Việt Văn Mới
Việt Văn Mới





HAI NHÀ GIÁO THÂN THIẾT

HÀ MAI ANH & BÙI VĂN BẢO




Hà Mai Anh (1905 – 1975)


Bút hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, là một nhà giáo, cùng là tác giả của nhiều sách giáo khoa về văn chương, toán học và dịch giả nhiều cuốn sách phổ biến như Tâm hồn cao thượng, Vô gia đình...

Hà Mai Anh quê ở Thái Bình, ông đậu bằng Cao Ðẳng Tiểu học và trường Sư phạm, từng làm giáo học và hiệu trưởng ở các tỉnh ở Bắc Kỳ. Ông đóng góp nhiều bài vở cho các báo đương thời nhưng sự nghiệp văn học của ông chủ yếu là sách giáo khoa và các tác phẩm mang tính cách giáo dục. Ngay từ năm 1938 cuốn Công dân giáo dục đã được xuất bản tại Nam Định và được chính phủ Bảo hộ chấp thuận dùng làm sách giáo khoa.

Sau đó là nhiều tác phẩm dịch, nổi tiếng nhất là cuốn Tâm hồn cao thượng (tiếng Ý: Cuore) đoạt Giải thưởng Văn chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, dịch từ tiếng Pháp. Cuốn này nguyên thủy viết bằng tiếng Ý của Edmondo De Amicis và tại Việt Nam được xem như một cuốn "luân lý giáo khoa thư" của thế kỷ 20 và trở thành "kim chỉ nam" của một thế hệ thiếu niên. Các tác phẩm khác do ông dịch lại từ tiếng Pháp: Vô gia đình (Sans Familles), Trong gia đình (En Famille) và Về với gia đình của Hector Malot; Guy-Li-Ve du ký (Gulliver's Travels) của Jonathan Swift; 80 ngày vòng quanh thế giới (Le Tour du monde en quatre-vingts jours) của Jules Verne cũng được nhiều người biết đến.

Năm 1954 ông di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường Trần Quý Cáp ở Sài Gòn rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu thư và Học liệu thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục của VNCH. Khi chính quyền VNCH sụp đổ, ông sang Mỹ tỵ nạn và mất ngày 20/8/1975 tại San Bernadino, CA, Hoa Kỳ.

Nhà giáo Hà Mai Anh & Tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng

Trong đêm hội ngộ kỷ niệm 50 năm Ngày Ra Trường của Khóa Nguyễn Trãi I, Trường Đại Học CTCT vào cuối tháng 5, 2019. Tôi gặp anh Hà Mai Khuê (Thiếu Tá Thiết Giáp, bạn học với Nguyễn Lương Tâm thời trung học ở Đà Lạt và cũng là bạn cùng khóa NT I của chúng tôi). Anh Khuê nhắc lại bài viết của tôi cách nay 15 năm khi được tin nhà giáo Hà Mai Anh (bác của anh Hà Mai Khuê) qua đời ngày 20 tháng 8 năm 1975 tại San Bernadino, Hoa Kỳ.

Nhà giáo Hà Mai Anh, thân phụ của Đại Tá Kỵ Binh Hà Mai Việt (1933), tác giả Thép & Máu, Việt Nam Cội Nguồn Cuộc Chiến, Việt Nam & Hoa Kỳ Trong Chiến Tranh Lạnh... GS Hà Mai Phương (1939-2009) với nhiều tác phẩm biên khảo rất giá trị.

Nhà giáo Hà Mai Anh là vị thầy đáng kính trong những thập niên trước năm 1975, những tác phẩm của nhà giáo hầu hết chọn lọc nội dung hướng thượng Chân, Thiện, Mỹ như những lời dạy bảo của bậc sinh thành hướng dẫn con cái mang tâm hồn nhân bản.

Trong thời gian qua, nhiều bài viết nói về nền giáo dục thời VNCH với châm ngôn: Đức Dục, Trí Dục, Thể Dục. Nền giáo dục đó từ bậc tiểu học đã dạy dỗ, hướng dẫn trẻ thơ học hỏi hầu khi lớn lên làm con người lương thiện, tâm hồn trong sáng để phục vụ cho đất nước.

Năm 1938 cuốn Công Dân Giáo Dục của nhà giáo Hà Mai Anh đã được xuất bản tại Nam Định được chấp thuận dùng làm sách giáo khoa. Quyển Tâm Hồn Cao Thượng, bản dịch của nhà giáo Hà Mai Anh đoạt Giải Thưởng Văn Chương của Hội Alexandre de Rhodes Hà Nội năm 1943, Cuốn sách nầy được xem như cuốn Luân Lý Giáo Khoa Thư của thế kỷ 20 và trở thành “kim chỉ nam” cho  thế hệ thiếu niên trong nhiều thập niên. Sách được tái bản nhiều lần.

Bậc sinh thành lúc nào cũng quan tâm dạy dỗ con cái với tình thương cao cả. Người cha thường nghiêm khắc, người mẹ nhẹ nhàng, trìu mến… Hình ảnh đó trong tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng thể hiện trong đời sống xưa nay.

Sau năm 1975, Tâm Hồn Cao Thượng của dịch giả Hà Mai Anh được tái bản rất nhiều lần tại Việt Nam, nhưng chưa lần nào thực hiện đúng trong nguyên tác, các nhà xuất bản thiếu tôn trọng tác quyền!. Lời NXB Thanh Niên ghi: “Chúng tôi cũng có thay đổi, sửa chữa một vài chi tiết của bản dịch nầy cho phù hợp với tình hình hiện nay…”. Thật khó hiểu “tình hình hiện nay” qua tác phẩm văn học, giáo dục như thế nào mà tự ý làm giảm giá trị nguyên bản được trích giảng ở nhà trường qua nhiều thập niên.

-Vào đầu thế kỷ 18, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của danh sĩ Đặng Trần Côn đã lưu lại trong văn đàn Việt Nam áng thơ tuyệt tác. Thi phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn viết bằng Hán văn, Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã chuyển dịch sang quốc âm, thể thơ song thất lục bát, dài 412 câu (theo bản của Văn Bình Tôn Thất Lương, năm 1950, sách Giáo Khoa Tân Việt) được giảng dạy ở học đường. Qua bản dịch Chinh Phụ Ngâm của Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn đưa cho danh sĩ Ngô Thời Sĩ xem và ông ta ngỏ lời thán phục: “Văn chương tới mức nầy thì Lão Ngô tôi chỉ còn biết bái phục mà thôi”. Nhờ bản dịch bằng quốc âm của Đoàn Thị Điểm, tác phẩm Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn mới được lưu truyền và áng thơ Chinh Phụ Ngâm gắn liền với tên tuổi nhà thơ Đoàn Thị Điểm.

-Vì vậy có những tác phẩm mà bản dịch lột tả văn phong lẫn nội dung, thể hiện tinh hoa của nguyên tác cũng được nổi danh và lưu truyền qua nhiều thạp niên; điển hình như tác phẩm của Edmondo De Amicis qua bản dịch của Hà Mai Anh.

Nhà giáo Hà Mai Anh (1905-1975), bút hiệu Mai Tuyết và Như Sơn, tác giả của nhiều sách giáo khoa và dịch giả nhiều cuốn sách phổ biến trong thập niên 50, 60 và giữa thập niên 70 ở Sài Gòn.

Năm 1954 cụ di cư vào Nam làm hiệu trưởng trường tiểu học Trần Quý Cáp ở góc đường Trần Quý Cáp và Pasteur, Sài Gòn rồi chuyển sang làm việc trong Ban Tu Thư và Học Liệu thuộc Bộ Quốc Gia Giáo Dục của VNCH.

Nhà giáo Hà Mai Anh được trao tặng Giáo Dục Bội Tinh VNCH, Giải Nhất  Giải Dịch Thuật Pháp Văn của Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa năm 1970. Cụ đã dịch những danh phẩm hầu như chúng ta đều  biết: Vô Gia Đình (Sans Famille của Hector Malot), Trong Gia Đình (En Famille của Hecotr Malot), Về Với Gia Đình (Romain Kalbris của Hector Malot), 80 Ngày Vòng  Quanh Thế Giới (La Tour du Monde en Quartre-vingt Jours của Jules Verne), Guy-Li-Ve Du Ký (Gulliver's Travels của J. Swiff), Em Bé Bơ Vơ (Charles Dickens), Chuyện Trẻ Em (Contes de Perrault của Charles Perraul), Thuyền Trưởng 15 Tuổi (Un Capitaine de 15 Ans của Jules Verne)... Hầu hết các tác phẩm chọn dịch đều có nội dung trong sáng, hướng thượng để học hỏi.

Tác phẩm Cuore của nhà văn Ý Edmondo De Amicis (1846-1908) ấn hành năm 1886, được nhà văn A. Pazzi chuyển sang Pháp ngữ Les Grand Coeurs và nhà giáo Hà Mai Anh dựa vào bản Pháp ngữ nầy dịch Tâm Hồn Cao Thượng.

Tôi viết chim cút vì Vũ Hạnh cùng với đám mánh mung, lừa vụ chim cút đã một thời gây xôn xao trong làng báo Sài Gòn.

Tác giả Edmondo De Amicis viết về tác phẩm cho trẻ thơ, viết theo hình thức nhật ký của Enrico Bottini (là An Di trong bản dịch của Hà Mai Anh), cậu học trò 11 tuổi, học tiểu học. Câu chuyện dẫn dắt từ Ngày Khai Trường tại thành Torino, thành phố ở Tây Bắc nước Ý, vào thứ Hai ngày 17 tháng Mười đến Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi vào thứ Bảy, ngày 1 tháng Bảy. Tác phẩm tuy mỏng, gồm 60 “tiểu mục” ngắn từ (1 Ngày Khai Trường) “Hôm nay tôi đi học…” đến (60 Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi) với dòng kết “Mẹ tôi tin rằng hình ảnh trường cũ sẽ in vào ký ức của con cho đến lúc tàn hơi thở cuối cùng như không bao giờ mẹ quên được bóng dáng của nhà cũ kỹ mà ở đó mẹ đã nghe tiếng nói ban đầu của con - Mẹ con”.

Từng mẩu chuyện ngắn ghi lại trong lớp học vui, buồn… tinh nghịch, an ủi, chia sẻ cho nhau, hình ảnh đó trong tuổi học trò đã từng trải qua.

Tâm hồn trẻ thơ như trang giấy trắng, khi cha mẹ, thầy cô tô điểm những bông hoa tươi đẹp sẽ ảnh hưởng vô cùng. Và, trong tác phẩm nầy đã nói lên điều đó. Từ những ghi nhận của cậu bé, lời nhắn nhủ của cha mẹ được diễn đạt qua dòng nhật ký trong suốt niên học được kết thúc lúc chia tay.

Tác phẩm Tâm Hồn Cao Thượng được nhà giáo Hà Mai Anh chuyển ngữ với lời văn trong sáng, nhẹ nhàng, giản dị, khi đọc cảm tưởng như những lời tâm tình của cậu bé học lớp Ba với bậc sinh thành, với thầy cô và cả bạn bè. Lời thầy cô, cha mẹ nhắn nhủ, khuyên bảo từ những cử chỉ, hành động nhỏ nhặt trong nhà, trong lớp... đến ý thức và trách nhiệm người con của đất nước. Có thể nói Tâm Hồn Cao Thượng là “sách gối đầu giường” cho tuổi trẻ để hiểu biết những điều cao quý.

Trong bài viết Một Thuở Học Trò, GS Nguyễn Xuân Vinh ghi nhận: “... Những câu chuyện ở học đường, và trong gia đình, về các thầy giáo, cô giáo và bè bạn của An-Di, những mẩu chuyện vui hay buồn đã xảy ra trong thành phố cổ xưa này đã được kể lại trong sách bằng một văn phong giản dị và trong sáng, thắm đặm tình người.... đặc biệt là cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi được đọc, tả cuộc đời của cậu bé An-Di trong một năm học ở lớp Ba, đã cho tôi nhiều bài học về lòng thương người, phương cách cư xử chung thủy với bè bạn, và hiếu kính với mẹ cha...

… Từ ngày lên học trường trung học ở Hà Nội, và sau này ở bậc đại học, theo học ở Pháp hay ở Mỹ, tôi phải tự mình mua lấy sách vở giấy bút, nhưng bao giờ vào những dịp khai trường, vào thăm những hiệu sách và đi quanh quẩn ở giữa những chồng sách vở, thơm mùi giấy mới, tôi lại nhớ đến thời thơ ấu, nhớ những kỷ niệm xa xưa, cho đến năm học lớp Ba, bao giờ mẹ tôi cũng đưa tôi đến tận lớp vào ngày tựu trường…

Cuốn truyện đầu tiên bằng tiếng Việt tôi đọc là cuốn Tâm Hồn Cao Thượng của dịch giả Hà Mai Anh. Đó là những cuốn sách Pháp và Việt tôi đọc đầu tiên, và là những cuốn sách hay đã xâm nhập vào tiềm thức của tôi, để sau này dù có tạo ra được một văn phong riêng cho mình, tôi vẫn chỉ có thể viết được những câu chuyện tình cảm nhẹ nhàng giống như trong những cuốn sách đầu đời tôi đã đọc mà thôi…”.

Hình ảnh vị thầy qua bài ký của Lưu An viết từ Thụy Sĩ, thể hiện sự trong sáng, cao quý của nhà giáo đã tận tâm đem cả tấm lòng của mình dạy dỗ học trò:

“... Nếu kể cả vị thầy giáo già cả nghèo khổ đầu tiên của đời tôi tại một ngôi nhà tồi tàn trong một xó xỉnh nào đó của thành phố Hà Nội. Người thầy đã dậy tôi đọc và viết vần ABC trong hai tháng ngắn ngủi trước ngày tôi di cư vào Nam năm 1954, khi đó tôi đã 8 tuổi! Thì thầy Hà Mai Anh là vị thầy giáo thứ tư của đời tôi, thầy đã dậy tôi năm lớp Nhì tiểu học, khi tôi 12 tuổi.



Sau khi vào Nam, việc học của tôi lại bị gián đoạn khoảng hơn một năm. Vì bố mẹ và anh em chúng tôi cùng với ông nội tôi phải theo gia đình chủ nhân ông đi lên Đà Lạt làm rẫy, lập trang trại. Những sự giúp đỡ, cứu trợ của các cơ quan từ thiện và chính phủ cho người di cư, đã được chủ nhân khéo léo nuốt trọn. Mãi đến năm 1955, khi sự tham nhũng, lường đảo tiền cứu trợ của người di cư bị khám phá, chủ nhân ông thất thế. Gia đình tôi mới trở về Sài Gòn, hòa nhập với đời sống bình thường của những người nghèo khổ trong xã hội.

Lúc di chuyển về Sài Gòn, vì thấy tuổi tôi đã lớn, ba tôi đã xin ngang cho tôi vào lớp Tư trường Tiểu Học Chí Hòa. Nhờ đó tôi đã có một may mắn đầu tiên trong đời, năm 1967 khi lên lớp Nhì, lớp của thầy Hà Mai Anh. Vị thầy kính yêu và cũng là vị thầy đã ảnh hưởng rất nhiều đến bản chất, hướng đi suốt cuộc đời tôi. Có lẽ đến nay, ở cái tuổi xế chiều, khi mà những ước muốn đã được coi là ảo vọng, dang dở, muộn màng. Khi mà sự nồng nàn, hăng say của tuổi thanh niên đã chớm màu buồn bã. Tôi tự cảm thấy lương tâm mình không bị ray rứt, xấu hổ với những tháng năm học hành và làm việc của mình. Phần lớn nhờ vào những bài học Đạo Đức, cũng như lời khuyên nhủ mà tôi đã thấm nhuần từ vị thầy kính yêu này.

Với vị thầy yêu kính này, ký ức tôi vẫn còn ghi đậm khá nhiều kỷ niệm, mà có lẽ trọn đời tôi chẳng bao giờ quên. Đến nay đã hơn nhiều thập niên rời xa sự dạy dỗ của thầy, tôi có cảm tưởng thầy vẫn còn là một biểu tượng trong ký ức, làm khuôn mẫu cho tôi suy nghĩ và học hỏi. Để dành riêng cho vị thầy muôn thuở, một nhà giáo dục gương mẫu đó. Tôi xin đề cập đến vài chi tiết như là sự tôn vinh một người đã trọn đời tận tụy đóng góp cho nền giáo dục của đất nước.

Thỉnh thoảng trong những giờ dậy học liên quan đến lịch sử địa lý, thầy thường nhắc nhở học trò về đất nước Việt Nam lấy sự phát triển nông nghiệp làm căn bản. Thầy khuyên chúng tôi nên hướng sự học mình vào kỹ thuật và nhất là về nông nghiệp. Với hướng đó, sự đóng góp vào quốc gia tích cực và thực tiễn nhất. Tôi không biết lời khuyên đó của thầy có ảnh hưởng nhiều đến các bạn bè khác của lớp không. Nhưng với tôi nó đã đi vào trí nhớ của tôi, chi phối sự ước mơ và nghề nghiệp sau này của tôi một cách quá sâu đậm...

... Khi tôi học với thầy, hình như tác phong trong sáng của thầy đã là chiếc chìa khóa đầu tiên mở cửa tâm hồn tôi. Cho vào đó những lời chỉ dạy như là dòng chữ đầu tiên trong sáng! Tôi ôm ấp những ước mơ từ đó, tôi đã hướng tất cả đis mê của đời mình vào ngành nông nghiệp. Trong mấy chục năm làm việc ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc. Tôi cố dành tất cả sự thông cảm và giúp đỡ cho những thành phần lao động, đói khổ dưới quyền mình.

Tôi biết rất kỹ giá trị của sự nhọc nhằn, của những giọt mồ hôi. Tôi chưa một lần nào có những câu nói tỏ vẻ khinh rẻ đối với những người ít học, thua kém tôi. Rất có thể sự thông hiểu đó cũng được đến với con người tôi, vì tôi tìm thấy trong sự cực nhọc, nghèo túng của người khác là hình ảnh của bố mẹ và cũng chính cá nhân tôi.

Tôi còn nhớ rất rõ, trong một giờ Đức Dục và buổi sáng. Thầy dạy chúng tôi về bài học thương người tàn tật, nghèo khổ, và già lão. Thầy đọc cho chúng tôi nghe một truyện về lòng nhân đạo, rồi thầy kể chuyện vua Lý Thánh Tông (1054-1072) lấy áo ngự bào đắp cho một người ăn mày trên đường đi tuần vào một ngày mùa đông lạnh giá. Cả lớp hơn 50 đứa học trò im lặng nghe thầy kể chuyện trong sự say mê và cảm động bởi lòng từ ái của vị minh quân trong thời thịnh trị!...

Với những làn khói tỏa mùi thơm của tình thầy trò, với tâm tư cảm động của những bài học xưa đã hun đúc tôi nên người có chút khả năng và lý tưởng (dù nó chưa làm gì tạm gọi là hợp với ước mơ của mình) Tôi xin gửi đến thầy Hà Mai Anh, người thầy mà tôi muôn đời kính nhớ và biết ơn.”(Lưu An, Thụy Sĩ)

Qua những dòng của Lưu An viết về nhà giáo Hà Mai Anh nói lên cái đạo thầy trò dù thời gian và không gian có đổi thay nhưng đạo nghĩa Đông Phương như ánh mặt trời soi sáng trong tâm tư, tình cảm con người. Người bạn đồng môn Khóa Nguyễn Trãi I - CTCT với tôi - Nguyễn Xuân Trung -  cũng học với thầy Hà Mai Anh trong thời điểm đó cũng nói về hình ảnh vị thầy khả kính đầu tiên khi vừa di cư vào Nam chia sẻ là vị thấy thay người cha dạy dỗ con cái. Bạn hỏi tôi, có học chung với nhau với thầy Hà Mai Anh không?. Tôi nói, lúc đó ở phố cổ Hội An, cũng giống như thành phố Torino trong Tâm Hồn Cao Thượng, học sinh cả nước có đọc sách đều coi như hình ảnh tiêu biểu vị thầy.

Ngày trước, nữ sĩ Đoàn Thị Điểm mang tâm trạng của người chinh phụ khi chồng là Nguyễn Kiều đi sứ sang Trung Hoa, vì giặc giã, giao thông cách trơ, ngày đêm mong chờ nên đem tâm tư, tình cảm của bà để dệt thành áng thơ bất hủ. Sau hai thế kỷ, nhà giáo Hà Mai Anh cảm nhận được sự cao quý trong tâm hồn nên chọn tác phẩm Les Grandes Coeurs của nhà văn Ý Edmondo De Amicis để gởi gắm niềm ước mong của mình cho tâm hồn trẻ thơ làm hành trang vào đời.

An-Di ơi, “Mỗi khi bất đắc dĩ cha phải phạt con thì lòng cha đau đớn hơn con và chỉ muốn cho con sửa lỗi nên cha mới phải làm cho con khóc”… “Lòng cha vẫn yêu con, vì con là niềm hy vọng quí báu nhất đời của cha”… “Con nên nhớ rằng lòng hiếu thảo là một bổn phận thiêng liêng của con người”.

Công cha, nghĩa mẹ muôn đời còn ghi

TỪ KẾT

Nhà giáo Bùi Văn Bảo có làm bài thơ "Khóc Bạn Hà-Mai-Anh" như sau:

Thôi thế là xong nhé bác Hà
Tâm hồn Cao thượng kiếm đâu ra?
Tuổi Xanh đất Mỹ đành thua-thiệt
Sống Mới trời Nam hẳn xót-xa
Về với gia-đình sao vội-vã?
Vòng quanh thế-giới há lâu-la!
Đồng-hương, đồng-quận, thêm đồng-nghiệp
Giọt lệ như sương khóc bạn già.

Bùi Văn Bảo (1917-1998), hiệu Bảo Vân và Bê Bình Phương 

Là một nhà giáo và soạn giả VN. Ông sinh tại Trình Phố, Thái Bình, dòng dõi Bùi Viện. Ông tốt nghiệp trường Bưởi, Hà Nội rồi được bổ lên Phú Thọ, Thái Nguyên dạy học. Trong hai thập niên 1930 và 1940 ông đóng góp nhiều bài cho các báo Phong Hóa, Ngày Nay, Tri Tân, Thứ Bảy, Loa. Năm 1954 ông di cư vào Nam và góp tiếng trên báo Tự Do, mục "Đàn Ngang Cung". Sau đó ông được bổ vào Ban Tu thư Bộ Giáo dục VNCH và làm hiệu trưởng trường Trần Quý Cáp tại Sài Gòn. Là nhà giáo ông từng quan tâm soạn sách giáo khoa cùng những ấn phẩm cho thanh thiếu niên nên sách của ông được dùng trong giáo trình giảng dạy thời VNCH. Ông là người sáng lập báo Tuổi Xanh (1958) và nhà in "Nhật Tảo".

Cùng các họa sĩ, nhà văn, nhà giáo Bùi Văn Bảo biên soạn bộ “Việt Sử Bằng Tranh” gồm 30 tập viết từ đời Hùng Vương tới nhà Nguyễn Quang Trung rất được các phụ huynh tán thưởng. Đây là những truyện các anh hùng, liệt nữ Việt Nam được trình bày dưới hình thức những bức tranh với những lời chú thích ngắn và gọn, bằng ba thứ chữ Việt -  Anh -  Pháp. 

               Năm 1975, ông sang Canada tỵ nạn và lập nhà xuất bản "Quê Hương" ở Toronto tiếp tục ra sách dạy tiếng Việt với châm ngôn của ông:

Chỉ sợ đàn con quên Việt ngữ
Đừng lo lũ trẻ kém Anh văn

Ông là người đầu tiên xuất bản sách dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ em Việt tại hải ngoại. Ông cũng góp nhiều bài trên báo Lửa Việt  (Canada), mục "Đốt Lò Hương Cũ"; Việt Luận (Úc) v.v. Văn phong của ông trong sáng, giản dị hợp cho tuổi trẻ như những bài học thuộc lòng. Ông cũng để lại nhiều văn thơ dịch thuật đủ loại gồm hát nói, thất ngôn, thơ mới, kịch thơ, văn tế.

-Nhà báo Bùi Bảo Trúc (1944-2016) nổi tiếng với lối viết và cách nói chuyện hài hước, dí dỏm, thông minh...Ông là con trai của Nhà giáo Bùi Văn Bảo -có bút danh khác là Bảo Lâm, sinh năm 1944 tại Bắc Việt, di cư vào Nam năm 1954, học trung học Chu Văn An, Sài Gòn. Ông đi du học tại Tây Tây Lan, về nước năm 1967 làm việc cho chính phủ VNCH, sau đó là phát ngôn viên chính phủ đến năm 1974, rồi được cử qua London làm việc. Sau năm 1975, ông từ London qua Canada sống một thời ngắn, rồi sang Washington DC làm việc cho Ban Việt ngữ đài VOA.

Năm 2002, ông rời đài VOA về sống tại Nam California, tiếp tục làm việc tại đài Little Saigon Radio, tuần báo Viet Tide đồng thời là gương mặt quen thuộc trên đài Hồn Việt TV. Ông nhiều năm viết cho báo Người Việt trong mục Thư Gửi Bạn Ta bằng lối viết dí dỏm được rất nhiều độc giả yêu thích. Nói về Bùi Bảo Trúc, nữ tài tử Kiều Chinh cho rằng ông là “bậc thầy của chữ nghĩa văn chương.”

-Hai nhà giáo thân thiết Hà Mai Anh và Bùi Văn Bảo là những vị thầy đáng kính của Việt Nam, những tác phẩm của nhà giáo hầu hết chọn lọc nội dung hướng thượng Chân, Thiện, Mỹ như những lời dạy bảo của bậc sinh thành hướng dẫn con cái mang tâm hồn nhân bản.tiêu biểu của Sài Gòn trước năm 1975.

Để nhớ lại thời đi học và đi dạy học của người viết, chúng ta cùng hát vang bài hát;

Trường Làng Tôi – Phạm Trọng (Phạm Trọng Cầu - 1935-1998)

 Trường làng tôi cây xanh lá vây quanh/ muôn chim hót vang lên êm đềm.
Lên trường tôi, con đê bé xinh xinh/ len qua đám cây xanh nhẹ lướt.

Trường làng tôi hai gian lá đơn sơ/ che trên miếng sân vuông mơ màng.
Trường làng tôi không giây phút tôi quên/ nơi sống bao kỷ niệm ngày xanh.

ĐK: Nơi sống bao mái đầu xanh màu/ Đời tươi như bao lá xanh, lá xanh
Theo tháng ngày chiến cuộc lan tràn/ qua xóm thôn nát ngôi trường xưa

Không bóng hình bao trẻ nô đùa/ Cùng nhau vang hát khúc ca vô tư
Mơ đến ngày nước non thanh bình/ trong thôn xóm ấm ngôi trường xưa

Trường làng tôi nay vang tiếng ê a/ nay in bóng bao em nô đùa
Trường làng tôi không giây phút tôi quên/ dù cách xa muôn trùng trường ơi.


(Tham khảo: Sách báo – Internet - Trang web của Cựu Học Sinh VĐH Đà Lạt :
https://sites.google.com/site/viendhaihocdhalat/linh-tinh/su-tm-trn-mng/nh-gio-h-mai-anh--tc-phm-tm-hn-cao-thng---vng-trng-dng--22062020 )


Cập nhật theo nguyên bản của tác gỉa chuyển từ SàiGòn .