Việt Văn Mới
Việt Văn Mới

tranh vẽ Kiều của nữ họa sĩ Ngọc Mai (SàiGòn)







NGOẠI HÌNH CỦA MẤY NHÂN VẬT Ở

LẦU XANH LÂM TRI TRONG TRUYỆN KIỀU





I. NGOẠI HÌNH CỦA MÃ GIÁM SINH

   Trong các nhân vật Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ tả ngoại hình của một số nhân vật, trong đó đặc biệt có 3 tên ở lầu xanh Lâm Tri. Mã Giám Sinh xuất hiện đầu tiên vì là người trực tiếp đi mua Kiều:

0623. Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.
0625. Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.

   Mã Giám Sinh có một lai lịch mập mờ, là người viễn khách nhưng nói dối lại trả lời cũng gần, và đây là ngoại hình của Mã:

0627. Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

   Tên buôn người đầu tiên xuất hiện như một con chim mồi chuyên nhử gái nên phải có một ngoại hình đỏm dáng trai lơ dù đã trạc ngoại tứ tuần, hơi già một chút nhưng ưu điểm chính là có tiền. Ngoại hình của y được tác giả mô tả qua mày râu và y phục bằng hai tính từ láy đặt ở vị trí thông thường ngay sau danh từ “Mày râu nhẵn nhụi , áo quần bảnh bao” - quay “cận cảnh” để nhìn thấy cả mày râu lại "quay lướt" để thấy áo quần - vừa có giá trị miêu tả lại vừa nêu được nhận xét của tác giả. Sau câu lục “Quá niên - trạc - ngoại tứ tuần” với nhịp thơ khập khễnh 2-1-3, giới thiệu y một cách tưởng như vô tình, nhưng chính cái cách đặt câu lục có 5/6 từ Hán -Việt trang trọng và ngay sau đó là câu bát thuần Việt nôm na (Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao) này cho ta cảm giác như tác giả muốn hạ bệ Mã, đặt y vào đúng vị trí của mình với thái độ khinh ghét của ông. Với cách giới thiệu như trên, chỉ bằng 2 câu thơ, kết hợp hai kiểu quay, Nguyễn Du đã để Mã Giám Sinh tự bộc lộ tính cách trai lơ “bất cận nhân tình” của một tên buôn người mạt hạng.

II. NGOẠI HÌNH CỦA TÚ BÀ .

   Khi Kiều cùng Mã Giám Sinh về đến trú phường thì trong cái đêm đầy đau khổ này, nàng đã thủ sẵn một con dao để phòng thân:

0801. Phòng khi nước đã đến chân,
Dao này thì liệu với thân sau này!
0803. Đêm thu một khắc một chầy,
Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
0805. Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
Vẫn là một đứa phong tình đã quen.
0807. Quá chơi lại gặp hồi đen,
Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.

   Và đây là lần đầu tiên, tác giả nói đến Tú Bà:

0809. Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên.
0811. Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường…

   Tuy nhiên Thuý Kiều chưa được gặp mụ cho tận đến một tháng sau, lúc tới Lâm Tri:

0921. Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
0923. Thoạt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?

   Cái thân hình ngoại cỡ của mụ gây cho Thúy Kiều ngay từ cái nhìn đầu tiên một ấn tượng mạnh mẽ, một cảm giác kinh tởm, ngạc nhiên đầy lạ lẫm. Một từ láy nhờn nhợt được đặt trước danh từ màu da theo lối đảo ngữ lại được đặt ở vị trí gần cuối câu lục vừa có tác dụng nhấn mạnh đặc điểm ngoại hình của mụ vừa nêu bật được cảm giác ghê sợ nơi Kiều. Rồi lại còn tiếp theo một câu hỏi đầy mỉa mai với một từ láy đẫy đà cũng đặt ở vị trí gần cuối câu bát “Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?”. Nguyễn Du đã “quay cận cảnh” rồi “quay lướt” để làm rõ cả nước da lẫn thân hình mụ trùm lầu xanh chỉ bằng hai câu thơ. Cái nước da nhờn nhợt và thân hình cao lớn đẫy đà đã tố cáo cuộc đời chơi bời trụy lạc vô độ của mụ. Chỉ có đoạn đời dài trác táng chuyên hoạt động về đêm, lấy đêm làm ngày mới cho mụ một làn da có sắc màu nhờn nhợt - một màu da tái mét nhợt nhạt trông thật tởm và chúng tôi lại muốn như một số bản Kiều dùng từ lờn lợt cho thật là phù hợp với mụ vì nó gợi cho ta một cái gì thật là “bẩn thỉu”.

III. NGOẠI HÌNH CỦA SỞ KHANH .

   Nếu Mã Giám Sinh đã ở tuổi trạc ngoại tứ tuần để đóng vai người có của đi lấy nàng hầu thì Sở Khanh với nhiệm vụ quyến rũ lừa gạt những cô gái trong trắng nên phải trai lơ đỏm dáng đặc biệt là phải trẻ hơn vì hắn không có tiền lại mang dáng vẻ nho sinh:

1059. Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.

   Cũng như với Mã Giám Sinh với hai từ láy đặt ở vị trí thông thường sau danh từ: mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, Nguyễn Du dành cho Sở Khanh hai tính từ láy đặt ở cùng vị trí “Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng” nhưng ngay sau một câu lục với từ song tiết Hán-Việt trang trọng thanh xuân trong Một chàng vừa trạc thanh xuân. Ngược lại, vẻ “nho nhã” Sở Khanh lại được giới thiệu cùng với tên của hắn ở hai câu tiếp theo:

1061. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

   Chúng ta cần để ý là ở đây tác giả dùng chữ hình dong chứ không phải hình dung, dung còn là từ gốc Hán vẫn có cái nghĩa trang trọng nhưng dong đã trở thành từ thuần Việt nôm na nên hình dong chải chuốt mới có ý mỉa mai khinh ghét (Trong ca dao có câu: Trông mặt mà bắt hình dong - Con lợn có béo thì lòng mới ngon). Cụm từ Hình dong chải chuốt ấy lại kết hợp với những ý nghĩ từ điểm nhìn của Thúy Kiều: Nghĩ rằng... Hỏi ra mới biết... ở sau đã thể hiện rõ sự nghi ngờ, thiếu tin tưởng ở con người Sở Khanh càng tố cáo cái vẻ đội lốt văn nhân của hắn.
   § Qua ba mục trên, cùng với cái màu da nhờn nhợt và cái khổ người cao lớn đẫy đà của mụ Tú, ta thấy với ba tên lưu manh ở nhà chứa Lâm Tri, Nguyễn Du đã dành cho mỗi tên hai từ láy thật là đắc địa để tả ngoại hình của chúng. Và cũng thật là mỉa mai nếu ta lại dùng câu Kiều sau đây để nói về ngoại hình của chúng qua cách mô tả của tác giả Truyện Kiều: Mỗi tên một vẻ, mười phân vẹn mười. Mỗi tên ra mắt độc giả bằng bốn câu trong đó có hai câu tả ngoại hình, nhưng tác giả đã rất tinh tế khi ông giới thiệu chúng một cách linh hoạt chứ không đơn điệu bởi:

   + Lúc thì danh xưng quê quán trước, ngoại hình sau (Mã Giám Sinh):

0625. Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh.
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
0627. Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

   + Lúc thì ngoại hình trước, danh xưng sau (Sở Khanh):

1059. Một chàng vừa trạc thanh xuân,
Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
1061. Nghĩ rằng cũng mạch thư hương,
Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.

   + Lúc chưa nêu danh vội mà bằng sự xuất hiện kịp thời của nhân vật trước khi tả ngoại hình, như với Tú Bà trong bốn câu:

0921. Xe châu dừng bánh cửa ngoài,
Rèm trong đã thấy một người bước ra.
0923. Thoạt trông nhờn nhợt màu da,
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao?

   Tên của mụ đã được giới thiệu từ trước cùng với Mã Giám Sinh:

0809. Lầu xanh có mụ Tú Bà,
Làng chơi đã trở về già hết duyên…

   Nguyễn Du đã rất khéo léo và chính xác khi cho lần đầu tiên mỗi nhân vật xuất hiện bằng 4 câu thơ trong đó có 2 câu tả ngoại hình với 2 từ láy dùng đúng chỗ, cái nhẵn nhụi - bảnh bao của Mã, cái nhờn nhợt - đẫy đà của mụ Tú, cái chải chuốt - dịu dàng của Sở Khanh làm hiện lên cái thần của từng nhân vật mang từ thực tế sống động vào văn chương. Thế mới biết chỉ với 6 câu thơ mà tác giả đã mô tả ngoại hình của ba nhân vật điển hình này một cách thần tình biết bao. Chính vì vậy mà các nhân vật của ông mới sống mãi trong lòng độc giả.
   Như vậy là với mấy nhân vật trong chốn lầu xanh này - những nhân vật phản diện cũng là những thủ phạm đầu tiên trong cuộc đời Kiều - Nguyễn Du khinh ghét chúng nên khi miêu tả đã dùng chủ yếu ngôn ngữ của đời thường - lớp từ thuần Nôm đã cho phép trình bày ngoại hình nhân vật một cách cụ thể mà ta vẫn thấy được thái độ, cảm xúc của ông. Chính là với những nhân vật này bút pháp truyền thống của nghệ thuật tượng trưng đã nhường chỗ cho việc thể hiện sự cách tân của tác giả Truyện Kiều.
   Chỉ bằng một vài câu, Nguyễn Du không thể đi vào chi tiết. Ông chọn lối vẽ truyền thống là lối chấm phá của các nhà hội họa phương Đông, từ chi tiết tiêu biểu mà dùng bút lực làm bật lên cái thần sắc của từng người, đặc biệt với lớp từ láy đầy gợi cảm mà chúng tôi sẽ xét thêm ở mục sau.

IV. TỪ LÁY VỚI NHÂN VẬT TRUYỆN KIỀU .

   Chúng tôi cũng muốn nêu thêm mấy nhận xét nữa về vài nhân vật điển hình được khắc họa bằng những hành động bởi những từ láy đặc trưng riêng cho từng nhân vật:

   + Mã Giám Sinh với từ sỗ sàng trong:

0631.Ghế trên, ngồi tót sỗ sàng,
Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra .

   Ngoài ra còn có thể kể Mã đã dặt dìu, cò kè khi mặc cả:

0641.Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tuỳ cơ dặt dìu
0647.Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm .

   và Thúy Kiều cũng đã nhận xét về gã: dùng dắng, vội vàng, lỡ làng trong câu:

0883.Khi về bỏ vắng trong nhà,
Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng,
0885.Khi ăn, khi nói lỡ làng,
Khi thầy, khi tớ, xem thường, xem khinh.

   + Sở Khanh với từ đeo đai trong:

1063.Bóng nga thấp thoáng dưới mành,
Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai.

   và Sở Khanh ngoài cái ra tình đeo đai, cũng đã có cái lẩm nhẩm gật đầu hay tủm tỉm gật đầu, cái lên tiếng rêu rao rồi lại quát mắng đùng đùng khi định ra tay với Kiều.

   + Tú Bà với từ lơi lả trong:

0925.Trước xe lơi lả han chào,
Vâng lời, nàng mới bước vào tận nơi .

   Với mụ Tú ta lại có thể kể mụ đã phải cầm cập mặt nhìn hồn bay khi Kiều tự tử, rồi phải lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần, kề tai mấy nỗi nằn nì, lại hăm hăm áp điệu một hơi lại nhà, hung hăng chẳng hỏi chẳng tra, đang tay vùi liễu dập hoa tơi bời... đến lúc kể nhặt kể khoan, gạn gùng đến mực nồng nàn mới tha, rồi sau đó mới thong dong dặn dò...

   + Nếu trước đây, Nguyễn Du cũng đã dành cho ngoại hình hai chị em Kiều cũng mỗi người hai từ láy đặc trưng - với Thúy Vân là hai từ láy đầy đặn, nở nang và hai từ song tiết Hán-Việt trang trọng, đoan trang, với Thúy Kiều lại là hai từ láy sắc sảo, mặn mà và hai từ song tiết Hán-Việt thu thủy, xuân sơn. Với Kim Trọng là hai từ có thể coi là từ láy đề huề hào hoa - còn Từ Hải là đường đườngvẫy vùng... Với Hoạn Thư là cái sâu sắc nước đời, cái thơn thớt nói cười, cái thủng thỉnh như chơi, cái cười cười nói nói ngọt ngào... vv. và vv. Nguyễn Du quả là độc đáo trong việc sử dụng từ láy!

Thế giới nhân vật Truyện Kiều (Nhà xuất bản Thanh Niên – 2005)

. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả đã chuyển .