn của Poe(*), cũng đang chết
dần từng ngày với bệnh lao phổi và ghiền rượu.
Tại Baltimore, vào tháng
12/1829, tập thơ thứ nhì của Poe, “Al Aaraaf, Tamerlane and Minor
Poems”, chào đời. Nhưng cũng giống như tập trước, nó chẳng đem chút lợi
tức nào về cho tác giả.