Việt Văn Mới
Việt Văn Mới






TẢN MẠN QUI NHƠN



M ột năm tôi  về Qui Nhơn rất nhiều lần, vì nơi ấy có các em. Tuy chỉ là chị em gái, nhưng mà tình cảm rất đậm đà, gần gủi, gắn bó yêu thương. Nơi này còn có những người bạn nhỏ thân yêu của tôi. Mỗi lần về, tôi chỉ quanh quẩn trong nhà lo giỗ ba tôi, gặp các em rồi lại vội vã ra đi, vì tôi ở tận Pleiku cách Qui Nhơn đến 167km. Nhưng hôm nay, tôi dạo quanh thành phố Qui Nhơn một vòng. Trước tiên ,tôi ghé vào nghĩa trang thăm mộ ba mẹ, nhìn ngôi mộ cũ kỹ của ba, lòng tôi lại dâng lên bao cảm xúc dạt dào, nhớ quay quắt những kỉ niệm về ba, những lời nói của ba, những câu thơ có tính cách giáo dục, của cổ nhân mà ba thường đọc, như đang văng vẳng bên tai tôi, tôi đứng lặng. một nỗi buồn sâu lắng đang đi vào cõi nhớ Sau đó tôi ghé mộ mẹ, nơi an nghỉ cuối cùng của người mẹ thương yêu nhất đời. Với mẹ, biết bao là kỷ niệm ngọt ngào,  vui buồn. mẹ đã cùng chị em chúng tôi, vượt qua biết bao gian nan, vất vả của cuộc sống, của kiếp người, chia sẻ cùng chúng tôi những vui buồn, những thăng trầm trong quá khứ...Mẹ, mẹ là tất cả những gì quí giá, những gì thân yêu nhất, giờ đây hai người đã không còn nữa, tôi suy nghĩ miên man và bỗng thấy chênh  chao lòng...    

 Vì ở xứ núi nên mỗi lần tôi về Qui nhơn, tôi rất mê biển, nhất là nhìn lại ngôi trường nữ trung học cách biển chỉ một con đường, nơi tôi đã học, cách đây hơn năm mươi năm qua. biết bao kỉ niêm của tuổi học trò.  Thuở ấy mỗi chiều về, tôi ngồi trên bãi cát vàng mịn màng sát biển, phía sau tôi là hàng dương liễu xanh, reo vi vu trong gió ngàn, ngắm bầu trời nhiều mây và hoàng hôn đang buông dần dần, xa xa là nước và chân trời.   

 Mặt biển rất xanh, sóng rất nhẹ, ngòai xa kia là cù lao xanh, cách Qui nhơn đến 24 km, cách sông cầu 6km đường biển, nhìn từ xa, cù lao xanh như một hòn núi xanh đơn độc giữa biển khơi, nằm chơ vơ cùng trời xanh và mây nước, nhưng tôi được biết nơi ấy có nhà dân và trường học, là một phường của thành phố Qui Nhơn.   

 Tôi thả tầm mắt chung quanh, những khách sạn cao tầng nằm rải rác ven bờ biển, để phục vụ du khách. Bên phải tôi là một đường vòng cát mịn, xa chút nữa có bãi Trứng, bãi Tiên sa, một bãi tắm đẹp nổi tiếng với bao nhiêu là đá, đá được nước và sóng quanh năm mài nhẳn như những quả trứng, mỗi lần bước chân lên, cảm giác thật nhẹ nhàng và êm ái vô cùng. Từ bãi Trứng nhìn lên, một rừng dương liểu xanh vi vu trong gió, ẩn hiện trong đám phi lao là những mái nhà ngói đỏ, đó là khách sạn Hoàng Anh Gia Lai.Trên đồi cao có mộ thi nhân, nhỏ gọn xinh nhìn ra biển khơi, nơi đây thi nhân có thể quanh năm nghe sóng vỗ ngàn trùng, nghe biển mặn thấm vào hồn thơ lai láng, đó là mộ của nhà thơ nổi tiếng Hàn Mặc Tử, một tài danh bạc mệnh, mất ở tuổi hai tám, lúc sinh thời, ông rất thích trăng sao, ông đã mất tại trại phong Qui Hoà, một làng cùi nằm dọc theo bờ biển Qui Nhơn, vì căn bệnh quái ác (bệnh phong cùi lúc ấy chưa có thuốc chữa), ông mất từ năm 1940, đến năm 1959 ông  được anh em bạn bè đưa về an táng tại nơi này, để mỗi chiều, ông được ngắm biển xanh, đêm đêm ông được hoà mình cùng thiên nhiên vạn vật, say đắm cùng trăng sao. Phía sau mộ ông là  núi, dãy núi Xuân Vân, có con đường dốc thật thơ mộng dẫn lên mộ ông, được gọi là dốc Mộng Cầm (một chuyện tình lãng mạn, nên thơ, đầy nước mắt Hàn Mặc Tử và Mộng Cầm đã xảy ra nơi này, những năm sau Hàn Mặc Tử bệnh nặng, có nhà thơ Mai Đình đến ở, chăm sóc Hàn Mặc Tử, đó là tình yêu, tình văn thơ, rất là nồng nàn say đắm của hai người, thời gian này đã xuất hiện nhiều bài thơ rất hay cho nền văn học....chuyện tình là một đề tài rất phong phú, tốn rất nhiều giấy mực của những nhà văn, nhà thơ, nhạc,  phim và cải lương.   

Dọc theo con đường Xuân Diệu sát biển, có những quán cafe, có quán sát bờ cát, tôi ngồi phóng tầm mắt ra xa, nhìn những thuyền cá đi làm đêm, với bao nhiêu ánh đèn thắp sớm đang nhấp nháy giữa biển khơi, những làn gió dịu ngọt, pha lẫn mùi nước mặn của biển, tạo nên một cảm giác rin rít trên làn da, thú vị vô cùng. Tôi say sưa ngắm biển chiều, phía trời Tây, những bóng nắng đã ngã màu, mặt trời vừa xuống núi, những người đi tắm biển và các em bé, lần lượt sửa soạn ra về, các quán nước san sát nhau, biển chiều hè thật đông vui, mát rượi.   

    Bây giờ trời đã  ngã bóng hoàng hôn, trên cao, các vì sao đua nhau nhả một thứ ánh sáng mờ ảo, mông lung đầy huyễn mộng, gió và sóng như đang thì thầm bên tai tôi một khúc tình ca êm đềm muôn thuở. Mặt biển đã tối đen, nhưng nước vẫn còn óng ánh, nhập nhoà giữa không gian tranh tối, tranh sáng... Sau lưng tôi là những dãy nhà cao tầng, đứng im ắng giữa trời đêm, thành phố đã lên đèn, các con đường đua nhau khoe sắc với bao ánh đèn rạng rỡ muôn màu. Bên trái tôi là Hải Minh, nơi có núi đá, trên cao là tượng của vị thánh tổ hải quân Trần Hưng Đạo, cỡi ngựa ngạo nghễ chỉ tay ra biển, tượng cao 16m, dưới chân núi là làng Hải Minh, một vùng ven biển, nhà cửa rất khang trang, đan xen dưới những hàng dương liểu xanh và những hàng dừa sai trái, dân ở đây phần đông làm nghề đánh cá. Ngày trước, nếu muốn qua Hải Minh phải đi bằng đò chèo, bây giờ cát được thổi lấn ra biển đã rút ngắn khoảng cách sang sông.   

    Sáng hôm sau, tôi được một người bạn mời đi uống café tận dưới Cảng Qui Nhơn, tôi đi dưới nắng vàng, trời chớm thu, một chút se se lạnh vào buổi sáng và buổi chiều làm cho cảnh vật thêm phần thi vị, thêm dịu dàng, say đắm đê mê. Bây giờ tôi mới có dịp ngắm thành phố Qui Nhơn, một thành phố biển, nước bao quanh, có núi Bà Hỏa, núi Vũng Chua, núi Đá che chắn. Đường phố rộng rãi và rất sạch, hai bên đường toàn cây xanh râm mát, thỉnh thoảng đan xen những cây phượng vĩ nở hoa đỏ thắm, có một điều lạ, là trời mới cuối hè mà tôi  không nghe được tiếng hát ngân vang của các chú ve. Tôi ra chợ Đầm, một vùng đất được thổi lên lấn ra biển, người người buôn bán tấp nập, cầu cảng năm xưa giờ cũng đã trở thành một vùng đất bằng phẳng, có hai chung cư cao vút của Hoàng Anh Gia Lai đứng ngạo nghễ giữa vùng trời đầy nắng gió, soi bóng xuống mặt đầm Thị Nại, cảnh vật nơi đây thật quang đãng, sang trọng đến không ngờ. Thấy còn sớm chúng tôi đi qua cầu Nhơn Hội, một cây cầu dài nhất miền Trung, bên kia cầu là núi và cát với những công trình xây dựng dở dang, cây cầu này nối Qui Nhơn với bán đảo Phương Mai.   

   Tôi lên phường Đống Đa, có đôi tháp từ thế kỉ 12 nằm cạnh ven đường, tháp được toạ lạc trên vùng đất bằng phẳng, cửa quay về hướng Nam, phần trên chóp bằng, có hai tháp kề nhau, tháp lớn cao khoảng 20m, tháp nhỏ thấp hơn. Đây là tháp của người Chămpa xây dựng theo lối kiến trúc Ankor, trang trí xung quanh bằng những bức phù điêu hình vũ công, rất sống động, những ngọn tháp đã đánh dấu thời huy hoàng  của một đế chế xa xưa thuộc người Chăm, giờ đây đã lùi vào quá khứ, tôi mơ hồ như vọng nghe đâu đây có tiếng hát của Chiêm Nương đang tiếc nuối một thời vàng son đã chìm khuất, một thời oanh liệt đã phôi pha. Đứng bần thần, tâm tư đầy ngẩn ngơ, xao động, tôi nghe xa xa như có tiếng chiêng, tiếng trống lãng đãng giữa không gian, mênh mang, mênh mang....   

 Qui Nhơn còn có rượu Bàu Đá rất ngon, uống vào thật ấm lòng, thức ăn ở đây rất rẻ, có bánh xèo tôm nhảy rất hấp dẫn, nhất là hải sản tươi sống, các quán nhậu sát biển, hôm rồi tôi có dịp đến một quán ở cuối đường Xuân Diệu, tôi được thưởng thức món cá nướng tuyệt vời, ngon không chê vào đâu được, rồi mực hấp, rồi cá cuốn bánh tráng, cháo hải sản .v.v… món nào cũng đậm đà hương vị của miền biển Qui Nhơn, ăn một lần cứ thấy nhớ hoài, nhớ mãi, nhớ miên man.   



.Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Pleiku ngày 20.9.2020 .