“ĐI TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT”
VỚI MARCEL PROUST
KỲ THỨ II
L ưu ức và hồi ức hay hai loại ký ức, theo Proust (*)
Đoạn văn nói về mùi vị chiếc bánh madeleine và hai loại ký ức nằm ở phần đầu của tập một mang tựa đề « Du côté de chez Swann » trong toàn bộ « A la recherche du temps perdu » gồm bảy tập truyện của Proust. Đoạn văn này được dùng làm phần mở đầu cho toàn bộ tác phẩm vì ta có thể coi nó như chìa khóa mở cửa giúp cho độc giả vào được hang động nơi ẩn dấu kho tàng bí mật của Proust. Gọi là chìa khóa mở cửa bởi vì, như đã trình bày ở trên, toàn bộ truyện của Proust được xây dựng trên sự phân biệt giữa hai loại ký ức : loại lưu ức hay trí nhớ (mémoire volontaire ou mémoire de l’intelligence) là những gì ta cố ý giữ lại bằng trí tuệ và loại hồi ức tức là những gì được tàng trữ trong kho ký ức ngoài ý muốn của ta vì thuộc về thế giới cảm xúc (mémoire involontaire ou affective).
Sự phân biệt hai loại ký ức này chưa hẳn đã là phát hiện của Proust, cái được coi sáng tạo của Proust chính là ông đã nêu ra được tính vượt trội của loại lưu ức không chủ ý do cảm xúc hay hồi ức so với loại lưu ức tức là các sự kiện ta muốn lưu giữ và có thể dễ dàng tìm lại bằng trí nhớ ( theo nghĩa thông thường của từ mémoire trong từ điển.) Có lẽ để lưu ý người đọc về tính ưu việt của của loại hồi ức không chủ ý này nên một số sách giáo khoa mới chọn cho đoạn văn cái tiểu đề « Một cõi nhân sinh trong một tách trà » (Un univers dans une tasse de thé) nhằm mượn lời Proust để nhắc nhở ta rằng, chỉ nhờ cảm giác hay cảm xúc tình cờ (như mùi vị bánh madeleine tẩm trà) mà tất cả những gì thuộc về đời sống tâm linh ta cảm nhận được trong tiếp xúc với thế giới bên ngoài và bị vùi lấp trong tiềm thức mới thức dậy trọn vẹn. « Và ngay khi tôi cảm nhận lại được mùi vị của miếng bánh madeleine tẩm trà ti ơn (tilleul) bà dì đưa cho tôi, tức thời căn nhà cũ kĩ màu xám trên lề phố nơi có căn phòng của tôi…, và cùng với căn nhà là thành phố, cái Công trường tôi được phép tới chơi trước bữa ăn trưa, những con phố mà tứ thời và bất kể thời tiết ra sao tôi được phái đi mua đồ trong ngày, những con đường mà chúng tôi thường đi dạo những buổi đẹp trời. Và cũng như trò chơi ưa thích của người Nhật khi họ đem nhúng vào một chậu sứ đầy nước những mẩu giấy vụn hỗn độn, nhưng khi vừa được ngâm trong nước bỗng trỏ nên có hình thù, mang màu sắc, trở thành những bông hoa, những ngôi nhà, những nhân vật mang sắc diện. Với tôi cũng vậy, những bông hoa vườn nhà hay trong công viên của ông Swann, và những bông xúng trên con sông Vivonne, rồi những bà người làm giúp việc với túp lều tranh của họ, rồi nhà thờ và toàn thể Combray với phụ cận, từng bấy thứ đó, thành phố và vườn tược, từ tách trà của tôi dần dà hiện lên để trở thành hiện thực. » ( Et dès que j’ai reconnu le gout du morceau de la madeleine trempé dans le tilleul que me donnait ma tante, aussitôt la vieille maison grise sur la rue… ; et avec la maison, la Place où on m' envoyait avant déjeuner, les rues où j'allais faire des courses depuis le matin jusqu'au soir et par tous les temps, les chemíns qu'on prenait si le temps était beau. Et comme dans ce jeu où les Japonais s'amusent à tremper dans un bol de porcelaine rempli d'eau de petits morceaux de papiers jusque-là indistincts qui, à peine y sont-ils plongés se tirent, se contournent, se colorent, se différencient, deviennent des fleurs, des maisons, des personnages consistants et reconnaissables, de même toutes les fleurs de notre jardin et celles du parc de M. Swann, et les nymphéas de la Vivonne, et les bonnes du village et leurs petits logis et l’église et tout Combray et ses environs, tout cela qui prend forme et solidité, est sorti, ville et jardins, de ma tasse de thé. (Du côté de chez Swann, coll. Bouquins, vol. 1, p. 59).
Nhưng tính chất sáng tạo của Proust không phải có vậy, không chỉ giới hạn loại hồi ức không chủ ý vào khả năng khai quật kho tàng dĩ vãng mà còn nói lên được thực chất của kho tàng vô giá đó . Ta hãy trở lại với đoạn văn Proust nói về cảm xúc hoan lạc tràn ngập nơi ông khi mới nhấp vào vị bánh madeleine : « Một khoái cảm tuyệt vời , lẻ loi, không rõ từ đâu tới tràn ngập nơi tôi. Nó làm tôi không còn mảy may vương mắc về những thăng trầm hệ lụy của đời người ngắn ngủi ; và, cũng như hiệu lực của tình yêu, khoái cảm đó khiến tôi như vừa được rót đầy bởi một tinh thể quí báu : hay đúng ra cái tinh thể đó không phải trong tôi, nó là chính tôi . Tôi hết cảm thấy mình chỉ là một ngẫu vật tầm thường, mà trở thành bất tử. » (Un plaisir délicieux m’avait envahi, ísolé, sans la notion de sa cause. Il m’avait aussitôt rendu les vicissitudes de la vie indifférentes, ses désastres inoffensifs, sa brièveté illusoire, de la même façon qu’opère l’amour, en me remplissant d’une essence précieuse : ou plutôt cette essence n’est pas en moi, elle était moi. (NBH gạch chú). J’avais cessé de me sentir médiocre, contingent, mortel. Sdd, tr. 57). Cái khoái cảm tuyệt vời ấy, tưởng chỉ trong giây lát ai ngờ lại chính là thiên thu, bởi vì không chỉ độc nhất có mùi vị bánh madeleine nhúng trà mới làm dấy lên nơi Proust cảm giác hoan lạc ấy. Trong một vài hoàn cảnh khác với những tác nhân khác : mấy nốt nhạc của bản sonate Vinteuil, bước chân hụt hẫng do phiến đá lồi lõm của một vỉa hè, tiếng lanh canh của chiếc thìa nhỏ va chạm với cái dĩa…, trong những trường hợp ấy Proust vẫn gặp lại cảm xúc hoan lạc tương tự. Biến cố này, rất có thể mỗi chúng ta có bắt gặp ít ra đôi ba lần trong đời. Nhưng vì chúng chỉ thoáng hiện mong manh chập chờn, nên ta dễ lơ là bỏ rơi chúng để vội vã chạy theo những ảo ảnh hào quang lấp lánh ở đời. Với Proust, trái lại, ông đã tìm cách chụp bắt nó, níu kéo nó, tìm cách cố giữ nó lại để phân tích đào sâu tìm hiểu. Nhờ vậy ông đã phát hiện được rằng những cảm xúc ta tưởng mong manh phù ảo ấy lại chính là hiện thực mang chân tính đời sống, mới chứa chất cái tinh thể vạn vật (l’essence des choses, chữ của Proust) nên chúng mới đem lại được cho ta niềm hoan lạc thuộc về vĩnh hằng.
Tới đây tôi thấy có vài điểm cần được làm thêm sáng tỏ liên quan đến một bài viết khá hiếm hoi cũng nói về tác phẩm « A la recherche du temps perdu » mà tôi đã được đọc trước đây. Đó là bài viết của nhà phê bình Thụy Khuê mang tựa đề : MARCEL PROUST (1871-1922), đăng trên tạp chí VĂN số 37&38 tháng Giêng&Hai 2000, (tr.204-210). Bài viết khoảng bảy trang là một tài liệu hữu ích cho những ai muốn có một cái nhìn khái quát về thân thế sự nghiệp và một khái niệm đại cương về tác phẩm của ông. Nhưng để nói lên giá trị tư tưởng của ông, cũng như nội dung sâu sắc của tác phẩm, mà chỉ tóm lược trong vài hàng ngắn ngủi như : « Proust tạo nên một thế giới thăng hoa nhiều ngành nghệ thuật của nhiều thời, trong sự kết hợp hai yếu tố vô cùng xa nhau :hiện thực và mộng tưởng, để đạt tới mục đích cuối cùng : Tìm lại thời gian đã mất » ; hoặc « Thời gian là cuốn sử thi của cuộc đời, là kho tàng bí mật bị bỏ quên. Nhờ nguồn chảy của ký ức, nhà văn phục hồi dĩ vãng. Đó là ý nghĩa sâu xa nhất của tác phẩm Đi Tìm Thời Gian Đã Mất ». (Bdd, tr.204-205), tôi e rằng có thể gây ngộ nhận khiến người đọc khó nắm được những điểm then chốt nói lên sự tìm tòi sáng tạo của Proust.
Trước hết, nếu quả thực trong tác phẩm Proust có kết hợp hai yếu tố vô cùng xa nhau là hiện thực và mộng tưởng thì, theo tôi hiểu, không gian văn học proustien chưa hẳn là sự kết hợp hai yếu tố vô cùng xa nhau : hiện thực và mộng tưởng, theo nhận định của bài phê bình. Trái lại, hai yếu tố này Proust đem kết hợp không cốt để đói nghịch chúng với nhau, mà chủ yếu nhằm giải ảo cho ta về điều mà trong cuộc sống hàng ngày ta vẫn quen đối nghịch cái thực với cái hư (hay ảo) hoặc cái chân với cái giả. « Thực » là thực, « hư » là hư, hai yêu tố ấy bao giờ chẳng chống đối nhau, rành rành như trắng với đen, như ngày với đêm, sao lại nói Proust đem ra giải ảo ? Giải ảo cái gì cơ chứ ? Vâng, quả đúng là vậy. Đúng là thực và hư có đối nghịch nhau, như ngày với đêm, như ánh sánh với bóng tối, theo nghĩa từ điển, hoặc với cái nhìn quen thuộc của ta bằng cái nhìn của giác quan hay trí óc trong cuộc sống hàng ngày. Nhưng có chắc cái gì sờ sờ trước mắt ta bao giò cũng là thực, còn cái gì chập chờn, khi ẩn khi hiện cũng đều là ảo không ? Để có câu trả lời chính xác, đề nghị hãy xét một trường hợp cụ thê như sau : Buổi sáng, thức giấc ta thấy mặt trời mọc ở phương Đông, buổi chiều lại thấy nó lặn ở phương Tây. Rành rành như hai năm rõ mười ai mà chẳng thấy. Giả dụ có ai còn quả quyết rằng trái đất chính là trung tâm của vũ trụ và mặt trời phải xoay quanh trái đất, sẽ không thiếu gì mấy em học sinh tiểu học cười cho thúi mũi ra. Ấy vậy mà đầu thế kỷ thứ 16, có nhà bác học tên Gallilée suýt bi lên giàn hỏa thiêu vi đã phủ nhận điều này, được coi là chân lý giáo điều của thời đại ông sống. Cũng may nhờ ông là một nhà thiên văn học xuất chúng, nên mới thoát khỏi nạn bị thiêu sống sau khi chịu nhìn nhận là mình đã lầm và công khai tuyên bố rằng chính mạt trời xoay quanh trái đất, chứ không phải ngược lại . Tuy nhiên khi một mình trong phòng, ông vẫn không ngừng lẩm bẩm : Vậy mà nó (trái đất) vẫn quay, vẫn quay cơ mà” (Et pourtant elle tourne, elle tourne). Vậy có phải cái gì vẫn sờ sờ ta thấy rõ bằng hai con mắt đều là thực, và cái gì không đập vào thi giác của ta đều là hư, là ảo?
Với thê giới tư nhiên mà đã có những hiện tượng dẫn đến lầm lẫn to tổ bố như vậy, nói chi đến cõi sống thế gian với nhứng con người cái lưỡi không xương nên nhiều đường lắt léo? Bộ tưởng tôi nói láo sao? Không tin cứ nhìn vào diễn biến thời cuộc gần đây la thấy liền. Sụ tích kể rằng, cũng không xa lắm đâu, mới thế kỷ trước thôi, có một nhân vật xuất chúng tự cho mình là sứ giả của trời được phái xuông cõi trần đê đem lại cơm no áo ấm cho thập loại chúng sinh còn phải trầm luân trong cõi trần ai bể khổ. Để thực hiện sứ mạng, ông ta chủ trương xây dựng một xã hội lý tưởng trong đó con người sống bình đẳng, ăn ở với nhau có tình có nghĩa trong tinh thần tương trợ làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu. Để thực hiện sứ mạng, ông bắt đầu bằng công việc của bất cứ nhà canh tác chuyên nghiệp nào, nghĩa là dọn cỏ cho sạch trước khi gieo hạt giống mới. Cũng may là công tác còn dang dở, ông đã được triệu về chầu trời, để lại biết bao thương tiếc cho đám đệ tử cuồng tín của ông. Chả thế mà có một nhà thơ, để tỏ lòng thương tiếc, đã vắt kiệt con tim, nặn hết chất xám trong óc để viết ra bài văn tế rồi khóc rống lên như sau: “ Thương cha thương mẹ, thương chồng ; Thương mình thương một, thương ông thương mười” Mãi khi phát hiện được rằng ông ta là một chúa trùm đồ tể đã đưa vào lò sat sinh hàng triệu con người, ai nấy đều té ngửa, muốn té đái ra quần luôn. Nhưng đâu có phải chỉ ở phương Đông và ở thế kỷ trước mới có chuyện này. Lịch sử là một sự tái diễn không ngừng mà. Thí dụ như mới đây lãnh tụ của một đất nước nghe đâu được một số không ít đệ tử tôn lên hàng minh chúa, vì khi ra tranh cử ông hứa hẹn đủ đièu. Nhưng khi nắm được quyền hành rồi, ông lại hành động tiền hậu bất nhất, nói một đằng làm một nẻo. Khi đại dịch covid-19 bắt đầu lây lan, và mặc dù đã được cảnh báo, ông không mảy may quan tâm đến chuyện đề phòng đối phó. Đến khi người dân chết lăn ra như rạ, ông lại chăm chăm lo điểm mặt, nêu đích danh thủ phạm để chứng tỏ ông không có trách nhiệm gì trong vụ việc này. Vậy là nay đã biết thủ phạm rồi nhé. Ai muốn kiện tụng gì cứ việc làm đơn đi kiện củ khoai, hay đúng ra là ông chủ tịch Hội y tế quốc tế (WHO) về tội âm mưu đồng lõa, đã nhắm mắt làm ngơ để cho thủ phạm tự do gieo rắc vi khuẩn gây chết chóc trên toàn thê giới. Ôi dào, đời là thế đó! Càng văn minh tiến bộ bao nhiêu, con người càng bị lôi kéo vào vòng kim cô huyền ảo hư hư, thực thực của trí tuệ ảo (intelligence artificielle) bấy nhiêu, khó mà lường được đâu là cái giả, đâu là cái chân (cái « chân » theo nghĩa « chân, thiện, mỹ », chứ không phải là cái « cẳng » đó nghen, bà con). Về phần Marcel Proust, tuy còn chưa được gia nhập thế giới văn minh tiến bộ của thời đại chúng ta, nhưng được chứng kiến những màn trình diễn ảo thuật xập xí xập ngầu của xã hội thượng lưu thời bấy giờ cũng đủ làm ông buồn nản. Bởi thế ông mới dành gần hai mươi năm quãng đời còn lại để đi tìm cái ý vị, cái bản thể chân chất của cuộc sống cội nguồn, tức là cái « chân »m cái « thực » thuộc về cõi vĩnh hằng. Và đó cũng là mục tiêu của Proust trong nỗ lực « Đi tìm thời gian đã mất ».
Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Proust lại không coi thời gian là cuốn sử thi cuộc đời, là kho tàng bị bỏ quên. Nhờ nguồn chảy ký ức, nhà văn phục hồi dĩ vãng được. Bởi vì Proust không coi ký ức như một con suối, mà nếu chịu khó lội ngược dòng, ta có thể tìm ra ngọn nguồn của nó. Proust không cho ký ức là vậy, nên ông mới phân điều mà ta vẫn quen gọi là « trí nhớ » ra thành « mémoire volontaire » hay « lưu ức » và « mémoire affective » hay « hồi ức », như đã trình bày ở trên. Lưu ức là nơi dòng nước suối bắt đầu chảy ra, chứ không phải là mạch nguồn của nó. Chỉ có phần « hồi ức » hay « mémoire affective » mới là mạch nguồn, nhưng lại ẩn sâu trong lòng đất mà, chỉ bằng giác quan hay trí tuệ, ta không thể nhìn thấy được nếu không nhờ vào một may mắn tình cờ nào đó. Và sự may mắn tình cờ ấy là do cảm xúc đem đến. Không nhờ nó, ta sẽ không bao giờ tìm lại được cái « kho tàng bỏ quên ». Bởi vậy, « kho tàng bị bỏ quên » theo Proust, không phải những gì ta biết là của ta, thuộc về ta nhưng có lúc bị trí nhớ quên đi, không còn nhớ tới nên trở thành bí mật. Trái lại nó trở thành bí mật vì bị bỏ quên theo đúng nghĩa bị bỏ quên, nghĩa là do ta lơ là hoặc coi thường không quan tâm tới nó khiến nó trở thành thất lạc, nhưng không hề là thất thoát vói ta. Chỉ thất lạc mà không hề thất thoát vì kho tàng kỷ niệm ấy không hề bị loại ra khỏi bộ nhớ hay vùng ký ức của ta. Nhưng vì do sự vô tâm hay vô tình của ta, nên nó bị bỏ rơi vào quên lãng, mỗi lúc một thêm sâu để cuối cùng bị dồn xuống tận cùng của cõi vô thức. Tuy nó vẫn thuộc về đời sống tâm linh của ta, nhưng vì bị ta lơ là bỏ rơi nên dần dà nó hầu như hoàn toàn bị loại ra khỏi vùng trí nhớ của ta. Và từ thất lạc nó có thể trở thành thất thoát, nếu như không nhờ một ngẫu nhiên tình cờ nào đó giúp ta phát hiện ra nó, để ta được sống lại những cảm xúc đẹp đẽ của cả một khung trời kỷ niệm. Đó là trường hợp khi Proust được nhấp vào miếng bánh madeleine được tẩm trà tilleul do dì Léonie trao cho. Đã từ lâu, vẫn quen nhìn những chiếc bánh này được bày trong tủ kính của các tiệ m bánh ngọt, nên chúng chẳng chẳng đem lại cho Proust một cảm xúc nào. Nếu không nhờ mùi vị của miếng bánh ấy được tẩm trà, có lẽ không bao giờ Proust có cơ hội được sống lại trọn vẹn những cảm xúc êm ái của thời niên thiếu tại Combray
Điều này, Proust nói rất rõ trong một phân đoạn ngắn được đặt trước trích đoạn nói về mùi vị chiếc bánh madeleine : « Cái (dĩ vãng ấy) ta có tìm cách mấy để gợi lại cũng chỉ hoài công mà thôi, mọi nỗ lực bằng trí tuệ đều vô ich.. Cái kho tàng bí mật ấy không được cất dấu nơi trí tuệ nên không nằm trong tầm tay trí tuệ, mà lại ẩn dấu trong một vật thể nào đó ta không có ngờ (nếu như không nhờ vào cảm xúc tình cờ do vật thể đó làm sông dậy nơi ta). Vậy mà cái vật thể ấy lại chỉ do tình cờ ta mới biết được, bằng không có thể tới mãn đời ta vẫn không gặp được nó. » (C’est peine perdue que nous cherchions à (…) évoquer (ce passé), tous les efforts de notre intelligence sont inutiles. Il est caché hors de son domaine et de sa portée en quelque objet matériel (en la sensation que nous donnerait cet objet). Cet objet, il dépend du hasard que nous le rencontrions avant de mourir, ou que nous ne le rencontrions pas.- Du côté de chez Swann. Coll. Bouquins, vol.1, p.58). Proust đặt phân đoạn ở vị trí này là do ý nghĩa đặc biệt quan trọng của nó về mặt tìm tòi sáng tạo, ít nhất cũng theo ông.
Vai trò của hồi ức trong nỗ lực tìm tòi sáng tạo. (*)
Trước hết, ông không chỉ muốn lưu ý ta về sự khác biệt giữa hai loại ký ức ông định nói tới, mà chủ ý nhấn mạnh rằng, với ông, chỉ có cảm xúc (la sensation) mới là công cụ hữu hiệu cho tìm tòi sáng tạo. Trái với hầu hết các tác giả thường dựa trên những điều quan sát và dùng kiến thức theo kinh nghiệm hay do học hỏi để dựng nên tác phẩm, Proust lại coi trí tuệ chỉ có một khả năng hạn hẹp trong việc truy tầm sự thật : « Những ý tưởng thuần trí tuệ chỉ đem lại một sự thật hợp lý, một sự thật khả hữu, vì sự lọc lựa các ý tưởng ấy đều mang tính chất võ đoán… Không phải vì các ý tưởng của ta không đúng theo luận lý, nhưng ta không thể biết rằng chúng có thật hay không. » (Les idées formées par l’intelligence pure n’ont qu’une vérité logique, une vérité possible, leur sélection est arbitraire… Non que ces idées que nous formons ne puissent être justes logiquement, mais nous ne savons pas si elles sont vraies.(Le temps retrouvé – coll Bouquins. Vol.3, p.713).
Có thể coi hai câu văn trích lại trên đây nằm trong số những câu văn hiếm hoi được coi là ngắn gọn, sáng sủa nhất của Proust. Nhưng dù có ngắn gọn và sáng sủa, ý tưởng của chúng lại cô đọng, nội dung lại súc tích nên ta cũng cần thêm một vài giải thích để làm rõ nghĩa. Cái điều cần làm sáng tỏ ở đây là thế nào là đúng (justes), thế nào là thật (vraies) ? Tại sao có những ý tưởng có thê đúng mà lại không thật ? Đúng là khi các ý tưởng hay các dữ kiện được lựa chọn sắp xếp sao cho đáp ứng được đòi hỏi hợp lý hợp tình theo suy luận chủ quan. Tuy nhiên cái hiện thực trình bày như thế có thể được coi là đúng theo trí tuệ, lại chưa hẳn đã là thật vì chắc gì nó đã phản ánh đúng thực tế ở đời. Để nắm cụ thể hơn sự khác biệt giữa đúng và thật, ta hãy tới dự phiên chót của một vụ án hình sự. Mở đầu là bản cáo trạng của ông biện lý. Qua những dữ kiện, bằng chứng nêu ra rồi được ông biện lý phân tích, lý giải trước khi đi đến kết luận, ta không khỏi nghĩ thầm bị cáo chắc là có tội và sẽ khó tránh khỏi hình phạt tối đa. Rồi tới phiên luật sư đứng ra bào chữa. Ông ta lấy lại hầu hết các dữ kiện của ông biện lý nhưng lại trình bày chúng duới một góc cạnh khác, đôi khi còn chưng thêm một vài dữ kiện mới rồi, bằng lời lẽ hùng hồn, ông ta lần lượt bác bỏ từng điểm một các luận cứ của ông biện lý. Thế là ông luật sư lại làm ta phân vân tự hỏi chắc gì bị cáo đã có tội. Rút cục ta đâm hoang mang không biết đâu là sự thực.
Ta hoang mang cũng phải vì cả ông biện lý lẫn ông luật sư đều là những nhân vật rành rẽ luật pháp, dồi dào kinh nghiệm nên biết vận dụng trí tuệ để lọc lựa và bố trí các dữ kiện sao cho gợi lên một hình ảnh vè bị cáo phù hợp với nhiệm vụ họ được giao phó : hình ảnh một tội phạm với ông biện lý, hình ảnh một kẻ vô tội với ông luật sư. Nhưng các dữ kiện được họ lọc lựa với lý lẽ đi kèm đều mang tính chất chủ quan độc đoán (leur sélection est arbitraire, chữ của Proust) nên không giúp ta nhìn ra được sự thật trọn vẹn. Bởi vậy, dẫu có thông minh tài giỏi và hiểu biết nhiều, mấy vị này lại chỉ có tài nói đúng hơn là nói thật (cũng như một số chính khách và đôi khi có cả mấy ông nhà văn, nhà báo nữa). Khổ một nỗi luật pháp không đóng vai trọng tài để phân định kẻ thắng người thua trong một cuộc tranh luận trổ tài đấu lý. Luật pháp có sứ mạng thi hành công lý nên chỉ muốn biết sự thật để phân xử công minh, mà sự thật ở đời lại thường có nhiều uẩn khúc éo le không dễ gì ánh sánh trí tuệ soi rọi được tới nơi tới chốn. Bởi vậy, trong những vụ án quan trọng liên quan đến sinh mệnh một con người, Luật pháp thường kêu gọi tới đèn trời soi sáng của lương tri nhiều hơn : Thay vì là một chánh án, quyền phán quyết tối hậu lại được trao cho một bồi thẩm đoàn dân sự. Luật pháp đặt niềm tin công lý nơi bồi thẩm đoàn và kỳ vọng nhiều nơi họ vì hai lẽ : một là, bồi thẩm đoàn phải gồm toàn công dân lương thiện (mà đã là công dân lương thiện thì con tim chân chính ắt hẳn không bao giờ biết đến nói dối) ; hai là, cho dù với một kiến thức hạn hẹp, các bồi thẩm viên, các bồi thẩm viên với con mắt của lương tri và sự nhạy cảm của con tim chân chính thường có khả năng len lỏi được vào tận cùng ngõ ngách tâm hồn hơn, nhờ vậy, hiểu đúng động cơ hành đọng của con người trong những trạng huống éo le hơn là lý trí. Sự kiện này, triết gia Blaise Pascal (1623-1622), còn được coi là thần đồng về toán học và vật lý học (tức là người có thừa khả năng lý luận chính xác trong tinh thàn tìm hiểu khoa học khách quan hơn ai hết), cũng phải thừa nhận trong câu nói để đời : « Con tim có những lý lẽ của nó mà lý trí không sao biết được (Le cœur a ses raisons que la raison ne connaît point. _ B. Pascal – Les Pensées).
Nếu về mặt công lý Tòa án không mấy tin tưởng vào lý trí để thi hành Công lý như thế nào, thì về mặt sáng tạo Proust cũng dè dặt đối với trí tuệ trong nỗ lực tìm tòm để nói lên cái thật chừng nấy. Qua kinh nghiệm tiếp xúc với các giới thượng lưu trưởng giả, Proust phát hiện ra rằng những gì vẫn sờ sờ phơi bày trước mắt ta, những gì ta đều có thể nhận thức bằng giác quan, bằng trí tuệ và ta cứ tưởng là thực lại thường chỉ là cái thực ảo vì nó chỉ là những biểu hiện của hình thức, của cái vỏ ngoài (như nhân vật thòi thượng Legrandin, như tình yêu ảo ảnh một thời của Swann với Odette, hay như tất cả mọi tấn tuồng đời với những màn dàn dựng ảo thuật của nó). Trái lại, chính cảm giác bất chợt của mùi vị bánh madeleine làm khơi dậy được cả một khung trời niên thiếu tại Combray mới là cái thực vì nó bảo toàn được cho Proust một niềm hoan lạc vĩnh hằng. Bởi vậy, theo Proust, « dù cho thể chất nó èo uột, dù cho dấu vết nó chập chờn, cảm giác vẫn là một tiêu chí của cái thật, và vì thế chỉ có cảm giác mới đáng cho tâm trí phải tìm cách nắm bắt để làm toát ra được cái chân lý ẩn náu trong đó, và chính nhờ vậy mà chỉ có cảm giác mới làm tâm trí ta được hoàn thiện và đem lại cho ta một niềm vui tinh khiết ». (Seule l’impression, si chétive qu’en semble la matière, si insaisissable la trace est un critérium de vérité, et à cause de cela mérite seule d’être appréhendée par l’esprit car elle est seule capable, s’il sait en dégager la vérité, de l’amener à une plus grande perfection et de lui donner une pure joie. Le temps retrouvé - Coll. Bouquins tr.713). Từ đó Proust rút ra hai hệ luận : « Cái gì mà ta không phải giải đoán, mà ta không phải mất công làm cho sáng tỏ, cái gì đã được tỏ tường trước ta, đều không phải là của ta. Chỉ đến từ nơi ta những gì ta lôi ra được từ vùng bóng tối trong mà người ngoài không biết được. » (Ce que nous n’avons pas eu à déchiffrer, à éclaircir par notre effort personnel, ce qui était clair avant nous, n’est pas à nous. Ne vient de nous-même que ce que nous tirons de l’obscurité en nous et que ne connaissent pas les autres. Sdd, tr.713). Ta có thể nói hai ý tưởng then chốt này (chỉ có cảm giác mới là tiêu chí của cái thật và cái gì đã tỏ tường trước ta đều không phải là của ta) chinh là hai điều tâm niệm trong nỗ lực tìm tòi sáng tạo của Proust, đồng thời chúng cũng giải thích tại sao Proust ít có chịu dựa dẫm vào các lý thuyết văn học. Ám chỉ các cuộc tranh luận liên quan đến vai trò của văn học đối với vấn dề thời sự lúc bấy giờ (vụ án đại úy Dreyfus gốc Do Thái, bị cáo oan làm gián điệp cho Đức), ông phát biểu : « Nghệ thuật đích thực không có mần ăn gì được với ngần ấy lời tuyên bố huênh hoang và chỉ nên thực hiện trong thầm lặng. » (L’art véritable n’a que faire de tant de proclamations et s’accomplit dans le silence. Sdd, tr.714). Điều này không có nghĩa là Proust phủ nhận giá trị của các lý thuyết văn học. Trái lại là đằng khác.
Xuyên suốt qua toàn bộ A la recherche…, nếu ta để ý tới các đoạn văn trong đó Proust đưa ra những nhận định, suy tư về các vấn đề văn học, nghệ thuật và sáng tác ta sẽ thấy không phải là Proust không có hiểu biết về các lý thuyết văn học. Đặc biệt hơn nữa, nếu chịu khó lọc lựa những cảm nghĩ riêng của Proust cũng về các vấn đề này trong đoạn văn trải dài ngót ba chục trang của tập chót Le Temps retrouvé (coll. Bouquins, vol.3, tr. 701-727), ta có thể đúc kết và hệ thống hóa chúng thành một lý thuyết văn học giá trị. Nhưng đề xuất một lý thuyết văn học không hề là tham vọng của Proust. Với ông, các lý thuyết chỉ là những nhận thức về một thể loại, một trào lưu, một trường phái văn học hay một quan niệm sáng tác, được hệ thống hóa thành một mỹ quan với các nguyên tắc, tiền đề hầu tạo điều kiện cho nhà phê bình có cơ sở lý luận để đánh giá một tác phẩm văn học, và cho độc giả được định hướng để tiếp cận và thưởng ngoạn tác phẩm dó. Còn như là tác giả, nếu chỉ dựa vào lý thuyết – dù là tiên phong nhất – để sáng tác thì tác phẩm, dẫu có hoàn hảo đến đâu, cũng chỉ nói lên một thiện chí học hỏi để cách tân, chứ không là biểu hiện của một tài năng sáng tạo. Bởi vậy Proust không đánh giá cao những tác phẩm nuôi ý đồ tằng tịu với chủ nghĩa hay lý thuyết này nọ. Sau đây là ý kiến của ông về một chủ trương văn học văn dĩ tải đạo : « Ý tưởng về một nghệ thuật đại chúng cũng như về một nghệ thuật ái quốc, nếu không là nguy hiểm thì cũng là lố bịch… (Nhà văn M. Barrès) có nói là người nghệ sĩ trước hết phải phục vụ cho sự vinh quang của tổ quốc mình. Nhưng anh ta chỉ có thê phục vụ tổ quốc trong cương vị nghệ sĩ, nghĩa là… với điều kiện đừng tưởng nghĩ tới bất cứ điều gì khác – dù là tổ quốc đi nữa – ngoại trừ cái sự thật trước mắt anh ta. Ta chớ bắt trước đám người cách mạng (cũng như đám vệ binh dỏ trong cuộc cách mạng văn hóa ở Trung Quốc hay phong trào đánh nhóm Nhân Văn Giai Phẩm ở miền Bắc năm 1956 – NBH), để chứng tỏ tinh thần công dân, lên mặt dè bỉu, nếu như họ đã chẳng tiêu hủy rồi, những bức họa của Wateau và de La Tour là những nghệ sĩ đã làm vinh danh nước Pháp nhiều hơn là tất cả các họa sĩ thời Cách Mạng Pháp » (L’idée d’un art populaire comme d’un art patriotique si même elle n’était pas dangereuse me semblait ridicule… (M Barrrès) avait dit que l’artiste doit avant tout servir la gloire de sa patrie. Mais il ne peut la servir qu’en étant artiste, c’est-à-dire qu’à condition… de ne pas penser à autre chose –fut-ce à la patrie – qu’à la vérité qui est devant lui. N’imitons pas les révolutionnaires qui par « civisme » méprisaient, s’ils ne détruisaient pas, les œuvres de Watteau (4) et de La Tour (5), peintres qui honorent davantage la France que tous ceux de la Révolution. Sdd, tr. 719-720). Còn với tác phẩm định dựa dẫm vào lý thuyết này nọ để nói lên trường phái sáng tác của mình, ông không ngần ngại phẩm bình : « Một tác phẩm mà có ôm đồm các lý thuyết thì cũng như một món đồ trên đó ta còn để lại bảng giá tiền. » (Une œuvre où il y a des théories est comme un objet sur lequel on laisse la marque des prix. Sdd, tr. 715).
Vậy là, theo cách nhìn của Proust, các lý thuyết chẳng qua chỉ là những tìm tòi hiểu biết nhằm mở rộng kiến thức trong mọi lãnh vực sinh hoạt ; chức năng và sự nghiệp của chúng là phải thường xuyên cập nhập hóa để đáp ứng đòi hỏi tiến bộ và cần được phổ biến rộng rãi để đóng góp vào kho tàng tri thức của loài người. Mà cái gì một khi đã trở thành tri thức rồi thì, thực tình mà nói, chẳng có gì đáng gọi là mới là lạ cả. Nếu có được coi là mới là lạ đi chăng nữa, thì cũng chỉ do khác biệt về chân trời, về thời điểm mà thôi. Như khi ta nói : cũ người mới ta hoặc mới người cũ ta cũng vậy. Bởi lẽ đó Proust coi các lý thuyết văn học chỉ là những ánh đuốc soi đường giúp ta được tiến xa hơn trong hành trình tìm tòi sáng tạo, hoặc giúp ta có thêm phương tiện để thực hiện sáng tạo ; còn bản thân lý thuyết không thể là giải pháp cho sáng tạo. Muốn sáng tạo, ta phải đào sâu tìm kiếm ở chính nơi ta vì « chỉ có những gì ta lôi ra được trong vùng tăm tối nơi ta, trong ta mà người ngoài không biết được » mới là của ta, thuộc về ta nên mới đáng được coi là sáng tạo. Đây chính là ý tưởng chủ đạo giúp ta đi sâu vào nội dung mang ý nghĩa sáng tạo của Proust.
CÒN TIẾP ..........