ĐỒ GỐM CỔ,
MỘT NỀN VĂN HÓA THUẦN VIỆT
Từ Vũ NewVietArt ViệtVănMới trân trọng
cảm ơn
nhà thơ, nhà biên khảo
Bùi Ngọc Tuấn đã ưu ái
cho phép đăng tải toàn bộ công trình biên khảo này.
C
húng ta có rất ít tài liệu về đồ gốm cổ truyền Việt Nam, số người sưu tập đã ít, số sách vở viết về đồ gốm, đồ gỗ, đồ đồng Việt chỉ được phổ biến một cách hạn hẹp. Trong số tài liệu ít ỏi đó, phần lớn được viết bằng bởi người ngoại quốc ở Úc, Anh, Nhật… trong mươi, mười lăm năm gần đây. Nhiều người Việt không biết rằng dân tộc mình có một ngành nghệ thuật thuần nhất, phong phú, kéo dài nhiều trăm năm và rất được yêu chuộng bởi các nhà sưu tập trên thế giới. Những món đồ gốm, hình tượng gỗ, trống đồng này rất đặc biệt Việt Nam, rất đẹp và rất hiếm có.
Chúng tôi có cái duyên may là yêu thích ngành nghệ thuật tạo hình đặc sắc này của ông cha, nên trong những năm qua đã có dịp tìm hiểu và sưu tập được khá nhiều món, từ tô, đĩa, đến bình, ấm, lư hương, chân đèn.. Càng tìm hiểu chúng tôi càng say mê hơn và nhận rõ hơn cái giá trị tuyệt vời của nghệ thuật tạo hình cổ truyền Việt Nam. Càng tìm hiểu chúng tôi càng bứt rứt vì thấy ít ai biết đến và ít ai sưu tập những món đồ thật sự Việt Nam, vừa đẹp vừa nghệ thuật, vừa giầu kỹ thuật sáng tạo lại vừa chứa đựng cả dòng diễn tiến của văn hoá nhà qua những món đo.à.. hoặc thường dùng hàng ngày, hoặc khi tế lễ, hội hè, từ thôn quê đến kinh đô.
Do đó dù sự hiểu biết còn thiếu xót, dù cuộc nghiên cứu chỉ mới ở mức khởi đầu, nhưng cảm thấy không thể chờ đợi lâu hơn được, chúng tôi đành mang cái biết thiếu xót ấy, mang những vật tích gom góp được để trước là mua vui cho bà con, sau là khơi động lên lòng yêu văn hóa dân tộc, rồi từ đó những cuộc nghiên cứu nghiêm chỉnh sẽ được thực hiện bởi các nhà chuyên môn. Ngõ hầu người Việt chúng ta hiểu rõ hơn, yêu nhiều hơn, rồi cùng chung giữ và trân quí các món đồ biểu hiệu cả một dòng tình tự dân tộc.
Hy vọng rằng một ngày gần đây đa số chúng ta biết và yêu những nét chạm khắc trên cột đình cổ, những cái trống đồng, những món đồ Chu Đậu,
đồ Lý Trắng, Lý Nâu ... để càng hiểu và yêu thêm cái tâm tình thuần Việt được thể hiện qua bàn tay người nghệ sĩ Việt
nhiều trăm năm trước. Để qua những cái đĩa, cái chén, cái trống đồng, các hình tượng ấy, chúng ta sẽ thấy rõ ông cha ta
nhìn đời sống chung quanh mình thế nào.
CHƯƠNG II
Giới Thiệu Đồ Gốm Cổ Truyền Việt Nam
V
ăn hoá của một dân tộc bao gồm bốn khía cạnh: sinh hoạt xã hội (phong tục, tôn giáo) - văn chương (truyền khẩu và thành văn) - nghệ thuật tạo thanh (âm nhạc, ca vũ) - và nghệ thuật tạo hình (hội họa, điêu khắc, kiến trúc) . Những biến động lịch sử trong vòng trăm năm qua đã ngăn trở việc tìm hiểu sâu rộng nền văn hóa phong phú và thuần nhất Việt Nam. Trong vòng hai mươi năm gần đây, nhiều nhà nghiên cứu ở Úc, Tân Gia Ba, Nhật Bản, Hương Cảng (như John Guy, John Stevenson, Mimoto Asako, William Willets, Keith Taylor, Barbara Harrisson, bà Kelly Nguyễn Long .., và của một số người Việt trong và ngoài nước (Hà Thúc Cần, Đào Duy Từ, Nguyễn Đình Chiến, Phillip Trương, Tăng Bá Hoành .. ..) đã mạnh mẽ vạch rõ rằng văn hóa Việt dù chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa nhưng thật ra lại là một nền văn hoá riêng biệt với những bản sắc khác hẳn Trung Hoa.
Nghệ thuật tạo hình của Việt Nam ít được nghiên cứu; Sách báo khảo cứu về đồ đồng, đồ đá thì còn khá, nhưng về đồ gốm thì không có mấy. Đồ gốm Việt Nam chỉ mới được tìm hiểu nhiều trong vòng mươi, mười lăm năm gần đây. Vì thế số người Việt - trong và ngoài nước - biết và hiểu điều này còn rất ít. Sự hiểu biết này còn chỉ giới hạn trong số những nhà nghiên cứu hay sưu tập chuyên môn mà thôi. Bài viết ngắn này nhằm mục đích giới thiệu một cách rất tổng quát một khía cạnh nhỏ của nghệ thuật tạo hình Việt Nam: Đồ gốm cổ truyền.
Dân tộc, văn hóa Việt khởi nguồn độc lập và song song với văn hóa dân tộc Trung Hoa. Nền văn hóa Hòa Bình (8,000BC), Bắc Sơn (6,000BC), Phùng Nguyên (2,000BC) và Đông Sơn (1,000BC) đã phát triển rực rỡ từ trước khi có những giao tiếp giữa hai dân tộc Việt, Hoa. (Nhiều trống đồng khai quật trong vài năm gần đây chỉ rõ nét đặc biệt, thuần Việt, phác họa lên cả một nền văn minh rực rỡ, với kỹ thuật điêu luyện). Cái nôi của văn hoá, dân tộc Việt quy tụ vào bốn vùng chính: (1) Châu thổ sông Hồng: Hòa Bình - Bắc Sơn - Hải Hưng - Vĩnh Phú - Hà Nội, (2) Duyên hải Bắc Việt: Hạ Long - Vân Đồn - Hải Phòng, (3) Thanh Hoá và (4) Nghệ An - Hà Tĩnh.
Trong bốn môi trường văn hóa ấy, đồ gốm Việt Nam thành hình và phát triển rực rỡ. Mỗi vùng, mỗi thời kỳ có những nét đẹp, tùy theo vật liệu, tùy theo kỹ thuật và nghệ thuật riêng. Chúng tôi tin rằng, trong những năm tới, nhiều cuộc khai quật quan trọng sẽ được thực hiện, nhiều vật tích đặc biệt sẽ được tìm thấy. Những khám phá này sẽ cho chúng ta hiểu rõ hơn về nền văn hoá dân tộc Việt và cũng sẽ làm thay đổi quan niệm, ý kiến và sự hiểu biết phổ thông hiện nay. Chúng tôi ghi lại những thời điểm chính của lịch sử và sự phát triển nghệ thuật đồ gốm Việt Nam trong Bảng Tóm Lược Lịch Sử Đồ Gốm Việt Nam.
Trong những món đồ chúng tôi sưu tập, chỉ có vài món làm từ thời Bắc Thuộc, còn phần lớn là đồ làm từ đời Lý, đời Trần trở về sau (Đồ làm từ thế kỷ 11, 12 tới thế kỷ 15, 16, 17). Chúng tôi cũng sẽ giới thiệu một loại đồ đặc biệt khác là đồ men trắng xanh (Thường được gọi qua tên ‘Đồ men lam Huế - hay phổ thông hơn là đồ ‘Bleue de Hue’ ) do vua quan Việt Nam họa kiểu riêng, đặt làm bên những lò gốm nổi danh bên Tàu. Khi sưu tập, hay tìm hiểu về đồ gốm Việt Nam, người ta vẫn lầm tưởng rằng đáng kể chỉ có đồ men lam Huế (Bắt đầu từ đồ ‘Nội Phủ’ và ‘Khánh Xuân’ của chúa Trịnh Sâm đặt, rồi tới tô, đĩa chữ nhật của các vua triều Nguyễn, hay đồ ‘Mai Hạc’ do Nguyễn Du đặt làm khi đi sứ năm 1813.
Các nhà sưu tập trong nước thì cũng chỉ chú trọng vào loại đồ hoặc của Trung Hoa hoặc men lam Huế này. (Học giả Vương Hồng Sển, với công trình sưu tập, nghiên cứu đồ sộ trong suốt hơn 50 năm, cũng chỉ viết chút ít về vài bình vôi mà ông gọi là đồ gốm Bát Tràng chứ không có các thứ đồ quý Việt Nam nào khác).
Đồ gốm Việt Nam đẹp, đa dạng, phong phú và giá trị hơn cả là đồ thời Lý-Trần, phát triển mạnh mẽ từ thế kỷ 11-12, kéo dài đến cuối thế kỷ 16; với một số lượng lớn xuất cảng sang các nước Nam Thái Bình Dương, Nhật Bản, Đại Hàn, qua tận vùng Ả Rập từ thế kỷ thứ 7, mạnh mẽ vào thế kỷ 14-16. Một số đồ gốm Việt Nam đã rất được quý chuộng trong nghi lễ của Trà Đạo Nhật Bản từ cuối thế kỷ 15. (Bà Morimoto Asako, khi nghiên cúu các mảnh vỡ khai quật ở Dazaifu và Hakata đã viết rằng, đồ gốm Việt đã đưọc dùng ở Nhật từ giữa thế kỷ 14). Muốn biết thêm về việc xuất cảng này, xin đọc ‘Vietnamese Ceramic - a separate tradition’ của nhóm ông John Stevenson và John Guy, xuất bản năm 1997 ở Chicago và ‘Vietnamese Ceramics’ của Southeast Asian Ceramic Society xuất bản năm 1982 ở Singapore, tạp chí ‘Arts of Asia’ của bà Tuyết Nguyệt xuất bản ở Hương Cảng..vv..)
Đời Lý, với tinh thần dân tộc mạnh mẽ, sau khi chấm dứt được một nghìn năm đô hộ của người Tầu, nhà Lý, cũng với tinh thần Phật Giáo ảnh hưởng mạnh mẽ suốt từ triều đình ra đến đại chúng, nhà Lý, với quyết tâm phát huy nền văn hoá thuần Việt (vẫn trường tồn qua nghìn năm lệ thuộc Trung Hoa) đã phát triển lên một nghệ thuật tạo hình riêng biệt Việt Nam rực rỡ, phong phú cũng như nền văn hoá Hòa Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn trước đó. Người thợ Việt Nam đã sáng tạo nên những dáng kiểu, sắc men và hoa văn rất Việt Nam, thể hiện một tinh thần sáng tạo rất phóng túng và phong phú. (Nhiều thử nghiệm về sắc men, dáng kiểu, nhiều hoa văn đẹp lạ không thể thấy được ở văn hoá Trung Hoa vốn nhiều khuôn khổ gò bó).
Nghệ thuật tạo hình đặc sắc này của văn hoá Việt có thể tóm tắt qua các điểm chính: (1) Dáng kiểu, (2) Nước men, (3) Hoa văn và (4) Chất đất.
1. Dáng kiểu
a. Tô, chén, đĩa: Tô chén thường có chân khá cao. Nhiều bát nhỏ và đĩa nhỏ có hình con rùa hay cá nổi giữa lòng, khi đổ nước vào ta có cảm giác như nhìn xuống lòng giếng, lòng ao, thấy cá và rùa bơi ở giữa. Đĩa thời Chu Đậu khá lớn (rộng khoảng từ 25 tới 30cm). Đồ ‘men lam Huế’ có kích thước khá gần với các món đồ dùng hiện nay (đĩa Khánh Xuân Long Lân của Trịnh Sâm rộng 26cm, đĩa Mai hạc của Nguyễn Du, rộng khoảng 17cm...)
b. Lư hương, bát hương, chân đèn: Lư hương khá to, cao khoảng 25 – 40cm. Nhiều chân đèn hai hay ba tầng cao khoảng 75 – 85cm. Đây là chân đèn để cắm nến, ngoài ra còn nhiều chân đèn dầu hình chim, hình gà. Nhà Lý vốn sùng đạo Phật, khi dời kinh đô về Thăng Long ngoài nhu cầu xây cất cung điện còn tạo dựng lên rất nhiều chùa chiền (Lý Công Uẩn vốn dựng nước từ dưới mái tam quan). Tiếc thay nhà Minh đã phá hủy gần như hoàn toàn các công trình kiến trúc này; phần còn sót lại bị đốt phá năm 1784, bởi loạn Kiêu Binh dưới đời Trịnh Khải. Kế đó, khi lên ngôi, vua Gia Long lại không muốn Thăng Long lớn hơn kinh thành Huế, nên đã phá đi để xây lại thành mới, nhỏ hơn. Nguyễn Du, người chứng kiến cuộc đổi thay đã than rằng:
thiên niên cự thất thành quan đạo,
nhất phiến tân thành một cố cung
(Thăng Long)
nghĩa là:
nhà cổ phá đi làm đường phố,
thành mới xây trên nền cung xưa.
c. Bình, ấm, âu, hũ, bình vôi: đủ mọi loại, đủ cỡ lớn nhỏ, sản xuất trong nhiều trăm năm. Có nhiều ấm hình chim, hình thú, hay có nhiều ấm mà vòi, quai là hình đầu thú. Có hũ nâu cao đời Lý khắc hình người, hình hoa, có hũ trắng ngà đời Bắc Thuộc vẽ hình voi và người như trên trống đồng Đông Sơn. Một trong loại bình rất Việt Nam là hình một con tôm càng đứng trên lưng con cá chép, ấm hình con cóc, bình hình quả dưa, lọ hình quả cà...
d. Hộp trang sức: Hộp nhỏ thường là hình tròn, để đựng phấn hay dầu trang sức phụ nữ. Những hộp này có lẽ là để xuất cảng sang vùng Ả Rập nhiều hơn là để bán trong nước. Hộp đời Lý thường có mầu trắng, trang trí hình hoa hay hình cánh sen nổi, đường kính độ 5, 6 cm. Hộp Lý nâu nhỏ có những nét trang trí mang ảnh hưởng Chiêm Thành. Hộp làm vào thế kỷ 14, 15, 16 thường mầu trắng ngà, trơn, trên nắp vẽ hoa, cành mầu chàm, hay vẽ hồi văn... Những hộp này nhỏ hơn, đường kính độ 3cm tới 6cm. Một số hộp tìm được trong khi khai quật mộ cổ ở Phi Luật Tân, Nam Dương, một số lớn tìm được trong vài năm gần đây, khi vớt các xác tầu buôn cổ chìm ở Hội An, Đà Nẵng. Có những hộp mầu xám đậm, có hộp hình bí ngô hay hình tròn nhưng chung quanh chia làm nhiều phần (6 hay 8) trang trí tạo nên ấn tượng là hộp thật sự có nhiều cạnh.
e. Gạch trang trí, ngói: Men trắng xanh, tìm thấy ở trên tường nhà thờ Hồi Giáo ở Nam Dương. Mộ cổ ở Phi Luật Tân (cùng các ấm, bình, tô, đĩa Việt Nam). Điểm tức cười là trong khi người Hồi Giáo Nam Dương mua gạch ngói men lam của Việt Nam để xây giáo đường (như xây Mosque ở Demak, Java) thì nhà Nguyễn lại nhập cảng gạch men lam từ nước Anh về xây lăng vua Khải Định.
2. Nước men: Những điểm khác biệt chính giữa nước men của đồ gốm Tàu và đồ gốm Việt là:
Nước men Việt thường rất mỏng, men pha loãng, tráng không đều, trong khi đó, nước men Tàu rất dầy, bóng và đều khắp.
Lò gốm Việt thường có độ nung thấp, nên nhiều vật tích tìm được có những phần đã tróc mất men. Lò gốm Tàu có độ nung rất cao, men bền.
Chân đế và dưới đáy đồ Việt thường được để mộc. Dưới đáy thường được tô một lớp son nâu đậm (điểm không hề thấy trong đồ gốm Trung Hoa).
Nước men rạn tự nhiên, rất đẹp. Màu men thay đổi từ trắng ngà sang vàng hồng, nâu với rất nhiều sắc từ nhạt đến đậm, nâu đen, nâu đỏ, xanh cánh lục biếc, xanh chàm, xanh lam nhạt, xanh lam đậm.
Ngoài ra, đồ gốm Việt Nam còn khác đồ Trung Hoa ở các điểm: (1) trong lòng tô hay đĩa thường sót lại các dấu in của con kê (dùng ngăn đĩa, tô chồng lên nhau khi nung) hay (2) trong lòng đĩa, tô khi men còn ướt, trước khi nung, thường bị cạo đi một vòng hình vành khăn để trơ lại đất mộc, và (3) miệng tô, đĩa cũng thường để mộc, không men. Đây là những cách đơn giản, để tránh cho các món đồ không bị dính chặt vào nhau khi nung. Ngược lại, người thợ Trung Hoa không bao giờ để trơ đất mộc ở chỗ nào, họ rất tỉ mỉ trong việc pha men, tráng men và xếp nung. Họ muốn món đồ được toàn hảo. Kỹ thuật lò và độ nung cũng rất cao tạo nên một nước men dầy bóng và đều khắp. Lò gốm Việt nam thường có độ nóng thấp hơn, chất men pha, tráng một cách phóng túng. Người thợ Việt nam thường chú trọng đến cái vẻ đẹp giản dị, tự nhiên. Họ không bận tâm đến những gò bó, tiểu tiết.
3. Hoa văn: Hoa văn thường được vẽ bằng sáu kỹ thuật chính:
dùng khuôn mẫu in rập lên đồ mới nặn cho hoa văn in lên (nổi hay chìm) trước khi tráng men và nung (gọi là ám họa).
dùng bút vẽ lên mặt đồ đã khô, trước khi tráng men và nung.
tráng men mầu nhạt rồi dùng dao nhỏ hay mảnh tre cạo bỏ men theo hình định trước, rồi dùng men mầu đậm vẽ trong chỗ đã cạo, nhưng lại để chừa nét viền không men.
ngược lại với cách trên. Tráng men mầu nâu đậm lên toàn bình hay ấm rồi dung mảnh tre cạo theo hình định sẵn, tạo nên hoa văn mầu nhạt, không men trên nền men nâu đậm.
tráng men mầu nhạt lên rồi nhỏ vài giọt men mầu khác lên một hay vài chỗ, để cho giọt men này chảy tự nhiên.
tráng men xong rồi nhỏ những giọt nước lên, hay tạt nuớc vào để nước làm men chảy loang tạo nên những hình tự nhiên.
c - d- e và f là bốn kỹ thuật thuần Việt. Đồ gốm Trung Hoa không bao giờ được trang trí bằng cách này.
4. Chất đất: Đồ gốm Việt Nam dưới thời Bắc Thuộc (Nhà Hán) thường làm bằng đất sét, pha cát và vỏ sò hến nghiền nát, sang đời Lý, nhiều món đồ không còn pha cát nữa, chất đất mịn hơn. Đồ Chu Đậu làm bằng kaolin trắng mịn. Đồ men ngọc (Celadon) đời Lý cũng khác đồ men ngọc Tàu ở chỗ chất đất không pha bột đá, đồ dầy hơn, men mỏng, gõ vào tiếng kêu không thanh và không ngân lâu bằng.
Để phân biệt một cách tổng quát, ta có thể tạm xếp đồ gốm Việt Nam làm các loại đồ chính:
1. Đồ thời Hoà Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn:
Không tráng men, nặn bằng tay với hình trang trí tạo nên do dây thừng và khuôn giỏ đan ấn lên, hay do mũi dao, mũi tre khắc những hình trang trí đặc biệt của văn hoá Việt thời này (Hình kỷ hà như thường thấy trên trống đồng gọi là ‘hồi văn’, nhưng đơn giản hơn) Đồ gốm làm bằng đất sét pha cát và vỏ sò hến nghiền nhỏ. Hình dạng thuần Việt hiện rõ ràng (đồ gốm Trung Hoa không làm hình voi hay vẽ hình voi, ngược lại, ấm hình thú, ấm đầu voi, ấm vòi voi rất thường thấy - Viện Bảo Tàng ở Hà Nội, có nhiều vật tích như bình cao, trang trí những hình khắc cong và thẳng làm vào khoảng 2000 BC cho tới những ấm, âu làm từ 300 tới 500 BC. Museum of Fine Art ở Boston có trưng bầy ấm vòi voi của Việt Nam làm trong khoảng thế kỷ thứ 3 BC tới thế kỷ thứ 1 BC)
2. Đồ thời Bắc Thuộc:
Bàn xoay bắt đầu được dùng nhiều, dáng kiểu, hoa văn và nước men có ảnh hưởng đồ nhà Hán pha trộn những nét Việt của văn hoá Đông Sơn. (Có chum, vại to, vẽ hình voi, hình người đóng khố, tay cầm giáo, cầm cung..) làm bằng đất sét pha cát mịn. Để món đồ này bên cạnh đồ nhà Hán của Trung Hoa, ta vẫn nhìn thấy những nét giống và những nét rất khác của hai loại đồ gốm. (Trong suốt thời Bắc Thuộc, người Trung Hoa đã thất bại trong việc hủy diệt văn hóa Việt, và đồng hóa người Việt như họ đã thành công với các dân tộc khác. Ngược lại người Việt đã thành công trong việc thu nhập nhọc hỏi, và áp dụng những nét đẹp, kỹ thuật hay của Trung Hoa). Loại đồ Việt Nam này thường mỏng hơn và thường được nung với độ cao hơn đồ nhà Hán. Đồ nhà Hán thường có men xanh lục, đồ Việt Nam thường mầu trắng, trang trí bằng men giọt xanh.
3. Đồ Lý-Trần:
Dưới đời Lý, kỹ nghệ đồ gốm Việt Nam phát triển rực rỡ, phần lớn do nhu cầu xây dựng thành quách, cung điện, chùa chiền. Kỹ thuật tráng men trong như thủy tinh mà không thấy dầy, rất trang nhã. Cho thấy người thợ hoàn toàn làm chủ nước men của mình do cách biến đổi chất men pha để làm cho nước rạn to hay nhỏ theo ý muốn. Nước rạn thường thay đổi từng phần, từ trên miệng bình xuống phía dưới chân đế. Những món đồ gốm dưới đời Lý-Trần gồm có các loại chính là: Đồ men ngọc (Celadon), đồ Lý trắng, đồ Lý nâu, đồ Lý lục
4. Đồ Chu Đậu:
Trong các thế kỷ 14, 15, 16 xuất hiện một loại đồ (mà có người gọi là ‘đồ trắng chàm’ ) có nước men trắng với hoa văn mầu xanh blue (mầu chàm). Hình dáng và hoa văn đặc biệt Việt Nam, rất đẹp, men mỏng nhưng rất đều. Loại đồ này thường được xuất cảng sang Phi Luật Tân, Nam Dương, Ả Rập... từ thế kỷ 14 đến 16.
Thế kỷ 11 - 16 là thời kỳ mà sức sáng tạo nghệ thuật, sự phát triển kỹ thuật lên đến cao nhất, mà sự thành công về thương mãi cũng lên đến cao nhất của đồ gốm Việt Nam.
5. Đồ gốm Bát Tràng: Bát Tràng sản xuất rất nhiều đồ gốm các loại, dùng trong đời sống hàng ngày, trong việc thờ phụng Phật, Thánh, đình làng… Như chén đĩa, lu, hũ, bình, ấm, bình vôi, điếu bát, chân đèn, lư hương, hình tượng, mâm, đỉnh….
6. Đồ “Men Lam Huế” :
Những đồ men lam thường được sưu tập là đặt làm hay nhập cảng nguyên chiếc từ Trung Hoa vào. Vì đồ này được dùng rất nhiều ở cung đình Huế nên thường được gọi là đồ ‘men lam Huế’ . Chúng tôi lại chia loại này thành hai: (1) Đồ Nội Phủ và đồ Khánh Xuân do Trịnh Sâm đặt bên Tàu. (2) Đồ đời Nguyễn do các vua Gia Long, Thiệu Trị, do sứ bộ Nguyễn Du, sứ bộ Phạm Phú Thứ ... họa kiểu đặt làm bên Tàu.
a. Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân:
Trịnh Sâm họa kiểu và cho đặt tại lò Cảnh Đức Trấn bên Tàu (đây là lò gốm dành riêng cho việc chế tạo đồ dùng trong cung điện Trung Hoa, thời này do Đường Anh, một tay kỳ tài của đồ gốm Trung Hoa điều khiển)
Đồ Nội Phủ và Khánh Xuân được người ta xếp vào loại ‘Men Lam Huế’ vì ngoài những nét tương tự, những đồ này cũng lại được tìm thấy ở Huế, khi bà Từ Dụ cho bán đi mấy chục năm trước đây.
b. Đồ đời Nguyễn:
Dưới đời Nguyễn, kỹ nghệ đồ gốm của người Việt suy sụp, thị trường trong nước và quốc tế bị mất vào tay người Tàu, người Nhật, vua quan nhà Nguyễn thì lại mê chuộng văn hóa Trung Hoa, cái gì cũng rập theo nhà Thanh. Triều đình nhà Nguyễn đặt rất nhiều đồ men lam làm bởi lò Cảnh Đức Trấn, bên Tàu.
Nổi tiếng nhiều trong loại đồ này là những món do các vua nhà Nguyễn đặt làm (đồ chữ Nhật) và các bộ chén, đĩa trà vẽ hình cây mai và chim hạc cùng hai câu thơ nôm của Nguyễn Du: ‘nghêu ngao vui thú yên hà - mai là bạn cũ, hạc là người quen’ . Đồ này được đặt làm lần đầu bởi Nguyễn Du khi đi sứ nhà Thanh năm 1813. Ngoài những đồ đặt làm, đời Nguyễn còn nhập cảng nhiều đồ men lam khác của nhà Thanh. Những món này rất được ưa chuộng bởi giới quan lại và các nhà giầu Việt Nam.
Hy vọng rằng những hình ảnh và lời giới thiệu ngắn ngủi sẽ tạo nên những hiểu biết và ý thích khởi đầu, để việc tìm hiểu, duy trì và phổ biến những giá trị đặc biệt rất đáng được ngợi ca, hãnh diện của văn hóa Việt Nam nơi những người trẻ tuổi. Trong suốt giòng lịch sử dân tộc, những chuyển biến chính trị dù xáo động đến thế nào cũng chỉ có giới hạn ngắn. Những ảnh hưởng, chủ thuyết ngoại lai thảy rồi cũng bị gạn lọc, đào thải để chỉ có phần hay đẹp mới được hoà nhập vào dòng văn hóa Việt Nam. Cho nên chúng tôi tin rằng những thay đổi tốt đẹp trong xã hội, văn hóa, dân tộc Việt sẽ từ từ chuyển biến đến. Và trong khung cảnh đó, các cuộc khai quật, nghiên cứu, duy trì và phổ biến của đồ gốm, đồ đồng dân tộc sẽ phát triển mạnh mẽ.
Nhiều nhà nghiên cứu ngoại quốc đã khám phá, nghiên cứu và ca ngợi đồ gốm Việt Nam, (trong những cuộc bán đấu giá của nhà Christie of London, của nhà Sothebys có những món đồ gốm Việt được bán với giá hàng chục nghìn Mỹ Kim).
Thế giới nhìn ra và đánh giá rất cao khía cạnh này của văn hóa Việt, tại sao chúng ta lại lơ là? Tại sao chúng ta không khuyến khích những lò gốm ở Việt Nam hiện nay trở lại học và làm những món đồ giống như đồ Lý-Trần, đồ Chu Đậu đó để dùng hàng ngày? Những đồ này đẹp ăn bứt chén đĩa làm bằng máy, sản xuất hàng loạt của Tàu của Nhật, của Âu Mỹ.
BẢNG TÓM LƯỢC LỊCH SỬ ĐỒ GỐM VIỆT NAM
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả đã chuyển từ HoaKỳ .