Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM



KỲ THỨ V.


THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Việt Văn Mới xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Việt Văn Mới chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ,một bộ tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .

Từ Vũ

VvietartNewvietart 2004-2018
ViệtVănMới 25.6.2020 Troyes-France.



VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG







BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

♣♣♣

TIẾT 6

THẾ LỮ
(1907 – 1989)



Tên thật Nguyễn Đình Lễ. Trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan ghi Nguyễn Thứ Lễ. Theo tài liệu bà Nguyễn thị Khương, (vợ)- tên ông Nguyễn Đình Lễ. Bà cải chính nơi ông sinh trưởng ở Hà Nội, chứ không Lạng Sơn như trước đây lầm tưởng(11). Thế Lữ sinh năm 1907, ông là nhà thơ khởi xướng thơ mới. Thơ ông rất điêu luyện, chau chuốt; nhưng không phải loại thơ thanh xuân đô hội Xuân Diệu. Nhớ tiếc, u hoài, giọng thơ hoài cảm quá trình dân tộc hùng mạnh, nay đau xót sa trong nô lệ. Thơ ông nói lên hình tượng ấy. Đôi khi rất thống thiết như trong Nhớ Rừng. Tác phẩm đã xuất bản Mấy Vần Thơ (Đời Nay 1935), truyện như Vàng và Máu, Bên đường Thiên lôi, Trại Bồ Tùng Linh, Mai Hương và Lê Phong, Gói Thuốc Lá… Ông viết tiểu thuyết rất hay như trong Vàng và Máu. Nhận định về giá trị thơ, Hoài Thanh viết trong Thi Nhân Việt Nam:

“...Nhưng hình như có hồi Thế Lữ đã đi lầm đường. Bởi người ta nói quá nhiều nên thi nhân tưởng quê hương mình là ở trên trời và quên rằng đặc sắc của người chính là ở chỗ tả vẻ đẹp thực của trần gian...”

(Thi nhân Việt Nam)

Vũ Ngọc Phan không đồng ý kiến trên, cả quyết cho chủ ý viễn kiến nhà thơ đi trước thời đại và chính vẻ đẹp tưởng tượng đó bây giờ chưa có; nhưng sau này là vẻ đẹp trần gian vĩnh cửu.

Thành thật nhận rằng, Thế Lữ là nhà thơ mở đầu thơ mới thành công ở nước ta; vì chính ông mới là người gây được một phong trào thơ mới. Truyện dịch Liêu trai của Tản Đà mới đúng nghĩa dịch; còn Bồ Tùng Linh Thế Lữ là phóng tác. Giữa thơ và văn của ông, thì thơ Thế Lữ nổi đình đám hơn, nên người ta nhắc đến ông là nhắc đến thơ. Thế Lữ là nhà thơ chủ lực Tự Lực văn đoàn. Lập trường nhóm này có trong thơ ông không phải ít. Nhớ Rừng bộc lộ rõ rệt hướng thơ, toát ra tâm trạng đau đớn bằng lời nói con hùm bị gông cùm; lời than bằng thơ căm hờn có hàm ý cảnh tỉnh cơn u mê dân tộc hướng về cách mệnh. Thơ u hoài thời thế của ông thành công lớn lao.

Trích thơ:

NHỚ RỪNG

(Lời con hổ ở vườn Bách thú)

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,

Ta nằm dài trong ngày tháng dần qua,

Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ,

Giương mắt bé riễu oai linh rừng thẳm

Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,

Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,

Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi

Với cặp báo chuồng bên vô tư lự

Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ

Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa,

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,

Với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi

Với khi thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.

Trong hang tối mắt thần đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều êm hơi.

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.

Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?

Sau những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn

Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?

Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?

Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng

Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?

– Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu?

Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu,

Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang tầm thường, giả dối;

Hoa chăm, có xén, lối phẳng cây trồng;

Giải nước đen giả suối, chẳng thông dòng

Len những vách, những mô gò thấp kém

Dặm vùng lá hiền lành, không bí hiểm,

Cũng học đòi bắt chước cảnh hoang vu

Của chốn ngàn năm cao cả âm u

Hỡi oai linh cảnh nước non hùng vĩ!

Là nơi giống hùm thiêng ta ngự trị

Nơi thênh thang ta vùng vẫy ngày xưa,

Nơi ta không còn thấy được bao giờ!

Có biết chăng trong những ngày ngao ngán.

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn

Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

– Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!

(Trích Mấy Vần Thơ, tập mới)

THẾ LỮ

TIẾT 7

TÚ MỠ
(1900 -1976)


Tên thật Hồ Trọng Hiếu. Sinh ngày 14-3-1900 ở Hà Nội trong gia đình nghèo nàn. Sau làm công chức trong guồng máy thực dân Pháp thống trị đất nước. Ông là nhà thơ trào phúng, châm biếm có hạng. Giọng đùa cợt lả lơi, tinh ác, đôi khi đã có chút hơi nhỏ Tú Xương. Tác phẩm xuất bản: Giòng nước ngược (2 tập, Đời Nay 1941), Nụ cười kháng chiến 1952. Được giải thưởng thơ của Hội văn nghệ (VNDCCH) năm 1951. Nhóm Tự Lực văn đoàn có một Khái Hưng, Nhất Linh, Thạch Lam văn, lý luận Hoàng Đạo, thơ mớ Thế Lữ và Xuân Diệu, và Tú Mỡ trào phúng. Cũng như hai họa sĩ Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân trình bày, đến cả Nguyễn Cát Tường vẽ kiểu áo Lemur.

Vũ Ngọc Phan viết (12) về ông: “Thơ Tú Mỡ chính là những bài ca dao dài, có cú pháp rõ ràng, có những lớp tư tưởng rõ rệt, Tú Mỡ bao giờ dùng điển tích, hay nếu ông có dùng, cũng chỉ là những điển tích rất thường, rất dễ hiểu, phổ cập hết cả mọi người vô học đến người học thức, từ trẻ con đến ông già. Đọc thơ Tú Mỡ, mọi người đều lấy làm thú vị, tuy sức hiểu mỗi người có khác nhau. Thơ Tú Mỡ thật là thơ có tính cách Việt Nam đặc biệt...”

TIẾT 8

VŨ NGỌC PHAN
(1902 -1987)


Trước kia chúng tôi rất đỗi phân vân, khi phê bình Vũ Ngọc Phan, không biết nên ghép vào nhà văn biên khảo độc lập hay nhà văn cộng tác với Tự Lực văn đoàn. Nhưng sau, chúng tôi cho rằng Vũ Ngọc Phan; tuy không là nhà văn theo hẳn đường lối của Tự Lực văn đoàn, nhưng góp một phần lớn vào việc góp gió bốn phương cho tủ sách Gió Bốn Phương của nhà xuất bản Đời Nay và sự họp mặt với Tự Lực văn đoàn trong sinh hoạt văn nghệ, thì đương nhiên trở thành cộng sự viên nhóm ấy. Ông dịch tiểu thuyết vĩ đại của nhà văn cổ điển Nga, Léon Tolstoð qua cuốn Anna Karénine thì tất nhiên không còn lý do thắc mắc ông là nhà văn của Tự Lực văn đoàn nữa. Tác phẩm đã xuất bản: An-Na-Kha-Ninh Đời Nay xuất bản làm hai tập Tiễu Nhiên Mị Cơ. Năm 1942, ông viết bộ phê bình văn học Nhà Văn Hiện Đại gồm 4 tập, sau nhà Vĩnh Thịnh tái bản 5 tập, lần đầu Tân Dân ấn hành; Trên đường Nghệ thuật Nguyễn Du 1944), Ba Loại Văn Tân Dân 1944, Chuyện Hà Nội, bút ký…

Nói đến văn nghiệp Vũ Ngọc Phan, chỉ nên biết là nhà văn biên khảo, phê bình văn học giá trị. Còn sáng tác ít ai biết tới. Lối phê bình của ông chịu ảnh hưởng nhiều của Pháp, như André Maurois viết Études Littéraires. Phê bình văn học chia ra làm nhiều khuynh hướng, phương pháp phân tích dẫn giải đã khoa học; nhưng cũng tùy hứng. So với các nhà phê bình văn học cùng thời như Thiếu Sơn, Trương Chính, Lan Khai, Trương Tửu, Hoài Thanh, thì Vũ Ngọc Phan viết có hệ thống hơn cả. Phải nhận rằng ngành phê bình thời trước ở trong tình trạng sơ đẳng, làm sao có thể so sánh với ngoại quốc, chẳng hạn lối phê bình các nhà văn Âu Châu: Benjamin Goriély viết Sciences des lettres soviétiques (tạm dịch: Thành tựu Văn chương Xô Viết), André Gide và Stéphan Zweig viết về Dostoievski, Biélinsky viết Rêverie littéraire (tạm dịch: Giấc mơ Văn chương), R.M. Albérès viết La révolte des écrivains d’aujourd’hui (tạm dịch: Cuộc cách mạng của Nhà văn Hôm nay), giải thưởng Saint Beuve. Trong lịch sử văn chương của ta tiền bán thế kỷ hai mươi, chưa ai có công hơn Vũ Ngọc Phan. Năng khiếu nhận định văn học phê phán, tỷ mỷ có khoa học, không thiên vị là bao! Phê bình Nhà văn hiện đại, tập I, ông L.H.V(13) trên tuần báo Thanh Nghị (số 24, ngày 1-11-1942) rất xác đáng và thiết tưởng rằng đó là nhận xét tinh vi, khi nói đến Vũ Ngọc Phan: không khám phá được thiên tài mới lạ, mà chỉ phê bình nhà văn quen biết thôi. Phê bình tập đầu Nhà Văn hiện đại là phê bình chung trọn bộ:

“...Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là một cuốn sách phê bình sẽ được mọi người chú ý, vì một lẽ giản dị là các nhà văn có tên trong sách, chúng ta vẫn còn quen biết ít nhiều. Nếu các ngài muốn tìm được một thiên tài mới lạ bị người đời không biết đến, thì các ngài sẽ thất vọng. Ông Vũ Ngọc Phan sẽ không phát minh, ông chỉ nói đến những văn phẩm đã được người đồng thời chú ý…

Ông bỏ lối phê bình đại cương, mà dùng phân tích tỷ mỷ. Lối phê bình đó, vốn để dạy học thì rất tốt. Có một thú riêng, nhưng lại có hại là tác giả phải nhắc đi nhắc lại một ý kiến và để cho độc giả có cảm giác rằng ở ông Phan không bao quát được hết văn nghiệp của người ông định nói. Nhưng dù thế nào, cuốn sách của ông Vũ Ngọc Phan tất cũng để lại trong lòng độc giả vô cùng hứng thú...”

Ý kiến trên đây thì chúng tôi rất đồng ý, một phân tích tỷ mỷ hầu hết về các nhà văn rất có lợi cho ai muốn dễ dàng tìm hiểu về một tác giả. Lẽ thứ, hai là không tìm được nhà văn có tài bị quên lãng; một khi không được nhà phê bình đồng thời nhận biết đến; có thể thiên tài bị mai một, mất phấn khởi, bỏ dở nghiệp, hoặc người phê bình lớp sau sẽ không bao giờ còn cơ hội tìm thấy. Một Dostoevskð nổi tiếng nhờ được nhà phê bình đại tài Biélinsky khám phá. Cũng như một Maðakovski trong nhóm Tương Lai gồm Essénine, Boris Pasternak, do Maxime Gorki khám phá, khích lệ, vun xới. Chúng tôi không tin rằng thời tiền chiến không bị bỏ sót thiên tài. Tuy nhiên, người ta không thể đòi hỏi nhiệm vụ ở ông Phan quá nhiều, và lấy cớ tại sao ông không tìm được thiên tài; như thế tự đặt cho ông một cương vị quá lớn, một trách nhiệm quá nặng nề. Tình trạng đáng trách là tình trạng chung cho một thế hệ nhà văn đàn anh lớp trước có quá ít, nhà phê bình văn học đầy tâm huyết với nền văn chương Việt Nam.

TIẾT 9

KẾT LUẬN VỀ TỰ LỰC VĂN ĐOÀN


Phê bình đường lối chủ trương Tự Lực văn đoàn, nhà phê bình có học tiền chiến như Dương Quảng Hàm (giáo khoa) Vũ Ngọc Phan; chúng tôi bắt đầu trích đoạn của ông Phan nhận định khi viết về Khái Hưng. Ông Phan cho biết: “...Cùng loại tiểu thuyết phong tục với Khái Hưng, là Trần Tiêu và Bùi Hiển…” Khái Hưng đang sung sức sáng tác, nên ông Phan viết tiếp:

“...Về văn trước kia, người ta thấy ông viết giọng bay bướm, thường hay nhiều lời bây giờ ông viết một lối thật bình dị, thật sáng suốt, thích hợp với những ý tưởng chín chắn của một tiểu thuyết gia có nhiều lịch duyệt. Bây giờ người ta chưa thể đoán được bước đường tiến hóa của tiểu thuyết Khái Hưng, nhưng đến nay người ta thấy loại trội nhất của ông là loại tiểu thuyết phong tục. Như vậy đặt ông vào loại hay nhất của ông cũng không có gì quá đáng...”.

Ý kiến của ông Phan là như thế, còn chúng tôi ra sao, đã phân tích ở tiểu mục nói về Khái Hưng. Đến Nhất Linh, linh hồn của nhóm, Vũ Ngọc Phan viết: “...Nhất Linh cũng có tài viết chuyện ngắn, nhưng so với chuyện dài của ông, chuyện ngắn của ông không bằng. Ông vốn có tư tưởng dồi dào, lối văn ông lại vừa giản dị, vừa đài điếm nên chỉ có truyện dài ông mới bày tỏ hết tài nghệ của ông. Đọc Nhất Linh trước đến nay, người ta thấy tiểu thuyết của ông biến hóa rất mau. Từ cái tôi còn cổ lỗ như “Nho Phong”, tiểu thuyết của ông đã đi vào loại tình cảm, rồi đi thẳng vào lối tiểu thuyết luận đề là một lối rất mới ở nước ta. Đến nay, trong loại tiểu thuyết của Nhất Linh vẫn là những tiểu thuyết chiếm địa vị cao hơn cả. Những tiểu thuyết của ông đã không chịu ở yên cái địa vị ấy, rồi không biết tiểu thuyết của Nhất Linh sẽ còn đi đến những loại gì nữa, vì xem ra loại nào tác giả cũng muốn sở trường..."

Đó là nhà văn nòng cốt Tự Lực văn đoàn. Đến Hoàng Đạo, nhà văn lý luận của nhóm, Vũ Ngọc Phan viết: “Hoàng Đạo là một nhà văn sở trường về nghi luận”. Đến Trần Tiêu: “Trong tiểu thuyết của Trần Tiêu bao giờ cũng là người dân quê nghèo khổ mà mê tín. Người dân quê của ông là những người bị xiềng xích trong hủ tục nghèo… là nhà văn cho chúng ta thấy cái mặt kém cỏi người dân quên Việt Nam…”

Vừa nhận định lời phê phán Vũ Ngọc Phan về Tự Lực văn đoàn, đây là ý kiến của nhà học giả giáo khoa, ông Dương Quảng Hàm viết về Tự Lực văn đoàn trong cuốn Việt Nam Văn Học Sử Yếu. Trích đoạn khách quan lại trình bày có ý kiến riêng:

“...Đối với phong tục cũ của ta, phái ấy (Tự Lực văn đoàn) đều nhất thiết cho hủ là đáng bỏ, thành ra có tục không đáng công kích mà cũng công kích. Vả chăng, có nhiều tập tục tuy xét về phương diện này thì có hại, nhưng về phương diện khác không phải là không hay: phái ấy có thành kiến sẵn nên chỉ trông thấy chỗ dở mà không nhận thấy điều hay, thành ra trong sự mô tả, phán đoán, có phần thiên lệch. Tỷ dụ tục đàn bà góa chồng ở vậy thờ chồng nuôi con. Đành rằng tục ấy làm cho một số người đàn bà trẻ tuổi mà muốn tái giá vì cũng có người thực bụng không muốn tái giá, nhưng sợ dư luận hoặc muốn giữ gia phong mà chịu cảnh lẻ loi, lạnh lùng, tức là phải hy sinh hạnh phúc cá nhân, song cũng nhờ tục lụy ấy mà biết bao nhiêu gia đình đáng lẽ sau khi gia trưởng chết, rồi phải lâm cảnh "vỡ đàn tan nghé" biết bao nhiêu đứa con mồ hôi cha đáng lẽ chịu số phận hẩm hiu vẫn được đoàn viên vui vẻ. Thật là cái tục ấy đã gây nên bao điều xả thân, biết bao nhiêu người mẹ cảm phục. Xem thế thì biết trong sự phán đoán các tập tục xưa ta cần phải đắn đo, cẩn thận và xét cả mọi phương diện khỏi sai lầm...”

Trương Tửu lên án Tự Lực văn đoàn gay gắt, Trương Chính khen Tự Lực văn đoàn hết nhẽ, Đào Duy Anh cũng có nhận định về văn chương Tự Lực văn đoàn (riêng ông này chưa đọc kỹ cho nên trong Việt Nam văn hóa sử cương, ông nhầm lẫn tác phẩm của người này với người kia). Giá trị của Tự Lực văn đoàn dầu sao, vẫn công nhiên phải nhận. Hai lẽ: thứ nhất, dù hành động chính trị thống trị tạo nên chăng nữa; vì Trương Tửu cho linh mục Cras (Đỗ Minh Vọng) đỡ đầu Tự Lực văn đoàn (cả tinh thần và hiện kim) thì vẫn có công trong việc tu bổ văn chương chúng ta một lối tiểu thuyết mới mẻ, thơ mới giá trị, nổi bật vào thời ấy. Thứ hai với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ Xuân Diệu, đều là những người có công lớn với lịch sử văn nghệ tiền chiến.


CÒN TIẾP ...