Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM



KỲ THỨ II.


THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Việt Văn Mới xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Việt Văn Mới chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ,một bộ tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .

Từ Vũ

VvietartNewvietart 2004-2018
ViệtVănMới 25.6.2020 Troyes-France.



VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG







BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

Tiết 3

NHẤT LINH
Nguyễn Tường Tam (1905- 1963)



Tiểu Sử.

Tên thật ông là Nguyễn Tường Tam. Sinh ngày 1-2-1905 ở Cẩm Giàng, Hải Dương. Gia đình có sáu anh em: Nguyễn Tường Thụy, Nguyễn Tường Cẩm, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Tường Long (Hoàng Đạo), Nguyễn Thị Thế, Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) và Nguyễn Tường Bách. Thích văn chương từ thuở nhỏ, năm 16 tuổi làm thơ đăng trên báo Trung Bắc Tân Văn và năm 18 tuổi viết bài bình luận Truyện Kiều đăng trên báo Nam Phong của Phạm Quỳnh.

Năm 21 tuổi, từ giã ban Lý Hóa vạn vật học (PCB) vào Nam Kỳ gặp Trần Huy Liệu, Vũ Đình Dy múa bút ở Đồng Nai. Năm 1927 sang Pháp, bạn học với Nguyễn Mạnh Tường. Đậu cử nhân khoa học, 1930 về nước mở báo Tiếng Cười; nhưng không có tiền, báo được giấy phép phải hủy bỏ. Sau ra dạy học các trường tư thục Thăng Long, Gia Long trong hai năm. Sau ra báo Phong hóa, Ngay nay. Cuối năm 1941, Tự Lực văn đoàn bị khủng bố, ông trốn sang Tàu. Còn Hoàng Đạo và Khái Hưng bị bắt đưa đi an trí. Năm 1945 về nước hợp tác với Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam (1-3-1946) giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Năm 1948 rời bỏ nghề chính trị, sang Nam Kinh (Trung Quốc). Năm 1951 về Hà Nội tuyên bố không còn đứng trong một đảng phái nào; mấy tháng sau vào Nam bộ mở nhà xuất bản Phượng Giang in lại những sách Tự Lực văn đoàn tiền chiến(4).

Tác Phẩm.

Cuốn đầu tiên của Nhất Linh là cuốn Nho Phong ký biệt hiệu Nguyễn Tường Tam, 1926, Người quay tơ 1927, Gánh hàng hoa 1934 (với Khái Hưng), Tăm tối 1936, Anh phải sống 1936 (với Khái Hưng), Hai buổi chiều vàng 1937, Đời mưa gió, Lạnh Lùng, Đôi bạn, Đoạn tuyệt, Đi Tây, Bướm trắng…

Phân Loại Tiểu Thuyết.

Nhất Linh khác Khái Hưng ở chỗ tác phẩm của ông lồng tư tưởng cách mạng thực tiễn vào tiểu thuyết. Đồng cảnh với Khái Hưng nổi tiếng trong Tự Lực văn đoàn nói chung, ông thích viết loại tiểu thuyết cải cách lề sống cũ hướng đến cái mới. Tiểu thuyết luận đề cách mệnh của ông, mặc dầu dưới hình thức nào cũng tuyên truyền chủ nghĩa tư sản cách mệnh rất tế nhị, khéo léo; khiến thực dân hồi ấy vẫn cho phép ấn hành. Truyện ngắn của Nhất Linh như Hai buổi chiều vàng, Tăm tối tái bản lại đổi tiêu đề là Thế rồi một buổi chiều. Truyện dài của Nhất Linh có phần sâu sắc hơn truyện ngắn, cũng như Khái Hưng. Tác phẩm in lại sau tiền chiến phải nói rằng bán rất chạy.

Bướm trắng, cuốn truyện phân tích tâm lý căn bản như Âu Phương hoặc những tác phẩm cổ điển Nga. Quyển này chịu ảnh hưởng rất trung thành hơi văn của Dostoievskð trong Tội ác và trừng phạt. Bướm trắng không cần thiết lắm, nên chúng tôi nhìn vào Nhất Linh tiền chiến chỉ phân tích qua Đôi bạn.

Nghệ Thuật Viết.

Như ở trên, chúng ta đã bàn đến nghệ thuật viết của Khái Hưng, thì ở đây Nhất Linh viết rất hấp dẫn. So với Nho Phong (1926) đến năm 1936 viết Nắng thu đã tiến bộ rất nhiều. Cuốn này mãi đến năm 1941 mới ấn hành. Trong truyện này, ông tả mối tình cô gái câm với một thanh niên tư sản Tây học yêu nhau. Tác giả đạt được nhiều cảm giác diễn đạt bằng thái độ hình tượng, khiến người đọc liên tưởng đến André Gide khi viết Giao hưởng đồng quê. Còn gì khó hơn một cô gái câm muốn thổ lộ tình yêu khi đến tuổi dậy thì, ông đưa ra một lối diễn đạt qua cách tiếp xúc, Phong dạy Trâm học, nên từ mối tình câm ấy đã nói lên tình yêu thầm kín sâu sa qua nét bút, mặc dầu tình yêu ấy sau còn phát lộ qua thái độ, hành động. Đến Gánh hàng hoa, ông đã đi vào nội tâm diễn tiến của con người rất sâu. Những cảm giác tinh tế được khơi diễn, những tình ý cởi mở đúng điệu, hòa nhịp với tâm lý nam nữ thanh niên. Từ một anh chàng mù (Minh trong Gánh hàng hoa) đến viết văn, có người yêu khích lệ là Liên. Tính chịu đựng là điển hình cho phụ nữ Việt Nam, đôi khi chịu mang tiếng oan, nhưng về sau đánh tan dư luận bằng chịu đựng cao độ. Bao nhiêu tiểu thuyết cổ điển của chúng ta đã bàn đến họ. Cốt truyện Gánh hàng hoa vô vàn thương tâm, cảm động. Tác giả tả cảnh tượng một cô gái nuôi chồng ăn học. Cô hàng bán hoa ấy chắc hẳn rằng không một cô hàng bán hoa nào ở ngoài đời quên được và nhờ đó để càng học hỏi đưa con người tới mức tiến cao hơn. Chúng ta đọc một đoạn:

“...Không. Anh không làm giáo học nữa anh sẽ viết chuyện để ca tụng những tính tình giản dị, ngây thơ, tốt đẹp của các cô hàng hoa và hết thẩy các cô gái quê (Minh nhìn Liên) những cô gái quê như em, nhu mì, nhẫn nại dễ tha thứ và rất thương yêu chồng...”

Cảm giác bồng bột xuất phát thành thật, không giả tạo. Và còn phấn khởi như đoạn sau đây:

“...Ta để ở bìa Minh và Liên soạn.

Văn vỗ tay khen:

– Ừ có thể chứ. Vậy chiều nay bắt đầu đi nhé...”

Về truyện ngắn, không phải Nhất Linh không sở trường, nhưng không đặc sắc bằng Khái Hưng. Truyện ngắn kết thúc đột ngột, xảy ra theo đúng giác quan rất tự nhiên của Khái Hưng không thấy trong truyện ngắn của Nhất Linh. Ông luôn luôn phải tìm kết thúc theo một kết thúc luân lý xếp đặt, hoặc lồng vào một thứ triết lý quá cầu kỳ, khiến truyện mất tự nhiên và chính như thế giả tạo. Đó là nói chung. Đôi khi Nhất Linh viết truyện ngắn hay như truyện Cái tẩy (trong cuốn Hai buổi chiều vàng). Trong Cái tẩy, ông diễn tả sự chán chường của một số thanh niên thi không đỗ, thiếu bằng cấp, thiên về định mệnh, rồi sinh ra ẩn dật. Tâm tư một học sinh chán học, khinh bạc cuộc sống, cho rằng ở đời dễ mấy ai hiểu nổi mình, và chán hoàn cảnh chính trị thời ấy. Anh lấy một cô vợ quê mùa rồi không hề cho vợ mình biết mình là thứ người gì? Chồng cũng bán hàng như một người bán tạp hóa bình thường. Khi bạn cũ là kỹ sư đi qua ghé vào mua hàng chợt nhận ra bạn cũ, sự mừng rỡ hiện lên, thì người bán hàng kia xoa tay ra hiệu bảo bạn không nên nhắc nhở gì, vì anh giấu không cho vợ biết anh là người có học.

Thời bấy giờ chưa dễ làm cách mệnh, tuy rằng tư tưởng cách mệnh thường trực ở con người tác giả (Nhất Linh) không bao giờ quên, nhưng chính ẩn ức nho nhỏ ấy đã dồn vào truyện ngắn để đưa ra một bằng chứng thời đại suy luận. Điều kiện sơ đẳng đặc tính truyện như bàn ở tiết nói về Khái Hưng, tiểu thuyết đọc phải say mê, hấp dẫn. Có điều thế mới quyến rũ được độc giả, cũng như nhờ đó mà lồng tư tưởng vào truyện mới dễ cảm hóa được. Nói thế, tiểu thuyết của Nhất Linh không phải là không có trong đa số truyện của hai ông: Khái Hưng và Nhất Linh khi viết chung.

Chịu Ảnh Hưởng Tây Phương.

Như Khái Hưng, bạn đồng hành, ông thấm nhuần tư tưởng Âu Phương không phải là ít. Mượn hình thức tiểu thuyết Âu để tạo cho một thế hệ tiểu thuyết mới ra đời, (Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam), Thế Lữ, Xuân Diệu (thơ) là thành công của Tự Lực văn đoàn. Phái tân học Việt Nam hồi ấy, giai cấp thành thị rất thích thú loại truyện của nhóm ấy. Nhận định về truyện ngắn của Nhất Linh, Vũ Ngọc Phan viết trong Nhà văn hiện đại, ông có hơi văn như Pierre Hamp của Pháp. Nhất là cuốn Tăm tối (sau đổi thành Thế rồi một buổi chiều) không khỏi đưa độc giả nhớ đến Marré fraỵche et Vin de Champagne…, trang 99, NXB Vĩnh Thịnh tái bản Hà Nội 1954).

Cuộc Đời Làm Chính Trị.

Sau khi Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội lên nắm chính quyền, Chính phủ liên hiệp thành lập, Nguyễn Tường Tam giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao ký hiệp ước sơ bộ ngày 6-3-1946. Nhưng vẫn chưa thỏa mãn, tình hình Nam phần mâu thuẫn, tình thế Bắc phần gây thêm khó khăn, cho nên cả hai bên Việt Pháp đều cầu mong đi đến hội nghị Lang Biang, (Đà lạt). Đến ngày 17-4-1946 Nguyễn Tường Tam làm Trưởng phái đoàn sang Fontainebleau (Pháp), ông cáo từ ốm không tham dự, Phạm Văn Đồng thay thế (5). Sở dĩ ông không sang Pháp vì thừa biết rằng muốn độc lập không thể nào chỉ thảo luận xuông với Pháp được. Và cũng là lập trường của Việt Nam Quốc Dân Đảng, báo Việt Nam đã bàn về vấn đề này. Đến ngày 28-10-1946, tại nhà Hát Lớn Hà Nội, Quốc hội lâm thời nhóm họp, người ta thấy khiếm diện năm mươi ghế nghị sĩ của VNQDĐ. Từ đó Nguyễn Tường Tam tự thôi giữ ghế Ngoại giao.

Cũng trong năm 1949, Nguyễn Tường Tam xuất ngoại đến Nam Kinh trú ngụ. Từ đó đến nay, ông tuyên bố không đứng trong đảng phái nào và ngưng hoạt động chính trị. Trong khi trở lại Nam phần vào 1951 ông làm giám đốc nhà Phượng Giang, con đẻ của Tự Lực văn đoàn, Đời Nay hậu chiến.



Phân Tích Loại Tác Phẩm Chính Của Khái Hưng:

Ở Nhất Linh, Bướm trắng là cuốn truyện tác giả thích nhất. Vì ông cho rằng đó là cuốn truyện phân tích tâm lý căn bản có thể vượt không gian và thời gian(6). Chúng tôi cho rằng vì chán chường cách mệnh, chính trị; ông trở về với văn chương bày tỏ ở nội tâm. Cho nên nhận định sự nghiệp Nhất Linh tiền chiến, không thể nào bỏ qua Đôi bạn. Ở Đoạn tuyệt là cuốn tiếp nối Đôi bạn, thực ra không có gì đặc biệt lắm…. nó chỉ là cái đuôi của Loan và một vài hình bóng lờ mờ của Dũng. Tư tưởng của nhóm phải là Đôi bạn. Phê bình Đôi bạn là bao trùm văn nghiệp Nhất Linh tiền chiến, nếu văn học sử đã định ông là kẻ có công nhất trong Tự Lực văn đoàn. Thì hiển nhiên sự nghiệp của ông căn cứ vào TLVĐ chứ không phải là sau tiền chiến, vậy là Đôi bạn.

Tự Lực văn đoàn phát sinh sau cuộc thất bại cách mệnh của Nguyễn Thái Học năm 1930. Đời văn nghệ Nhất Linh và đời chính trị Nguyễn Tường Tam chỉ là một – văn nghệ chính trị đi trước là mở màn cho làm chính trị theo sau.

Ngược dòng thời gian để nhận định lý lập luận trên, chúng ta phân tích Đôi bạn. Trong Đôi bạn, Dũng con quan Tuần phủ khác hẳn tính các anh, người sau học giỏi nhưng không phải để nối dõi tông đường, mà theo đuổi làm cách mệnh. Dũng yêu Loan cô hàng xóm, con một gia đình khác giai cấp. Nhà Loan ở nhờ đất nhà Dũng, Loan là cô gái xinh đẹp có tư tưởng cấp tiến. Còn Dũng, ở với gia đình quan lại, chàng chán cảnh khom lưng, luồn cúi, giả tạo bọn phong kiến; Dũng chán chường muốn lên đường. Cùng đọc một đoạn văn Nhất Linh viết:

“...Trúc nhìn xuống xóm nhà dưới chân đồi và hai con ngựa buộc ở bụi mai, hai con ngựa ngày hôm sau sẽ đưa đôi bạn lên đường.

– Miễn là đổi lối đi, chứ đi ngựa mãi đau lưng tệ. Sang bên Tầu, tôi với anh sẽ dùng cáng đi sang Nga như các cụ xưa đi xứ. Tôi khênh một đầu anh khênh một đầu, cứ đi thế đỡ mệt hơn nhiều...”

Phải chăng đó là tư tưởng tác giả đã nuôi trong nhân vật Dũng ở Đôi bạn. Có thể nói rằng Đôi bạn gần gũi với hình tượng và lý tưởng tác giả nhiều nhất ở những năm 1936, 1937… Ngay ở trang đầu Thay mấy lời nói đầu. (Nhặt lá bàng), ông viết:

“...Ở đời tôi chỉ có hai người bạn thân nhất mà đành phải lần lượt hết xa người nọ đến người kia, xa anh là một và xa. Tôi không nói tên nhưng chắc anh đã đoán được người ấy là ai rồi...”

Đọc toàn bài Nhặt lá bàng của tác giả trong Đôi bạn để hiểu nhiều hơn nữa, ở đây không cần nhắc lại. Nhìn vào đấy, chúng ta thấy cảnh huống xã hội bây giờ, những đứa trẻ tương lai dân tộc, đang quằn quại bên gió lốc rét mướt nhặt lá bàng miệng run cầm cập, lòng vẫn mong “lạy trời gió lên” để lá rụng nhiều. Và ngày mai đem bán lấy tiền nuôi sống gia đình nghèo túng. Sự mâu thuẫn ấy không phải là tự nhiên mà có, là cố ý của tác giả muốn nói lên một thực trạng xã hội nô lệ. Nếu một cá nhân Dũng, con quan Tuần Phủ, hẳn sung sướng tấm thân no đủ, nhưng chỉ có thiểu số như con của bọn thư lại thôi. Còn đa số là xã hội nghèo khổ, của những hình ảnh gầm cầu, nhặt lá bàng kia.

Một đồng bạn của Dũng, Thái chết về nghề cách mệnh, không thể hoạt động trong nước được đành vượt biên giới. Đây là đoạn văn cảm động, ông tả tâm trạng hy sinh của Thái, người cách mệnh sống và chết vì cách mệnh, coi thân mình là phương tiện:

"...Hai người hôm sau tìm đến nhà một người bạn cũ là nơi mà Thái ẩn núp từ khi vượt ngục ra. Dũng phải đưa ít tiền giúp Thái có cách trốn đi nơi khác xa, đợi dịp ra ngoại quốc lần nữa. Cuộc lại thăm bạn không có gì nguy hiểm cả. Dũng cũng biết thế, nhưng chàng tự nhiên có cái thú được làm một việc khác hẳn những việc chán nản hàng ngày. Mấy lần Túc can, chàng nhất định không nghe...”

Trúc nói:

– Nếu anh vừa mới nghĩ ra xong thì bây giờ anh quay về cũng còn kịp. Tôi nghĩ lại mới biết cũng khá nguy hiểm cho anh. Mà nhất là không cần phải anh đi.

Nói vậy, nhưng Trúc biết là không bao giờ Dũng quay về nữa. Dũng không cần trả lời Trúc, chàng hỏi sang chuyện khác:

– Cần nhất là làm thế nào anh ấy đi ngoại quốc thoát chứ sống ở trong nước mà sống lẩn lút như vậy chịu sao nổi. Đến chúng mình đây còn không chịu được nữa là...”

Nhận xét về vai Trúc bạn của Dũng rất xác đáng; tâm trạng Trúc là của người nhờ bạn cung cấp tiền nong, đời sống vật chất, cho nên không mấy khi dám cãi lại bạn hay thảo luận việc gì cũng sợ làm mất lòng bạn. Tâm trạng Dũng phản ảnh trung thành một kẻ ham làm cách mệnh, chứ chưa phải là nghề cách mạng như Thái. Lý tưởng nuôi trong con người hai mươi trong sạch bao giờ cũng mong rằng lý tưởng cách mệnh giải phóng cho con người bị thống trị thoát ách nô lệ, dầu thân mình có phải hy sinh. Những con người vào nghề chuyên nghiệp là Thái, còn mới vào nghề là Dũng. Còn Trúc, người không có bản sắc, khuynh hữu, tả; chính bản thân mình không có lập trường ở cuộc đời riêng tư. Sự khác biệt giữa tâm trạng Thái và Dũng, tác giả phân tích rất tỷ mỷ, diễn tiến tâm lý rõ rệt mỗi cá nhân mang trong mình một hoàn cảnh và một sứ mạng. Dũng con quan muốn tham gia cách mệnh, say mê cách mệnh, nhưng chưa đi sâu vào cách mệnh thực tiễn, chưa nếm cảnh nằm gai nếm mật, cảnh tù tội tra tấn của bọn thống trị. Còn Thái, một chiến sĩ trưởng thành trong đau khổ, trong cách mệnh, khi đau khổ đã tới một độ cao không bao giờ than van; lời lẽ chỉ chìm đi trong sự câm lặng. Đây là hình ảnh con người cách mệnh chuyên nghiệp dưới mắt Nhất Linh:

“...Lần này khác nhiều. Hai anh giúp tôi thế này là đủ lắm rồi. Khi nào đến bước liều thì chỉ nên cần đến một người khác thôi...”

Thái, đại diện cho chiến sĩ cách mệnh khinh bạc trở ngại, coi sống chết chỉ là một nghĩa phục vụ cho cách mệnh. Đến ông Tuần, đại diện thư lại, phong kiến thời bấy giờ, thân sinh Dũng, tác giả tả rất linh động về cách sống, cái gì là đài các rởm, phong lưu mượn; cách thức dạy dỗ con cái (nhân sinh quan mại bản) và nếp sống hàng ngày sung mãn vật chất nhưng nô lệ tinh thần. Và đến cả bà Tuần, hệ thống của gia đình thư lại thì lại càng tỏ ra rằng tác giả đã chứng kiến nếp sống bọn thư lại rất sâu xa:

"...Dũng uống cạn chén nước, nhìn ông Tuần, toan đứng dậy:

. Anh hãy ngồi đây tôi nói câu chuyện đã.

Dũng biết là cha mình đã nghĩ lâu lắm về câu chuyện sắp nói. Ông phải nói ra chắc vì ông đã tức tối lắm. Nghĩ vậy nên Dũng cố giữ vẻ bình tĩnh khi phải nghe lời trách mắng của cha.

Ông Tuần nói:

. Anh đã nhớn rồi, anh phải liệu lấy thân anh cho tôi khỏi lo.

Bà Hai rút ống vôi, ngửa mặt, quét vội chiếc que vôi vào lưỡi rồi nhai trầu vừa nói:

. Ông hỏi làm gì. Tôi đã mấy lần nhờ anh cả khuyên anh ấy thôi đi mà anh ấy có nghe đâu?

Bà cười và nói tiếp theo giọng đùa bỡn và cố làm như âu yếm để cho Dũng khỏi giận mình:

. Tôi chịu ông tướng cứng đầu cứng cổ nhất nhà. Ngay từ hồi còn bé đã như thế rồi.

Ông Tuần ngắt lời vợ:

. Bà để tôi nói nào. Tôi không muốn mang tiếng có một người con du đãng.

Dũng quay lại phí ông Tuần, dạ khẽ một tiếng làm như chưa nghe rõ lời cha, ông Tuần nói luôn:

. Độ này anh bỏ cả học hành đi bè bạn với những bọn du thủ du thực, anh làm lây tiếng xấu cho cả họ.

Dũng toan nói phân trần để bênh vực người bạn, nhưng ông Tuần gạt đi:

. Anh đừng cãi. Tôi biết lắm. Anh làm việc gì mà tôi không biết. Dầu sao tôi chỉ muốn anh ở nhà nghĩ đến sự học hành cho nên người xứng đáng. Người ta trông vào tôi không thẹn. Anh đã nhớn, tôi mong anh biết nghĩ và anh đừng để tôi nói nhiều.

Ngừng một lát ông tiếp theo:

. Nhất là giữa lúc này. Anh muốn tương lai anh khá thì anh phải để yên cho tôi cố sức lo cho anh mới được...”

Nhất Linh không để sót một thái độ khách quan nào mà không đưa phần phê phán tinh tế của chủ quan định hướng vào. Giữa một thời đại thư lại luồn lọt, cúi đầu xin chức tước, có kẻ hiến vợ đẹp cầu danh. Nói như thi sĩ Tản Đà thì:

“...Lấm đầu lươn luồn lụy vào ra

Chồng chồng vợ vợ vinh hoa

Mà trong vinh hiển xót xa đã nhiều...”

Ông Tuần muốn người nối nghiệp mình là Dũng, mong mỏi nhất lại là điều thất vọng nhất. Ông muốn Dũng lấy Khánh (con quan) cầu cạnh chức tước. Tác giả rất tâm lý khi tả người đàn bà độc ác ngầm (bà Hai), nửa đổ dầu khi lửa sắp cháy, cho con vợ lớn phải chịu án tử hình; nhưng lúc bùng to lại giả đò dập tắt nửa chừng để con vợ lớn không biết mà oán hận mình. Vừa muốn ông Tuần mắng Dũng (khiêu khích) vừa lại sợ Dũng biết dã tâm mình mong thế (giả vờ mắng bỡn Dũng bướng bỉnh từ nhỏ) gián tiếp khen Dũng bướng bỉnh để hy vọng lấy lại cảm tình quân bình. Đây là đoạn Nhất Linh vạch rõ hậu trường thối tha bọn quan lại tra tấn người:

“...Một hôm vào công đường chàng (Dũng) sợ hãi ngưng lại: cha chàng đương rập đầu một người nhà quê vào tường và tát luôn mấy cái nữa mặc dầu trán và má người kia đã ướt đẫm máu. Ông Phủ quay lại bảo anh lính lấy thau nước. Và trông thấy chàng gắt:

Ai lại cho nó vào đây?

Hồi đó chàng còn nhỏ...”

Nhất Linh cho độc giả thấy cảnh làm quan vô cùng đểu giả, luôn luôn mâu thuẫn với mình, đánh gã nhà quê là để tống tiền. Nhưng khi thấy con vào, biết vậy xấu xa, bỉ ổi, thì lại giấu con. Bối cảnh chính của xã hội là như thế. Liệu cái cách một vài ngành có đủ để xã hội tốt đẹp được không? Hoặc một trong các ông ấy được hưởng, còn hai mươi lăm triệu dân Việt vẫn hoàn toàn là tôi mọi. Cho nên một xã hội thối nát phải lật đổ cả chế độ phong kiến, phải làm cách mệnh toàn diện. Ông đã nghĩ như thế, cho nên trong Đôi bạn phản ánh nhiều tư tưởng biến thể qua hành động lờ mờ của Thái, của Tạo. Đây là nói về Tạo:

“...Tôi không sợ chết đâu, tôi cũng không buồn gì cả. Hình như lúc này tôi thấy đất mát lắm, giá nhắm mắt nằm xuống, bốn bề đất mát mẻ rồi chẳng biết gì nữa cũng hay hay. Anh lên tới đây có lẽ tôi không sống làm quái quỷ gì. Vì nói không ra tiếng nhưng lúc này cần viết thư bảo anh lên. Chẳng biết để làm gì nhưng không thể dừng được. Dầu sao tôi vẫn vui. Anh lên có lẽ tôi vui hơn nữa, mà có lẽ vì thế tôi cõng anh lên.

Rồi đến mấy giòng chữ nguệch ngoạc chỉ chỗ ở và đường vào, dưới cùng ký tên Tạo, thêm những chữ “Cái máy ảnh của anh tôi còn giữ bên cạnh. Sắp phải trả anh hơi tiếc đấy...”

Tạo là đồng chí của Thái. Còn nhiều nhà cách mệnh nữa, như Cận làm cách mệnh do hoàn cảnh xô đẩy lao đầu chính trị như thiêu thân. Những phần tử này không khổ công, không lập trường nên tiêu cực, chẳng khác gì Khái Hưng viết Tiêu Sơn tráng sĩ mà thực chất truyện Khái Hưng như là tác giả không đam mê viết lắm. Cận tiêu cực, hoặc vì thương bạn mà làm cách mệnh, bằng cách ủng hộ, hoặc theo chân Dũng. Chỉ có Thái là đáng kể, và Dũng là con người phản tỉnh. Đây là đoạn Dũng nghĩ về Thái, sau khi tin về Thái bặt vô âm tín:

“...Chàng đã chợt nghĩ đến Thái và cuộc sống quằn quại của Thái một người đã chán sự sống không tin ở công việc làm của mình, nhưng lúc nào cũng hoạt động để cố vượt ra khỏi sự buồn nản của mình bao phủ dầy đặc...”

Đến đây thiết tưởng rằng tác giả viết có liên tưởng đến Nguyễn Thái Học qua lối tiềm thức gợi tưởng. Cuộc cách mệnh thất bại ở Yên Bái của Nguyễn Thái Học và VNQDĐ có khác nhau bao đâu? Mộng ở trong sách là thực hay thực là mộng ở trong sách. Cũng là một Thái trong Đôi bạn có thể Nguyễn Thái Học ngoài đời. Thái vượt biên giới để tìm phương tiện mới, như Thái Học định vượt sang Tàu bị bắt ở giữa đường. Cho nên chán cuộc sống nhiều khi vẫn phải hoạt động cho đỡ buồn sầu. Thái Học biết lực lượng tan vỡ, nhưng cố gắng theo đuổi để tuyên bố dầu không thành công cũng thành nhân. (Nguyễn Thái Học).

Mối tình Dũng và Loan, tác giả gợi lòng người đọc từ tình tiết êm dịu đưa đến bi thảm. Hình tượng mới của đôi lứa thanh niên thiếu nữ ấy đem lại cho độc giả đọc xong còn ngẩn ngơ với tác dụng ảnh hưởng từ văn nghệ cao độ:

“...Bà Hai ngồi sát đất cạnh một luống cải. Ngay gần chỗ Dũng đứng, dưới giàn đậu ván. Loan đương mãi hái đậu cho vào rá. Loan biết là Dũng sang nhưng không quay lại. Dũng làm như chưa trông thấy Loan, chàng đứng dựa vào hàng rào nứa, yên lặng nhìn xuống luống cải, luống rau vuông vắn như những miếng thảm xanh. Đất khô và trắng, chỗ nào mới tưới xong, đất nâu xẫm lại và trên thảm cải, lá mùi (7), những giọt nước còn đọng long lanh. Một cơn gió nhẹ lướt qua mặt đất, các lá rau non nớt rung rung trước gió như muốn tỏ cái vui sướng được mát mẻ sau ngày mong đợi khô khan.

Ánh sáng buổi chiều đều đều và êm dịu: tiếng sáo diều ở đâu rất xa đưa lại, nhe như gió dũng cảm thấy có một sự hòa hợp nhịp nhàng giữa cảnh chiều và lòng chàng lúc đó. Tháy bà Hai nhìn về phía mình, Dũng mỉm cười yên lặng cúi đầu chào: chàng mong muốn cất tiếng nói lo sợ làm tan mất sự hòa hợp rất mỏng manh và chiều êm ả..."

Một bài thơ tuyệt đẹp của một buổi chiều êm dịu trong đó có hai con chim đang yêu nhau một cách tế nhị ở thuở ban đầu. Còn nữa, những đoạn tình thơ tả lại trong cảnh sống bao la đất trời; của những thiếu nữ, chàng thanh niên chỉ có một thời yêu nhau. Thời yêu nhau ấy sẽ:

"...Ánh trăng đương mờ bỗng sáng hẳn lên. Gió đưa tà áo Loan khẽ chạm vào tay Dũng khiến Dũng sực nghĩ mình đi sát gần bên Loan quá. Chàng nhớ đến hôm lễ thọ và cái mơ ước được đi chơi với Loan trong vườn cỏ thơm, gió đưa tà áo nàng phất phơ chạm vào tay êm như một cánh bướm. Dũng không dám quay mặt nhìn Loan, chàng chỉ thấy bên chàng có một bóng trắng hoạt động nhẹ và thơm, lúc sáng hẳn lên dưới ánh trăng, lúc mờ đi trong bóng cây lưa thưa. Dũng nghe rõ tiếng chân bước của Loan nhịp nhàng xen với tiếng chân chàng bước. Quả tim chàng đập mạnh. Chàng như trông thấy trước mắt bàn tay hơi rung rung của Loan, hôm nào rời những quả đậu non trong rá, chàng nhớ đến cái cảm tưởng ngây ngất được thấy đôi môi Loan mềm và thơm như hai cánh hoa hồng, bao nhiêu thèm muốn ngấm ngầm bấy lâu trong một phút rạo rục nổi dậy. Bốn bàn chân vẫn bước đều. Chàng nghĩ đến lúc đó ngừng lại, chàng sẽ đưa cánh tay đỡ Loan và miệng chàng sẽ nói câu mà chàng thầm nhủ với Loan bao lần trong giấc mơ:

Anh sẽ yêu em trọn đời...”

Tình yêu câm lặng hai người tóc xanh, của Dũng, của Loan bước trên hè phố là điều cảm thông nghĩa yêu đương vạn năng sự sống. Còn đẹp hơn bao nhiêu lời mở ngoài miệng. Chao ôi! Nhất Linh đã cho ta những cảm khoái tuyệt diệu chừng nào. Cám ơn!

Kết Luận.

Sau này Đoạn tuyệt tả tiếp cuộc tình duyên lỡ làng, nhưng không còn thơ mộng; vì lẽ va chạm vào thực tế và ý tưởng cũng không còn trong tập thứ hai. Cho nên chúng tôi cho rằng Đôi bạn là đáng nói hơn. Giá có Đôi bạn mà không có Đoạn tuyệt thì tác phẩm của Nhất Linh đỡ mất giá trị. Lối viết trường giang (roman fleuve) ông không có tài viết trường thiên như Balzac; nghĩa là người ta cần đọc những cái cần tiếp mà không bao giờ thấy là không cần. Đành rằng tiểu thuyết không bao giờ có kết luận nhất định vì chỉ là ngắt ở đoạn đời cần thiết nhất mà thôi. Gần hơn, Nhất Linh không có biệt tài viết trường thiên như Nguyễn Đức Quỳnh viết bộ truyện Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình. Đọc văn của Nguyễn Đức Quỳnh, người đọc thấy cần thiết sau khi ngắt Thằng Cu So, ngắt Thằng Phượng, để mong Thằng Kình.

Bướm trắng chỉ là mượn một hơi văn ngắn trong hơi văn trường thiên của Tội ác và trừng phạt của Dostoievskð, lối thám hiểm nội tâm con người và đào chiều sâu cặn bã xã hội. Trương chỉ là một nhân vật bệnh để cho người ta nhìn vào đó mà không sa vào trường hợp của Trương; chứ không phải là con người trong loại truyện Đôi bạn phản ảnh tư tưởng và giai cấp sống của Tự Lực văn đoàn.

Tác dụng văn chương của Nhất Linh có ảnh hưởng nhiều cho người hôm nay. Nghệ sĩ tính cách mệnh là đà tiến bộ trường cửu, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến thái độ ấy. Độc giả thời Khái Hưng mê cốt truyện Hồn bướm mơ tiên rồi muốn đi tu theo Ngọc, hay là có kẻ sống trong suy tư khắc khoải bằng hút thuốc lá. Đó chỉ là nói đến ảnh hưởng văn chương vào lối sống nho nhỏ. Một Ả.Q. tạo được một thế hệ, một Nietzsche tạo được một Hitler, một Locke ảnh hưởng trực tiếp đến Roosevell, Churchill… Lý lẽ văn chương quả là lực lượng vô hình tác động đáng kể.

Phê bình Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) có người cho rằng Phạm Quỳnh nên là nhà văn hóa hơn là chính trị gia. Thiết tưởng rằng ở đây, chúng tôi còn thấy quá sớm để kết luận về Nhất Linh chính-trị và văn-nghệ. Những kẻ đi sau chúng tôi định giá trị chính trị gia Nhất Linh vẫn hơn.

Nhất Linh văn chương cũng như Khái Hưng, nhà văn có công vào bậc nhất ở tiền chiến, trong việc canh tân tiểu thuyết Việt Nam. Những truyện của họ tô điểm cho văn chương đẹp hơn lên, tạo mốc lớn làm mốc cho tiểu thuyết được đánh dấu ở Tự Lực văn đoàn. Nói như thế, giá trị văn chương Nhất Linh đã được ghi một nét son lớn trong những hàng đầu.
_________________________________________________________

* Phụ Chú Riêng Của Việt Văn Mới Newvietart về Cuộc Đời Làm Chính Trị của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam :

. Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là đảng Đại Việt Dân Chính năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký. Hoạt động chống Pháp của nhóm Tự Lực trở thành công khai.

. Năm 1940, Hoàng Đại, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí bị Pháp bắt và bị đầy lên Sơn La, đến năm 1943 mới được thả. Trong thời gian này, Thạch Lam và Nguyễn Tường Bách tiếp tục quản trị tờ Ngày Nay. Cuối năm 1941, Ngày Nay bị đóng cửa. Năm 1942 Nhất Linh chạy sang Quảng Châu. Thạch Lam mất tại Hà Nội vì bệnh lao. Đại Việt Dân Chính Đảng thì đã gần như tan rã. Trong thời gian từ 1942 đến 1944, ông học Anh Văn và Hán văn.

. Tại Quảng Châu và Liễu Châu ông gặp Nguyễn Hải Thần và Hồ Chí Minh mới ở tù ra. Nguyễn Tường Tam cũng bị giam bốn tháng ở Liễu Châu, được Nguyễn Hải Thần bảo lãnh mới được Trương Phát Khuê thả ra. Nguyễn Tường Tam hoạt động trong Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội, rồi về Côn Minh hoạt động trong hàng ngũ Việt Nam Quốc dân đảng, tá túc với Vũ Hồng Khanh. Tháng 3 năm 1944, tại Liễu Châu, Nguyễn Tường Tam được bầu làm ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội, tức Việt Cách.

. Sự tranh chấp, bắt bớ và thủ tiêu giữa hai đảng Việt Minh của Hồ Chí Minh và Việt Quốc càng ngày càng gia tăng. Giữa năm 1945, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Giang cùng quân đội, nhưng rồi lại quay lại Côn Minh và đi Trùng Khánh. Giai đoạn này đã được phản ánh trong tiểu thuyết Giòng sông Thanh Thủy.

. Theo lệnh của Nhất Linh từ Trung Quốc gửi về, báo Ngày Nay, với Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách, lại tục bản, khổ nhỏ, ngày 5 tháng 3 năm 1945 và trở thành cơ quan ngôn luận của Việt Nam Quốc Dân Đảng.

. Tháng 5 năm 1945, tại Trùng Khánh, ông sáp nhập Đại Việt Dân chính đảng với Việt Nam Quốc dân đảng là Đại Việt Quốc dân đảng, tên gọi mới trong nước, còn tên gọi ở hải ngoại, nhất là tại Trung Quốc là Việt Nam Quốc dân đảng, tránh dùng danh xưng Đại Việt vì lý do tế nhị trong giao tế với bạn đồng minh Trung Hoa. Nguyễn Tường Tam làm Bí Thư Trưởng[1] của tổ chức mới này. Cuối năm 1945 tổ chức này ra công khai với danh xưng Mặt trận Quốc dân đảng, gọi chung là Việt Nam Quốc dân đảng, hay Việt Quốc.

. Đầu năm 1946, Nguyễn Tường Tam trở về Hà Nội, tổ chức hoạt động đối lập chính quyền Việt Minh, xuất bản báo Việt Nam. Tháng 3 năm 1946, ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến[2]. Ông cũng tham gia Quốc hội khóa I đặc cách không qua bầu cử.

. Nguyễn Tường Tam đã làm Trưởng đoàn Việt Nam dự Hội nghị trù bị tại Đà Lạt đàm phán với Pháp. Ông được cử đứng đầu Phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng không đi mà bỏ trốn sang Trung Quốc tháng 5 năm 1946 và ở lại Hồng Kông cho tới 1951. Việt Minh tố cáo ông đào nhiệm và biển thủ công quỹ đem đi.

. Năm 1947 Nguyễn Tường Tam cùng Trần Văn Tuyên, Phan Quang Ðán, Nguyễn Văn Hợi, Nguyễn Hải Thần, Lưu Ðức Trung thành lập Mặt Trận Quốc Gia Thống Nhất Việt Nam nhằm ủng hộ Bảo Đại, chống cả Việt Minh lẫn Pháp, nhưng đến năm 1950 thì Mặt Trận này tan rã.

. Năm 1951, về nước mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn, và tuyên bố không tham gia các hoạt động chính trị nữa. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt. Tuy nhiên trong Quốc dân đảng vẫn tồn tại phái Nguyễn Tường Tam, cạnh tranh với hai phái khác.

. Năm 1958 rời Đà Lạt về Sài Gòn, ông mở giai phẩm Văn Hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Năm 1960 ông về Sài Gòn thành lập Mặt trận Quốc dân Đoàn kết, ủng hộ cuộc đảo chính của Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông. Đảo chính thất bại, ông bị chính quyền Ngô Đình Diệm giam lỏng tại nhà riêng. Ông bị chính phủ Ngô Đình Diệm gọi ra xử ngày mùng 8 tháng 7 năm 1963. Đêm 7 tháng 7, tại nhà riêng, nghe tin sẽ bị đưa ra tòa xét xử, Nguyễn Tường Tam dùng thuốc độc quyên sinh để phản đối chính quyền độc tài của Ngô Đình Diệm, để lại câu nói nổi tiếng:

."Ðời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả. Sự bắt bớ và xử tội những phần tử quốc gia đối lập là một tội nặng, sẽ làm cho nước mất về tay Cộng sản. Tôi chống đối sự đó và tự hủy mình cũng như hòa thượng Thích Quảng Ðức tự thiêu để cảnh cáo những người chà đạp mọi thứ tự do"
Nguồn : http://vi.wikipedia.org/wiki/


CÒN TIẾP ...