BÌNH THUẬN VỚI
VÙNG BẢN LỂ
MIỀN ĐÔNG NAM BỘ
T ỉnh Bình Thuận theo địa lý tự nhiên thì phía tây, tây nam có đường giáp ranh với tỉnh Đồng Nai dài nhất. Trong tiến trình mở đất Đàng Trong có mối quan hệ rất lớn với vùng đất tỉnh Biên Hòa/Đồng Nai, theo Đại Nam nhất thống chí -tỉnh Bình Thuận, ghi như sau:“Năm Thành Thái thứ 12 (1900) mới đặt huyện Tuy Lý thổ huyện, năm 16 (1904) triệt bãi, đem tổng nông tang của huyện ấy tháp nhập vào huyện Tánh Linh (huyện Tánh Linh nguyên thuộc Đồng Nai Thượng tỉnh, năm ấy mới trích nhập tỉnh Bình Thuận). Năm thứ 17 (1905) lại trích phủ Di Dinh nguyên thuộc Đồng Nai Thượng tỉnh cho lệ nhập tỉnh Bình Thuận”(1).Với Địa chí Bình Thuận (xb.2006) thì xác định Bình Thuận là một tỉnh thuộc vùng đất cực Nam Trung bộ.
DẤU XƯA THỜI MỞ ĐẤT
Thế kỷ 17 dưới triều Lê thứ 27, Trịnh-Nguyễn phân tranh gây cuộc nội chiến dai dằng, dân tình xứ Đàng Trong với vùng đất khô kiệt nằm bên dãy Trường Sơn, phải còng lưng phục dịch, đói khổ nên tìm đường lánh nạn vào đất phương Nam. Lần lượt nhiều số nhóm lưu dân theo đường biển bằng thuyền nhỏ, tắp vào định cư ở Xích Thổ (Đất Đỏ), Mô Xoài (vùng Bà Rịa), rồi tiến dần lên Biên Hòa... Đến năm 1867 các tỉnh Nam kỳ trở thành nhượng địa của Pháp thì người kinh từ phía Nam và miền Trung mới di cư ngược lên vùng rừng núi Giao Loan, lưu vực sông La Nha (La Ngư, La Ngà)-phía nam Chiêm sơn tỉnh Bình Thuận. Đây là vùng đất phì nhiêu của các bộ lạc Chơ Ro, Mạ, Xtiêng, K’ho và xen kẻ có các nhóm nhỏ Êđê, Mnông, Chăm (Chăm H’roi), Khmer…Dân tộc ít người ở vùng cao hồi đó, người kinh gọi là người Man, Mọi sống theo các sách, buôn, thôn…Thời kỳ này, khi lực lượng Trương Định chống Pháp bị thất bại, tướng quân Phan Trung (Phan Cư Chánh), gốc quê làng Tấn Lộc, phủ Ninh Thuận, nuôi chí phục thù, chiêu mộ nghĩa binh nhưng giả chết, lui về ẩn danh ở vùng Giao Loan chờ thời cơ. Phan Trung chiêu mộ hơn 1.000 quân, lập thành 2 cơ và khai khẩn đất mới ở Tánh Linh để tự túc lương thực với diện tích rộng 3.000 mẫu. Trong “Bài biểu về việc xin khai khẩn đồn điền” năm Tự Đức thứ 30-1877” của doanh điền sứ Nguyễn Thông, có ghi dấu vết đó: “La Ngư phía đông bắt đầu từ núi Ông, phía tây núi Kỳ Tôn (Cà Tông), phía bắc đến bờ sông La Ngư, phía nam đến núi Ông. Ruộng đã khai khẩn khoảng hơn 3.000 mẫu”(2). Theo Đại Nam Nhất thống chí tỉnh Biên Hòa mô tả về địa thế:“tỉnh Biên Hòa, phía đông giáp biển cả, phía tây đến sơn man, phía nam giáp tỉnh Gia Định, phía bắc giáp tỉnh Bình Thuận, dựa vào núi, trông ra sông, nắm đất man, chặn chỗ hiễm….”. Năm 1866, thấy nguy cơ từ lực lượng nghĩa binh Phan Trung ở Tánh Linh, Pháp áp lực triều đình Huế buộc quan đầu tỉnh Bình Thuận phải giải tán, lệnh rút quân đi nơi khác và sáp nhập đất “người Mọi” ở Tánh Linh (1890) vào Biên Hòa (theo Địa chí Đồng Nai). Cùng theo làn sóng lưu tán đó, một nhóm giáo dân Quy Nhơn lánh vào đất Hàm Thắng, dựng nhà thờ Cù Mi năm 1887 (nay thuộc xã Tân Thắng- Hàm Tân) phát triển dân cư phía nam bờ biển Bình Thuận.
Theo Địa chí Đồng Nai (2001), nhân kỷ niệm 300 năm lấy dấu mốc hình thành là năm Mậu Dần 1698 khi vùng đất này thuộc lãnh thổ cai quản của Chúa Nguyễn. Nhưng từ khi trở thành nhượng địa của Pháp, tổ chức hành chính Nam Kỳ, Hạt Biên Hòa được xác lập gồm 17 tổng. Trong đó có các địa danh còn lưu lại trên phần đất phía nam Bình Thuận như tổng Phước Thành có các thôn Gia An, Trà Tân, Dõ Đắt/Võ Đắc…(nay thuộc huyện Đức Linh, Tánh Linh) và có tên tổng Bình Tuy (sau này là tên tỉnh mới Bình Tuy), bao gồm địa bàn Định Quán, Túc Trưng…(3).
CÒN ĐÓ NHỮNG ĐỊA DANH…
Thời kỳ VNCH, từ sau năm 1955, bản đồ hành chính tỉnh Bình Thuận với ranh giới được xác định cụ thể hơn. Theo ý đồ chiến lược quân sự của Mỹ, lập Đệ nhất Quân khu tương ứng cả Nam phần, từ Bình Thuận đến Cà Mau. Năm 1959 lập Quận đoàn III và đến 1961 cải tổ thành lập Vùng III chiến thuật, trong đó có tỉnh mới Bình Tuy (thành lập 1956), thuộc miền Đông Nam bộ và tỉnh Bình Thuận thuộc Vùng II chiến thuật (miền Nam Trung bộ). Bình Tuy có chung ranh giới với các tỉnh Bình Thuận, Lâm Đồng, Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu…Các địa danh Võ Đắt, Trà Tân, Gia An thuộc tổng Phước Thành và tên tổng Bình Tuy của hạt Biên Hòa trước đây, tiếp tục tồn tại trên đất Bình Thuận. So với thực tế, nhiều tên làng, xã mới cũ xen lẫn nhau, nhưng khoảng cách các địa danh xưa khá tách biệt để thấy đó là những man, buôn, sách cư dân bản địa lâu đời từng có mặt trên vùng đất hoang vu này.
Năm 1899, Toàn quyền Đông Dương thành lập quận núi Chứa Chan/Gia Lào (thuộc tỉnh Biên Hòa), quận lỵ đặt tại Gia Ray (Ông Đồn). Sau đó đổi thành quận Võ Đắc/Đắt. Đồng thời ra nghị định tách vùng thượng lưu Đồng Nai ra khỏi Bình Thuận để thành lập tỉnh Đồng Nai Thượng, tỉnh lỵ đặt tại Di Linh. Đến năm 1912, bãi bỏ quận Võ Đắc để thành lập quận Xuân Lộc, quận lỵ dời về thành phố Long Khánh ngày nay. Năm 1964, dưới chế độ VNCH, địa danh Võ Đắt/Đắc là quận lỵ Hoài Đức (Bình Tuy), về sau là huyện Đức Linh (Bình Thuận) đến năm 1983, huyện lỵ dời về thị trấn Võ Xu thì địa danh này không còn nữa.
Ngoài những địa danh xưa xuất hiện, vừa trên đất Đồng Nai vừa nằm ở phía nam Bình Thuận.Về đất đai thổ nhưỡng, lâm sinh, khí hậu của Bình Thuận và Đồng Nai cùng mang tính tương đồng ổn định. Rừng Lá Buông là nguồn thiên nhiên quý giá, đặc trưng ở khu vực Gia An, Suối Kiết, Láng Gòn (Bình Thuận) và từ chân núi Chứa Chan, Ông Đồn kéo dài đến Bà Tô-Xuyên Mộc (Đồng Nai), bao quanh chân núi Bể và núi Mây Tàu đã làm nên chiến khu hùng vĩ trong hai cuộc chiến tranh chống xâm lược. Năm 2018, xã Xuân Hòa, huyện Xuân Lộc (Đồng Nai) được tỉnh xếp hạng di tích lịch sử cho Khu căn cứ Rừng Lá. Theo sách “Gia Định thành thông chí”, vùng này có con sông được gọi là sông Lá Buôn (Bối Diệp giang). Tên gọi Lá Buông do từ rạch Lá Bôn, âm Nôm đọc là Buôn nhưng bản đồ thời VNCH 1965 ghi sai chính tả thành Sông Lá Buông và sử dụng quen thuộc đến sau này (4). Không những thế mà trong dân gian hai tỉnh còn có câu phong dao “Cơm Nai-Rịa, Cá Rí-Rang” (Cơm Đồng Nai-Bà Rịa, cá Phan Rí-Phan Rang) để chỉ giá trị độc đáo thổ sản của địa phương.
Bình Thuận có lợi thế chiều dài 192 km bờ biển, giàu tài nguyên thiên nhiên là tiền đề phát triển kinh tế-xã hội đầy
triển vọng và bền vững. Nhưng giá trị truyền thống “tụ nghĩa” của một vùng đất nhiều dân tộc, vùng miền cũng làm nên bản sắc
văn hóa rất riêng. Nghiên cứu về vùng giáp ranh với miền Đông Nam bộ thời khai khẩn đất hoang của lưu dân tứ xứ,
càng thấy được sức thuyết phục trong hòa nhập, nghĩa tình giữa các cộng đồng dân cư và các tộc người thiểu số bản địa
ở vùng đất tiềm năng này. /.
1-Đại Nam nhất thống chí (tập 12)-Nha VH-Bộ VHGD- VNCH,1965.
2-Nguyễn Thông, con người và tác phẩm-Nxb Tp HCM-1984, Trg 303
3-Theo Nam kỳ địa hạt Tổng Thôn…(1892)-Nxb. TH. Tp HCM -trg 25,.
4-Theo Gia Định thành thông chí-Nxb TH.Tp HCM-trg 145