Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
         


NGUYỄN THỊ LỘ

     TỰA

     Trong những định nghĩa về lịch sử, hình như có câu: "Lịch sử là những văn bản do sử gia viết rồi sau đó không ngừng được viết lại. " Xem ra định nghĩa này đúng với trường hợp Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ.
     Về Lễ nghi học sĩ triều Lê Thái tông, sử gia Ngô Sĩ Liên có
 Lời bàn: "Nữ sắc làm hại người ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái tông yêu nó mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư?"  Ðiều này, như người ta thường nói, là quan niệm bất công, khinh rẻ phụ nữ của một sử gia phong kiến. Nhưng vì lẽ gì, ngay cả trong chuyện Rắn báo oán tác giả dân gian cũng phũ phàng dồn hết mọi tội lỗi lên đầu người đàn bà?
     Về Nguyễn Trãi, vua Tự Ðức nhà Nguyễn có 
Lời phê: "Ðời Lê Thái tông, vua thì buông tuồng, bầy tôi thì chuyên quyền. Trãi nếu là người hiền thì nên sớm liệu rút lui, ẩn náu tung tích để cho danh tiếng được toàn vẹn. Thế mà lại đi đón trước ngự giá, thả lỏng cho vợ làm việc hoang dâm, vô liêm sỉ. Vậy thì tai vạ tru di cũng là tự Trãi chuốc lấy. Như thế sao được gọi là người hiền?" Với nhiều thế hệ trí thức Việt, lời bàn trên được coi như khuôn vàng thước ngọc. Nhưng rồi thời gian cho thấy khuôn vàng thước ngọc cũng biến dạng!
     Nguyễn Trãi có là người hiền chăng? Biết tất cả những bậc hiền của quá khứ, biết những Khuất Nguyên, Trương Lương, Ngũ Tử Tư, Văn Chủng, Phạm Lãi. Biết Chu Văn An và cũng biết Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo.nhưng Nguyễn Trãi tự biết mình hơn bởi ông là 
người hiền dấn thân . Án Trại Vải là bi kịch tất yếu mang tính toàn nhân loại khi chế độ chuyên quyền thống trị. Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ là viên đá lót đường cho dân tộc vươn tới tự do!
     Văn bản lịch sử không phải là văn bản chết mà là tấm gương từ đó con người phải soi vào để nhận ra chân dung của bản thân mình, của thời đại mình. Nhà văn, trong ý nghĩa nguyên sơ của từ này, chính là lương tri của dân tộc của thời đại, có nhiệm vụ giải mã tấm gương câm lặng của lịch sử để đưa ánh sáng dọi chiếu con đường đi tới cho dân tộc. Ðấy là sứ mạng thiêng liêng cao cả nhiều người mơ ước. Nhưng giải mã chân xác cuốn sách cổ là điều cực khó mà không phải ai cũng thành công.
     Tiểu thuyết Khối tình Nguyễn Thị Lộ là một trong những cách giải mã lịch sử. Ðánh giá nó thế nào là quyền của thời gian.

     Sài Gòn, Thu Giáp Thân

     Hà Văn Thùy


  CHƯƠNG BA


N hững ngày Côn Sơn mùa đông năm Kỷ Mùi là những ngày rất dài với quan Hành khiển Nguyễn Trãi. Việc quan nhàn, ông vui cùng cây cỏ nhưng những ngày đông này cây cỏ tàn lụi cả vì không chịu được rét giá. Với ông càng giá rét hơn vì nàng đã ở lại cung. Hơn hai chục năm qua đây là lần đầu ông sống xa nàng. Sự xa cách này làm cho cuộc sống của ông đảo lộn, một trạng thái thực khó khăn với một ông già. Ðọc sách mệt rồi, làm thơ chán rồi, tự nhiên ông muốn duyệt lại những ngày tháng qua.

Giấc mộng công danh của ông với nhà Hồ như lâu đài vừa được dựng lên bỗng tan thành cát bụi. Cha bị tù tội rồi chết vùi nơi đất Bắc, đời ông phải mười năm giam lỏng ở thành Ðông Quan, lòng nung nấu chí cứu nước. Lúc đó nhiều người dựng cờ khởi nghĩa, Trần Quý Khoáng rồi nhóm Lam Sơn, những nhóm người thiểu số miền Thượng. Quý Khoáng có danh nghĩa nên hợp lòng người nhưng trong thâm tâm, ông nghĩ, danh nghĩa ấy suy cho cùng chỉ là danh hão. Suốt một đời vua Nghệ tông làm được gì ngoài việc từng bước đưa nhà Trần đến diệt vong. Một ông vua nhu nhược hẹp hòi. Những người tài năng như thân phụ ông thì chỉ vì tội lấy con hoàng tộc mà bị bỏ không dùng, trong khi đó giết cả con mình để làm vừa lòng gian thần. Cái họa mất nước chính từ ông ta mà ra rồi sau lại mê muội đến mức ngây ngô bày ra việc tặng tranh tứ phụ rồi hội thề Ðồng Cổ! Số nhà Trần đã hết. Không theo Quý Khoáng nhưng ông cũng không vồ vập theo ngay Lê Lợi mà tỉnh táo nhìn xem bàn cờ thế sự.

Hồ Quý Ly là người thế nào? Nhiều lúc Nguyễn phân vân tự hỏi. Tuy mang ơn sâu với nhà Hồ nhưng trong thâm tâm ông không phục. Mưu lược ư? Canh cải ư? Có tất cả đó nhưng để được cái gì? Sự mưu lược, canh cải phải sao cho kết quả! Họ Hồ có khác nào kẻ tự châm lửa đốt nhà mình. Học Tào Tháo thói gian hùng nhưng so với Tào thì Hồ chỉ là đứa trẻ! Tào hơn Hồ không chỉ mưu lược mà còn hơn hẳn ở chữ nhẫn . Biết thời cuộc, Tào không cướp ngôi nhà Hán. Còn Hồ thì vì quá ham hố vội nhảy lên ngai vàng! Không xứng anh hùng, họ Hồ cũng chẳng phải người đảm lược, rời bỏ sức vạn người là lòng dân để dựa vào cái thành đá Tây Ðô. Trong tình huống đất nước ngàn cân treo sợi tóc lúc đó, cái phép thần giữ được nước là lòng dân. Chiếm nước của nhà Trần, họ Hồ làm tan rã ý chí chiến đấu của Ðại Việt. Ðắp Tây Ðô lại là sai lầm hủy hoại chút sức lực cuối cùng của đất nước, mở sẵn cửa cho giặc Minh vào giày xéo. Kết cục là nước mất, thân tù! Cái kết cục bi hài của nhà Hồ khiến Nguyễn nhìn rõ hơn về thời cuộc. Có người khen họ Hồ táo bạo muốn canh tân đất nước, cải cách hành chính, tiền tệ, đổi mới văn tự. Nhưng hơn cả những cải cách ấy là con người! Họ Hồ đã sai lầm khi hy sinh con người hy sinh đất nước cho ý tưởng phiêu lưu của mình! Nhà Trần đã lỗi thời nhưng sự quá khích của nhà Hồ còn nguy hiểm gấp bội! Phải tìm con đường khác. Trong những ngày bị giam lỏng ở Ðông Quan ấy, Bình Ngô sách từng trang một ra đời.

Vào một ngày cuối năm, ông cùng Nguyên Hãn và Thị Lộ trốn khỏi Thăng Long vào Lam Sơn. Nhận Bình Ngô sách, Bình Ðịnh vương vui hơn người bắt được của. Bởi lẽ, trước khi xuất hiện, phong trào Lam Sơn chỉ là cuộc dấy loạn của nhóm nông dân bất bình với quân đô hộ. Tuy có ít nhiều đọc sách nhưng binh pháp mà Lê Lợi học được chỉ là những chiến thuật hành quân, phục kích, vây thành chém tướng mà thiếu một chiến lược bao quát cho toàn cuộc. Lê Lợi thông minh, đáng mặt thủ lĩnh chính vì biết cái thiếu cái sở đoản của những người nông phu Lam Sơn mà vồ vập chiến lược bình Ngô của ông. Cùng với sách lớn ấy, ông cũng dùng một tiểu xảo để thu phục lòng người: cho người tâm phúc lấy mỡ viết lên lá cây tám chữ Lê Lợi vi quân Nguyễn Trãi vi thần. Kiến thấy mỡ kéo đến ăn, làm vết mỡ nổi lên thành chữ. Lá rụng xuống suối, nước suối đưa đi xa, nhiều người nhặt được truyền nhau đọc rồi một đồn mười, mười đồn trăm. Tin vào chân mệnh thiên tử của chúa Lam Sơn, người theo nghĩa quân đông như trẩy hội. Những ngày kháng chiến tuy gối đất nằm sương nhưng với ông là những ngày tuyệt vời hạnh phúc vì tài ông được dùng, vì chí ông được thỏa. Ông chỉ sau nhà vua trong những quyết định đại cuộc. Với một người quân tử thì đó là hạnh phúc không gì sánh nổi. Thêm vào đó, ông còn có Thị Lộ và bên cạnh là người em thân thiết Trần Nguyên Hãn.

***

Mùa xuân năm Thuận Thiên thứ nhất là mùa xuân thái bình. Sau Hội thề, ngày mười hai tháng Chạp bọn Mã Kỳ, Phương Chính tới Dinh Bồ Ðề tạ vua rồi hai cánh thủy bộ kéo về Bắc. Sáng ngày mười tám, sau một đêm uống ruợu trò chuyện thân tình với Bình Ðịnh vương, Tổng binh Vương Thông nhận trâu, dê, trướng hồng vua tặng rồi dẫn toán quân cuối cùng rời Thăng Long. Ðất nước sạch làu bóng giặc. Không kẻ nào còn dám dòm dỏ bờ cõi. Bốn biển yên lành. Cái nền thái bình bền vững hơn lại ở lòng người. Hai mươi lăm vạn quân giải ngũ trở về sum họp gia đình, nhiều thứ thuế được tha được giảm, đám cường hào thường đè nặng cuộc sống người dân bị pháp luật chế tài, trường học mở khắp nơi, chiếu cầu hiền đến tận thôn cùng xóm vắng mong tìm người tài giúp nước. Non sông Ðại Việt bước vào vận hội mới.

Từ Dinh Bồ Ðề, triều đình vào thành Thăng Long tổ chức cho dân ăn cái tết độc lập đầu tiên tuy còn nghèo còn khó nhưng thật vui vẻ tưng bừng. Tháng Hai mở Ðại hội tuyên dương công trạng các công thần. Rằm tháng Tư vua lên ngôi.

Mười năm, mười năm rồi, nhà vua nghĩ, mười năm gối đất nằm sương, mười năm xông pha mưa tên bão đạn. Không ngờ cuộc kháng chiến lâu dài đến thế. Một điều chưa từng có trong Nam sử. Ðức Triệu Vũ đế xưa sáng nghiệp là do thời, lúc nhà Tần tao loạn, nhân cơ hội cướp quân chiếm đất xưng đế xưng vương. Ðinh Tiên hoàng đế thống nhất các sứ quân bằng những trận đánh nhỏ rồi Lý rồi Trần nối nhau vương triều nọ qua vương triều kia chỉ là sự chuyển tiếp bằng cuộc đảo chính cung đình. Mình từ tay trắng dấy nghiệp trong lúc bĩ cực nhất của thời cuộc. Dân chúng bị đàn áp bị bóc lột đến tận cùng, cường giặc lập ra chế độ cai trị cực kỳ hà khắc, bọn tay sai mọc lên như nấm độc mong vinh thân phì gia. Từ buổi đen tối ấy cho đến đại định hôm nay là sự nghiệp to lớn tưởng như con người không làm nổi! Vốn là người chất phác không ưa mơ mộng nhưng trong đêm cuối xuân mát mẻ này, nhà vua cho phép mình phiêu diêu nghĩ về những tháng năm cũ, lòng thầm tự hào về công lao hiển hách với sử xanh. Trong phút giây lâng lâng hạnh phúc, nhà vua nao nao cảm thấy niềm vui của mình chưa tròn đầy, hình như còn có điều gì đó vương vướng. Cái gì nhỉ? Ngài tự hỏi rồi lúc sau nhận ra, đó là tờ biểu xin trí sĩ của quan Tả tướng quốc Lê Hãn. Bài biểu đọc mấy lần khiến nhà vua hầu như thuộc: "Nhờ hồng phúc của bệ hạ, thần lập được chút công lao. Ðược bệ hạ quá yêu, đặt thần giữ vị trọng. Ơn tri ngộ quá to thần nhận mà run. Nhưng nghĩ mình chỉ là kẻ võ biền đức mỏng tài hèn, có thể làm được vài việc trong thời chiến, biết đâu chẳng làm hỏng việc của bệ hạ lúc thái bình. Chí ít cũng là ngồi choán chỗ của những người tài trí, thần lấy làm hổ thẹn. Thần muốn được thả mình về đồng nội là nơi quen thuộc để có thể thờ bệ hạ bằng những công việc khác mà thành quả chẳng kém gì những trận Phú Xuân, Xương Giang xưa."

Trong thâm tâm nhà vua mừng khi nhận tờ biểu nhưng sau nỗi mừng ấy lại là sự hụt hẫng: "Ngươi dám coi thường ân huệ của ta sao?" Khi cảm thấy quyền uy của mình không còn tuyệt đối nữa là nỗi buồn xâm chiếm tâm trạng nhà vua. "Trống đánh xuôi, kèn thổi ngược! Nhà vua bật nói thành lời. Ta xuống chiếu cầu hiền mà kẻ đứng đầu bách quan của ta, vị tướng lĩnh giỏi nhất của ta lại bỏ ta ra đi! Thiên hạ sẽ nghĩ thế nào? Ngươi toan tính chuyện gì đây?" Ðứng dậy bước từng bước ngắn trên nền điện lát gạch hoa, ngài đưa tay vỗ vỗ vào vầng trán rộng vững chãi: "Nhớ ra rồi, nhớ ra rồi, việc này có gì giống với viên phán quan họ Trần nào đó, vừa thắng giặc xong thì xin nghỉ, khi ta định xét ban công trạng y liền gọt đầu đi tu rồi trốn biệt? Gã là tay vô danh tiểu tốt đã đành, còn đây là một đại công thần! Dù có thế thì vuốt mặt cũng cần nể mũi, hắn ra đi đúng vào những ngày này! Phải chăng hắn xem thường ta quá?" Nghĩ tới đây người bất giác nắm chặt tay giận dữ.

***

Trăng thượng huyền soi chênh chếch, tỏa ra thứ ánh sáng xanh mát dịu. Gió hiu hiu thổi. Trên bàn đá tròn đặt giữa đình thưởng nguyệt, ngọn hồng lạp cháy lung linh, chiếc mâm thau sáng bóng có mấy món nhắm nhẹ, nậm ruợu và hai chiếc chén ngọc. Bọn quân hầu ra ngoài cả, chỉ còn lại nhà vua và Tả tướng quốc Lê Hãn ngồi đối diện trên những chiếc đôn hình con voi. Nhà vua thân rót rượu vào chung mời tướng quốc :

- Khanh uống đi. Ðêm nay ta muốn cùng khanh uống thật say!

Lê Hãn đưa chung rượu lên ngang mặt: kính mời bệ hạ! Uống xong ly rượu, đặt chung ngọc xuống bàn, nhà vua nói:

- Khanh nghĩ sao về việc tuyên dương công thần vừa qua?

- Dạ, thưa, bệ hạ đã công bằng. Nhìn nhà vua, Hãn từ tốn nói.

- Theo ý khanh như vậy là công bằng sao?

- Thưa, công bằng. Công thần làm nên cuộc đại định hôm nay chủ yếu là người xứ Thanh, những người theo bệ hạ từ đầu. Họ được công cao là phải lẽ nhưng những kẻ đến sau, mà công lao cũng không có gì đặc biệt như chúng thần mà vẫn được dự vào hàng công huân, chứng tỏ bệ hạ có tấm lòng trời biển ưu ái, không phân biệt. Chúng thần lấy làm cảm kích.

- Khanh nghĩ sao về trường hợp Lê Trãi? Nhà vua nhìn Hãn thăm dò. Có người cho rằng trẫm đối với Trãi còn hẹp, chưa xứng với công lao với tài trí của ông ta!

Sau lúc trầm ngâm suy nghĩ, Hãn thưa:

- Quả cũng có ý như vậy. Trãi tuy không chiếm thành bắt tướng nhưng cái mưu Trãi giúp cho thánh thượng thì khó ai bằng. Nhìn về sau nữa, nếu được ở địa vị cao, đứng đầu bách quan, lại được tin dùng thì tài của Trãi ích lợi cho nước nhà nhiều lắm!

Nhà vua nheo nheo mắt nhìn thẳng vào mặt Nguyên Hãn như xoi mói trong khi cân nhắc từng lời của vị công thần. Sau lúc lặng đi suy nghĩ, ngài nói bằng giọng chân thành:

- Khanh nói không sai. Người ta cũng nói với quả nhân như vậy! Các khanh không biết rằng ta quý ta trọng Trãi tới mức nào! Khanh biết đấy, bản nhiên ta đâu muốn làm vua, ta chỉ mong cuộc sống yên ổn. Vì vậy, ta vét bao của cải đút lót cho Trương Phụ mong được yên thân. Nhưng chúng như hổ đói, bao nhiêu cũng không đầy túi tham, truy bức ta, ép ta đến cùng. Trước cái sống và cái chết, ta buộc phải vượt qua cái chết để tìm cái sống. Ban đầu, ta chỉ biết đánh, bằng mọi cách để thắng từng trận. Nhưng thế giặc mạnh khiến nhiều phen sự nghiệp cũng như tính mệnh ta như ngàn cân treo sợi tóc. Từ khi Trãi đem Bình Ngô sách đến với ta, ta như người trong rừng rậm bước ra đường quang, như trời vén mây mù cho ta nhìn toàn cảnh trước mặt. Từ đó những mưu Trãi hiến đều được ta dùng. Cái mưu cho Vương Thông cầu hòa một phần cũng nhờ Trãi mà có. Giữa trăm tướng ham công sát khí đằng đằng, giữa đám dân chúng sôi sục hận thù muốn ăn gan uống máu giặc mà đưa ra kế sách hòa hiếu nào có dễ gì? Chính lời của Trãi làm nghiêng cán cân quyết định của trẫm. Và càng ngày trẫm càng thấy kế hay. Việc cho dựng tháp cao ở Bồ Ðề rồi cho Trãi ngồi quan sát giặc trong thành là cần thiết cho công việc nhưng cũng một phần cho quần thần thấy vai trò của Trãi. Ðó cũng là cách để trẫm dùng Trãi sau này. Nhưng khanh biết không, khi cân nhắc lại hơn thiệt mọi điều, trẫm thấy không thể dùng Lê Trãi hơn được. Khanh hiểu sao không?

- Thần xin thánh thượng chỉ giáo!

- Khanh nghĩ coi, bây giờ nếu đặt Trãi vào vị trí thái tể, tất nhiều người không phục vì họ là người đến với trẫm từ đầu, lại là số đông, có công chiếm thành chém tướng. Việc này đã khó rồi về lâu về dài càng khó hơn vì ở vị trí đó, Trãi sẽ thực thi những chính sách không được lòng các công thần, lúc đó triều đình khảng tảng, tạo nên mối họa chia rẽ! Chính vì cân nhắc đến mọi lẽ, trẫm đành phải để Trãi ở vị trí hiện thời. Mong sao sau này tình hình thuận hơn, có thể dùng được Trãi!

- Thần hiểu, thưa bệ hạ!

- Khanh hiểu trẫm như thế thì tốt. Bây giờ nói chuyện về khanh đi! Trẫm đã đọc biểu xin trí sĩ của khanh. Khanh viết khéo đến làm trẫm cảm động. Những lý do khanh đưa ra đều khó bề bài bác. Dường như do dự lắng lại một chút, vua nói tiếp, trẫm hỏi thực khanh, liệu còn lý do nào khác nữa chăng?

- Dạ thưa, đấy là tất cả lòng thành của hạ thần, ngoài ra không còn lý do nào khác nữa!

- Vậy là khanh chưa thực lòng với trẫm rồi! Lê Lợi nhìn người võ tướng cao lớn, khuôn mặt phương phi, lông mày xếch, mắt sáng rờ rỡ khiến ông cũng cảm thấy nể trọng. Thôi để trẫm nhắc khanh vậy! Chẳng phải vì "Nhà vua có tướng như Việt vương, không thể cùng sung sướng được" sao? Nguyên Hãn cúi đầu và ông như còn nhìn thấy ánh nhỡn quang từ mắt nhà vua xoáy vào gan ruột mình. Lặng im hồi lâu rồi ông trầm tĩnh nói:

- Tâu bệ hạ, nhân tướng là những nét thiên phú khắc họa lên diện mạo lên hình hài con người, không giấu được. Với các bậc quyền quý, người ta càng xem tướng kỹ hơn. Xem cho biết để rồi thờ rồi nhờ cậy, để yêu ghét, gần gũi hay xa lánh. Nhân tướng của bệ hạ nhiều người thấy nhưng không ai dám nói, đúng hơn, họ chỉ nói những nết tốt để lấy lòng bệ hạ. Thần là kẻ võ biền thô lậu, trong lúc vui chén rượu có buột miệng nói với người xung quanh vô tình xúc phạm thiên nhan. Bệ hạ không bắt tội là phúc lớn của thần nhưng chính là ở đức nhân của bệ hạ. Nét tướng ấy của bệ hạ là có thật nhưng sở dĩ thần vẫn theo phò bệ hạ là do bệ hạ có nhiều đức tốt khác: mắt sáng, mồm rộng, sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên, bước đi như rồng như hổ, tiếng nói tựa chuông ngân. Ðấy là tướng của bậc đế vương. Nhưng thưa bệ hạ, tướng cũng không phải là cố định bởi như sách tướng viết: tướng tùy tâm sinh, tướng tùy tâm diệt, từ đó đến nay nhân tướng của bệ hạ cũng biến đổi nhiều, nhất là việc bệ hạ mở lòng khoan dung tha chết cho hơn hai chục vạn quân Ngô, lại cấp ngựa cấp thuyền cho chúng về nước, cái lòng nhân đã động đến trời đất. Ðối với kẻ thù còn thế, lẽ nào với công thần? Vì vậy, những gì thần tâu cùng bệ hạ đều là tự lòng thần!

Nhà vua chăm chú nghe, hai người quên cả rượu và đồ nhắm trước mặt. Giọng vua tỏ vẻ ân cần:

- Trẫm hiểu, khanh đã thực lòng. Nhưng khanh ra đi lúc này có vội quá không?

- Tâu bệ hạ, thần nghĩ là không vội mà đúng lúc. Thần ra đi lúc này chính là thuận hơn cho bệ hạ để người bố trí ngôi tể tướng. Thần hiểu, có thể trong thâm tâm người trách thần sao lại ra đi lúc này, thiên hạ nghĩ thế nào về việc cầu hiền của triều đình? Quả là thần không dám nêu tấm gương không tham quyền cố vị nhưng việc ra đi của thần cũng giúp cho bệ hạ mạnh tay thanh lọc những kẻ bất tài bám vào triều chính. Muốn việc nước tốt đẹp, cầu hiền không tách rời việc thanh lọc bớt những kẻ bất tài vô hạnh.

- Khanh nói cũng phải, nhưng như thế thiệt thòi cho khanh quá!

- Thần không nghĩ đến chuyện thiệt thòi. Bệ hạ cho thần được về là phúc lớn với thần rồi.

- Ðược, trẫm đành cho khanh trí sĩ nhưng mỗi năm khanh phải hai lần về triều gặp trẫm để trẫm thỏa nhớ mong!

- Thần xin ghi nhận, xin tạ ơn bệ hạ.

***

Hãn về rồi, vua vẫn chưa thôi suy nghĩ. Lòng ông không thanh thỏa. Trong số công thần của ông, phần lớn thủ túc là họ hàng, là người cùng xứ, một đội quân anh em cha con sống chết bên nhau từ ngày mở nghiệp. Nếu họ là đàn gà thì ông là con gà trống đầu đàn. Nhưng trong đàn gà ấy lại lạc vào vài ba con khác giống: Trãi, Hãn và Xảo. Họ khác nào những con công. Hãn con dòng cháu giống nhà Trần, tướng phương phi lừng lững can trường mưu lược hơn người. Lòng dân còn nhớ nhà Trần liệu có trông vào Hãn? Trãi là túc nho bậc nhất thiên hạ, sáng láng không khác gì một vì sao. Xảo người Kinh lộ, là võ tướng có tài kinh bang tế thế. Trong đám người tâm phúc của nhà vua không ai được như họ! Ngày gối đất nằm sương họ là người đắc dụng nhưng lúc này, giành được nước rồi, chính cái bộ ba tướng sĩ tượng ấy lại thành mối lo. Như mọi đế vương trên đời, nhà vua lo cho ngôi báu. Vương rối ruột về con cái của mình. Thái tử Tư Tề có những khiếm khuyết trong nhân cách và thể chất khó đảm đương ngôi vị. Nguyên Long còn quá nhỏ, mới có sáu tuổi. Các con ông và những kẻ thủ túc trước họ khác nào bầy dê trước mãnh hổ? Nếu ông có mệnh hệ nào, ai là người có thể giữ gìn rường cột nhà Lê? Tự bao giờ không biết, có lẽ từ khi chiến thắng cầm chắc trong tay, vua nhìn những công thần đệ nhất này bằng cái nhìn e ngại đề phòng. Hãn ra đi là điều mừng, cái gai đã khuất mắt! Chí ít khỏi phải băn khoăn khi đưa Lê Sát làm tể tướng.

***

Tây Hồ mênh mông bàng bạc dưới trăng non, không biết đâu là bờ. Thuyền trôi phiêu du. Xa xa những con thuyền sáng đèn như thoi dệt trên mặt hồ. Loáng thoáng ánh đèn mờ mờ phía bờ khiến cho ta cảm thấy Tây Hồ càng thêm mênh mông. Trong sương, tiếng gõ mạn của thuyền chài trầm đục vọng lên. Gió hiu hiu thổi, tiếng sóng ộp oạp vỗ vào mạn thuyền. Trong thuyền tỏa ra ánh sáng ấm áp và tiếng đàn khi réo rắt như suối chảy khi tung tăng như đàn ngựa trên đồng cỏ, khi lững lờ như mây bay, khi rì rào như gió thoảng qua rừng thông rừng trúc. Tiếng đàn khiến lòng người nao nao nghĩ về một vùng quê thân thương, nghĩ về tuổi thơ êm đềm. Ngồi trên chiếc chiếu giữa thuyền, thoang thoảng hương sen thanh khiết đầu mùa, lắng nghe tiếng đàn, Trần Nguyên Hãn nói: "Bác hiểu lòng em!"

- Lòng chú sao mà anh không hiểu? Buông cây nguyệt cầm xuống chiếu, Nguyễn Trãi nói. Lòng chú cũng là lòng anh! Nhưng giờ thì chú mãn nguyện, còn anh. Nguyễn Trãi nói đến đây thì dừng lại, hỏi: vậy hoàng thượng nói với chú thế nào?

- Hoàng thượng bảo, những lý do em đưa ra để xin trí sĩ đều không thể bác bỏ nhưng có phải nguyên nhân chính là "Vua giống Việt vương Câu Tiễn, không thể chung sung sướng được?"

- Vậy chú trả lời ra sao?

- Bác biết không, không thể dối vua nên em nói: Nhân tướng là dấu ấn mà hóa công in trên diện mạo hình hài của mỗi người. Cũng như Việt vương, như Hán Cao tổ, bên cạnh những nét như thế, nhà vua có nhiều nét đẹp của đế vương, chính vì vậy thần cùng nhiều người đã theo phò bệ hạ. Nhưng tướng cũng tùy tâm mà sinh mà diệt, bệ hạ làm việc chí thiện là tha mạng sống cho hàng chục vạn quân phương Bắc, nên nét tướng cũng có thể đổi thay.

- Nhà vua tin vậy sao?

- Tin hay không em không rõ nhưng nhà vua thuận ý cho về!

Im lặng, mọi âm thanh dường như lắng lại. Sau lúc trầm ngâm suy nghĩ, Nguyễn Trãi nói chậm rãi:

- Mừng chú đạt ý nguyện nhưng trong thâm tâm, anh vẫn không yên. Dưới mắt của hoàng đế, người không thể chung hưởng sung suớng là chúng ta mà trước tiên là chú. Chú dòng dõi Chiêu Minh vương hiển hách, lại tài vượt lên trên tất cả khiến càng dễ bị nghi ngờ. Anh cũng vậy. Và cả Thái úy Xảo nữa. Vì vậy, được về là mừng nhưng chưa phải hết lo!

Ngồi bên trái chồng, hơi lui về sau một chút, Nguyễn Thị Lộ lắng im nghe rồi cầm chiếc nậm sứ men xanh đời Lý rót rượu vào chung cho hai người. Nâng nguyệt cầm lên, nàng hát. Tiếng hát quyện tiếng đàn lan trên mặt sóng. Hai người đàn ông im lặng như nhìn trong tiếng đàn những mông lung gập ghềnh của con đường nhân thế.

- Hoàng thượng có hỏi em về việc ban thưởng công thần. Em nói là nhà vua đã phong thưởng công bằng. Nhưng ngài nói, chưa thật công bằng ít nhất với một người là Lê Trãi. Ðáng lý ra với tài đức của anh phải ở vào hàng đệ nhất công thần và đứng đầu trăm quan nhưng nếu làm vậy trước mắt sẽ gây xao động trong hàng võ quan là những người thủ túc theo vua từ đầu. Sau nữa, nếu đứng đầu trăm quan, chính sách của anh sẽ lợi cho dân cho nước nhưng lại thắt bóp quan lại, khiến họ không phục. Ðành phải giữ anh lại dùng sau!

- Dùng sau hay dùng trước ta không quan tâm, giọng Nguyễn Trãi thâm trầm, nhưng nhìn toàn cục thì nhà vua ứng xử rất phải. Thủ túc của vua là nông dân ít học, những kẻ võ biền, tầm nhìn rất thực tế và hẹp hòi. Họ là những người đầu tiên theo vua dấy nghĩa. Họ cũng là người chịu nhiều vất vả hiểm nguy, lập võ công bằng ngọn dáo, trên lưng ngựa. Ðược nước rồi, nhà vua lấy cái gì mà thưởng công cho họ? Kho tàng trống rỗng, đất công chẳng có bao nhiêu để mà phong hầu kiến ấp! Cái duy nhất ngài có là chức tước. Không nhìn người em họ, Trãi ngó ra màn đêm mênh mang thăm thẳm rồi nói chậm rãi. Nhưng chức tước không phải vô tận! Chức tước bây giờ như một thứ quả thực hiếm hoi phải cân nhắc khi ban phát. Ðể thưởng công là một phần nhưng cái chính là vỗ béo thủ túc để củng cố ngôi vị. Nhà vua không muốn còn bọn tay chân của ngài càng không chấp nhận một kẻ từ đâu tới, mang theo một quyển sách cùng những lời nói đầu lưỡi bỗng lại hưởng chức cao vọng trọng ngồi trên họ. Khi chiến tranh, trong màn trướng hoặc chỉ ngồi dưới vua trên đài cao ở Dinh Bồ Ðề là chuyện sống chết bất khả kháng, vua không làm khác được và họ cũng không thay được. Lúc này chuyện không như vậy nữa! Vả chú cũng biết, một người làm quan cả họ được nhờ, họ không muốn bị ràng buộc tiết chế quá! Vua ta là người hiền nhưng vua cũng phải chiều đời, làm một chước hòa hoãn. Trầm ngâm suy nghĩ một lúc sau, Trãi chậm rãi nói:

- Tiếc là ta chưa thể về được mà vẫn phải tại triều. Sẽ là đầu mối của sự ghanh ghét đố kỵ, sẽ khó khăn hơn thậm chí nguy hiểm hơn. Ai đo được lòng bể hoạn? Nhìn sâu vào mắt người em họ, ông tiếp, nhưng nói cho cùng, về như chú cũng chưa phải an toàn, có những mối họa theo ta sát gót suốt cuộc đời. Mong chú càng phải cẩn trọng!

***

Hôm Trần Nguyên Hãn rời kinh thành về quê, ông đưa số đồ đạc ít ỏi cùng gia nhân xuống thuyền trên sông Cái. Không đi xe không đi kiệu, ông mặc bộ quần áo đi đường nhẹ rồi đi bộ lẫn với bao người dân kinh thành. Tiễn đưa ông chỉ có Nguyễn Trãi. Bước trên những con đường quen thuộc của phường Yên Hoa, Hãn nhớ tới dinh của quan Tư đồ xưa nơi ông cùng anh Trãi sống những ngày tuổi thơ đầm ấm. Chiều chiều Trãi dắt ông ra ngõ, hai anh em tha thẩn chơi để đợi ông nội về, với những quả hồng quả vải lộc vua ban. Sau Hội thề, ông dẫn lính khinh kị vào đóng những nơi hiểm yếu trong kinh thành, cho dán trên các cửa ô bản Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi được viết chữ to. Ði bên người em thân thiết tình ruột thịt, Nguyễn Trãi thấy lòng mình trĩu nặng. Nhưng khi tới bến sông, nhìn dòng sông hiền hòa chảy mang mang, bên sông ngát xanh màu xanh trù phú của ngô khoai cùng những người nông phu gánh gồng cuốc xới, trong thoáng chốc ông thấy lòng vơi nhẹ.

Thuyền giương buồm tách bến. Ðứng trên mũi thuyền Hãn vẫy chào ông cho tới khi chiếc thuyền mờ trong khói sóng. Ông có cảm tưởng như Hãn phiêu du vào cõi bồng lai. Còn lại một mình trên bến, ông cảm thấy cô đơn đến thắt lòng.

Rồi Hãn bị giết oan uổng, ông cũng bị tống lao vì nghi liên can. Hơn ai hết, ông biết đó là oan. Ngày trong ngục và mãi sau này, ông thầm trách Nguyên Hãn khinh suất, sao đã hưu trí rồi lại còn xây nhiều dinh thự, đóng những con thuyền lớn tạo cớ cho họa diệt thân. Nhưng rồi thì ông hiểu, thuyền cùng nhà cửa chỉ là cái cớ, còn cái chính là trong mắt nhà vua không dung tha những người như Hãn, như ông Xảo. Không cớ này sẽ có cớ khác! Người đời thường trách đám nịnh thần Ðinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoàng Bá, Nguyễn Trọng Chí, Lê Ðức Dư vu cáo Nguyên Hãn nhưng bọn chúng cũng chỉ trong tay Thái tổ mà ra, chính chúng là công cụ giết người của vua. Không có bọn này tất có bọn khác làm cái việc ấy. Chỉ tiếc cho Nguyên Hãn. Tiếc cho Hãn, Nguyễn Trãi cũng tiếc cho công trình của ông ngoại Nguyên Ðán. Thấy nhà Trần rốt cuộc cũng vào miệng Quý Ly - hầu mũi đỏ, ông ngoại đã nén nhục nén hận kết thân với Quý Lý, giao con cháu cho họ Hồ. Người đời từng trách ông ngoại là thiếu nghĩa khí, làm vậy khác nào đầu hàng, nối dáo cho giặc. Nhưng rồi nhân thế cũng có người hiểu quan Tư đồ: không chống được họ Hồ thì đành quy phục để tránh họa diệt vong của dòng họ. Nhờ vậy mới để lại cho đời một vị tướng kiệt hiệt là Nguyên Hãn. Nhưng rồi như ngôi sao, Hãn vụt tắt. Nguyễn Trãi bỗng rùng mình khi nghĩ đến cái thủ đoạn mà người ta dùng để giết Hãn. Chính cái mưu đục thuyền mà nhà Trần mấy trăm năm trước đã dùng với hàng tướng Ô Mã Nhi lại được đem ra hủy diệt hậu duệ họ Trần: Bắt Nguyên Hãn từ Tam Giang, thuyền chở về đến bến Ðông Sơn thì đang đêm bị đục cho đắm! Giết Nguyên Hãn, người ta nhẫn tâm giết luôn bốn chục lực sĩ xá nhân được sai đi bắt Hãn để diệt khẩu phi tang. Lịch sử sau này sẽ ghi là cuộc đắm thuyền! Một cuộc đắm thuyền êm thấm! Nghĩ đến đây, ông bỗng rùng mình, phải chăng đó là báo ứng?! Phạm Văn Xảo thì đến cái cớ vặt cũng không có mà bị giết tức tưởi. Thoát khỏi tù ngục, Nguyễn Trãi đã tìm cách lánh đời nhưng vẫn không xong. Triều quan chẳng phải ẩn chẳng phải là thân phận của ông dưới thời Thái tổ. Vậy đấy mà ông vẫn phải kéo dài cuộc sống của mình.

***

Nhận chiếu vua ban một cô cung nữ, Nguyễn Trãi vô cùng bối rối. Nhưng khi đọc thư, ông hiểu: chính vì phu nhân thương ông vò võ một mình, lòng thương ấy đã cảm động đến hoàng thượng nên ngài ban cho ông đặc ân. Chuyện xưa nay hiếm nhưng ông biết, với nhà vua trẻ, có việc gì không thể làm? Ông nhớ tờ chiếu: "Việc vợ chồng đầu gối tay kề, xa cách nào chẳng buồn chẳng nhớ, nghĩ tình cảnh khanh, trẫm thật lòng ái ngại. Ngặt vì Lễ nghi học sĩ nặng lo việc chốn nội cung, còn khanh cũng vì trẫm giữ gìn biên ải. Thương khanh buồng đơn gối chiếc không người sửa túi nâng khăn, trẫm đặc cách ban cho khanh cung nữ Cẩm Vân làm bầu bạn." Như vậy là phu nhân vào cung đã được vua quý trọng. Yên tâm về nàng nhưng ông lại khó xử vì cô hầu non họ Phạm. Bất giác ông nở nụ cười buồn. Ông biết, tuy chấp nhận món quà của hoàng thượng nhưng đàn bà ai không ghen tuông? Rồi ông lại nghĩ, liệu có phải vì nàng hết yêu ông nên dễ dàng để người khác đến thay chỗ của mình? Và rồi trong lúc nào đó một ý nghĩ chợt đến: liệu nhà vua có tư tình gì với nàng mà bày trò đổi chác? Có lẽ nào lại như vậy được? Ông nghĩ. Nhà vua chỉ đáng tuổi con nàng. Ông hiểu nàng không phải người quá ham hố về nhục dục càng không phải người dễ thay dạ đổi lòng. Hai mươi năm cay đắng ngọt bùi cho ông tin vậy.


  CHƯƠNG BỐN


B an ngày, hết qua nơi dạy chữ lại đến nơi dạy múa dạy hát. Nguyễn Thị Lộ cuốn vào công việc và nàng tìm thấy niềm vui. Vốn có lòng yêu con người cùng với con mắt thẩm mỹ tinh tế, nàng tìm ra nơi cô cung nữ này có giọng hát hay, ở cô khác có bàn tay mềm mại cùng óc thẩm âm thuận với việc tập đàn, còn cô kia là óc thông minh học nhanh nhớ kỹ. Khéo tổ chức, khéo động viên, Thị Lộ đã khơi dậy những phẩm chất tiềm ẩn trong từng người. Nhờ vậy, họ học hỏi tấn tới. Ai cũng vui, cũng nao nức học. Cuộc sống trong cung thay đổi, như có làn gió xuân thổi vào lòng mọi người. Trong những công việc đang làm, nàng chú ý xây dựng một đội nhạc mà nàng hình dung ra trong những cuộc trò chuyện bàn bạc với chồng ngày trước. Nàng nhớ những lời Ức Trai nhận xét về nhạc của Lương Ðăng: "Nhạc này mô phỏng nhạc khí của nhà Minh mà làm ra. Nhạc tấu ở trên nhà, có trống cái, bộ khánh, bộ chuông, đàn cầm, đàn sắt, sinh, tiêu, quản, thược, chúc, ngũ, huân, trì. Nhạc tấu ở dưới thềm, có: phương hưởng, không hầu, đàn tỳ bà và quản dịch dùng. Bộ khánh gồm mười sáu chiếc cùng treo một giá, bề dài bề ngang giống nhau nhưng độ dày mỏng khác nhau để hợp với mười hai chính luật và bốn bội luật. Chuông: có mười sáu chuông cùng treo một giá, chia làm hai đợt, ăn khớp với mười hai chính luật và bốn bội luật. Chuông đều hình chầy, dưới phẳng miệng, cao độ bảy tấc năm phân, xếp theo độ dày. Rập khuôn nhạc cụ của người đem vào nước là chuyện dễ, còn tấu lên những thanh âm gì không đơn giản. Phi người am hiểu đến tinh tế về thanh luật lại có đội ngũ nhạc công điêu luyện thì sao làm nổi. Nhạc là âm thanh vô hình nhưng nó là hồn người hồn nước. Hồn người Nam không giống hồn người Bắc nên sai cung lạc nhịp khi tấu nhạc không chỉ khiến con người bất an mà còn làm cho tâm linh xao động." Hiểu lòng chồng nên nhân việc tìm người vào dạy nhạc cho cung nữ nàng đã dần dần mời được những danh cầm danh ca ngày trước phiêu tán khắp nơi về cung và cùng họ lập ra dàn nhạc. Ban ngày thì vậy nhưng đêm xuống nàng lại buồn vì cảnh mình chăn đơn gối lẻ vò võ canh trường. Những lúc như vậy nàng lại nhớ đến chồng. Nỗi nhớ không yên trong lòng nàng đòi được giải thoát bằng tiếng đàn. Trong một đêm nàng quên thời gian, quên tất cả để gửi lòng trong tiếng tơ miên man khi vút cao khi sâu thẳm thì linh cảm khiến nàng giật mình nhìn lên. Từ bao giờ, nhà vua đã đứng sau nàng. Nàng buông đàn cúi đầu thi lễ. Nhà vua cúi xuống nâng nàng dậy. Thấy mắt nàng ướt nước, người nhẹ nhàng hôn mắt ướt rồi không nói không rằng ôm chặt nàng trong đôi tay trai tráng. Bất giác rùng mình, nàng chống đỡ yếu ớt, miệng rên rỉ: "Nguyên Long, Nguyên Long đừng. đừng." Trong khi đó nhà vua đã nâng bổng nàng, đặt lên giường. Tỉnh lại Thị Lộ thấy mắt mình đẫm nước. Lòng nàng quặn đau buốt nhói, một nỗi đau thắt ruột làm tâm hồn nàng tê dại, người nàng mềm nhũn suy kiệt. Nàng chợt nấc lên tiếng khóc tức tưởi. Ức Trai, Ức Trai! Thiếp có lỗi với chàng, thiếp đã phụ chàng! Nàng thấy mình quá xấu xa nhơ nhuốc. Ôi, giá mà chết được, nàng nghĩ! Nằm nghiêng bên nàng, người hơi co lại, Nguyên Long ngủ ngon lành vô tư tin cẩn như đứa trẻ bú no nằm bên mẹ. Trong ánh đèn mờ mờ, vầng trán chàng hiện lên thanh tú, cái miệng trẻ thơ nhếch ra bên khóe như cười trong giấc mơ gợi lên nơi nàng tình thương dìu dịu giống tình thương của người mẹ. Không cầm được lòng, nàng đăﴠlên trán chàng nụ hôn nhẹ như thoảng qua. Cái gì đã xảy ra? Nàng tự hỏi. Tội lỗi, tội lỗi, nàng thầm nhủ. Nhưng sao lạ quá, một cái gì đó mới mẻ chưa bao giờ nàng thấy. Nó dữ dội nó bạo liệt như xoáy lốc cuốn nàng bay vút lên tới tận trời xanh, toàn thân nàng đê mê như tan ra, nàng như muốn ngộp thở, nàng kiệt sức ngất đi . Tình yêu là như vậy sao? Nàng tự hỏi. Thật khác xa những gì nàng đã có với Nguyễn Trãi. Khi gần nhau người âu yếm nhưng khi nàng chỉ vừa cất cánh bay khỏi mặt đất thì mọi việc ở chàng đã kết thúc và nàng như con chim gẫy cánh rơi thê thảm xuống mặt đất trần trụi. Ngay sau đó chàng chìm vào giấc ngủ mặc cho nàng thao thức. Một lần như thế, nhiều lần như thế, nàng cũng quen đi và để tự bảo toàn, nàng đã phải thích ứng. Chiều chồng, nàng tự kích thích tạo ra sự hứng khởi hưởng ứng chàng để chàng yên tâm để chàng vui. Và rồi nàng cũng vui theo cái vui của chồng. Lần đầu tiên nàng phát hiện một cảm giác khác, lần đầu tiên nàng hưởng khoái cảm chưa từng biết trên đời. Nghĩ tới đây nàng bỗng giật mình, phải chăng mình hư hỏng, mình là con đàn bà đĩ thõa? Nàng trằn trọc, nước mắt lại ứa ra.

- Nàng khóc sao? Từ lúc nào không biết, chàng trở dậy nằm chống tay lên đầu ngắm nàng rồi hỏi bằng giọng xót thương. Nàng giận ta sao? Ta thật có lỗi với nàng! Nhưng nàng hiểu không, ta yêu nàng biết bao nhiêu! Vừa nói, chàng vừa nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng đồng thời đặt lên mắt lên môi nàng những chiếc hôn nồng nàn. Rồi chàng vồ vập đòi yêu nữa. Nàng buông người vô cảm. Dù sao việc cũng đã rồi, hối cũng đã muộn, nàng nghĩ, và mặc cho chàng vày vò. Nhưng rồi sau đó những kìm nén mà nàng cố tình gìn giữ bị phá tung, không cưỡng nổi bản thân, nàng hưởng ứng cuồng nhiệt. Cơn khát thèm tích tụ bao ngày đã được thỏa mãn ở lần trước, lần này chàng trai trẻ từ tốn điệu đàng dẫn nàng vào cuộc vui, đưa nàng lên cực điểm khoái lạc.

***

Như những đêm khó ngủ khác, nàng ru giấc ngủ bằng cách nằm nghiêng người về bên trái, tay trái buông lỏng đặt nhẹ lên vai phải, tay phải đặt nhẹ nhàng xuống chiếu, chân trái hơi thẳng, còn chân phải hơi co lại ở trên chân trái. Ðấy là tư thế nằm không mấy thoải mái, nếu nằm lâu sẽ mỏi. Nhưng không hiểu sao trong tư thế ấy nàng lại thấy dễ ngủ. Nàng biết rằng sau đó, bằng cách nào không hay, trong giấc ngủ, cơ thể nàng tự chuyển sang tư thế thoải mái hơn và cứ thế, nàng yên giấc tới sáng. Có lần nhìn nàng ngủ, mẹ thở dài: số con này rồi vất vả. Nàng chỉ biết cười. Nhiều lúc nàng tự hỏi số mình có vất vả không nhỉ? Mười sáu tuổi, từ giã khung dệt chiếu xứ Thanh, nàng theo vua vào cung. Một con bé nhà quê ngơ ngác lẫn vào giữa muôn hồng ngàn tía nơi cung cấm, nàng lo đến thắt ruột. Cũng những ngày đó, những việc tày đình nổ ra trong cung: hai bà Nguyên phi, Chiêu nghi lần lượt bị phế. Nàng may mắn bước lên địa vị đứng đầu hậu cung. Khi sinh hoàng tử Nghi Dân thì nàng được phong làm quý phi. Khi con nàng được phong thái tử thì nàng làm chủ Ðông cung. Ðời nàng như con diều bay trên bầu trời danh vọng. Nàng cứ nghĩ mọi sự an bài: khi con nàng lên làm vua, nàng sẽ là thái hậu, uy trùm thiên hạ. Ðó là chuyện mà nàng cho là không thể khác! Chưa nỗi lo nào đáng kể đối với nàng.

Ðêm nay không vậy. Ðể ru giấc ngủ, nàng nằm theo tư thế nghiêng trái cho đến lúc người mỏi nhừ, mà giấc ngủ vẫn không đến, mắt nàng vẫn căng ra thao thức, nàng buộc phải trở mình qua phải. Trong ánh đèn lồng hồng nhạt, nàng thấy cái giường rộng mênh mông vắng lạnh. Chàng đâu? Nàng tự hỏi. Năm đêm rồi chàng không về với nàng, năm ngày đêm chàng không ngó ngàng gì đến nàng đến con. Vì sao vậy? Nàng đã làm gì khiến chàng giận? Không, nàng không có lỗi gì cả. Hôm ra đi người còn vui vẻ lắm cơ mà. Vậy vì sao? Chàng có niềm vui gì mới chăng? Rất có thể. Nhưng đó là đâu, tại sao nàng không hay biết. Nàng bất giác nghiến răng lại: sẽ trả thù tàn khốc kẻ nào làm ta khốn khổ đêm nay! Thao thức không ngủ được, nàng trở dậy, trùm chiếc áo gấm vàng lên mình rồi sang phòng bên nơi thái tử Nghi Dân ngủ. Trong ánh đèn mờ mờ, nàng thấy con mũm mĩm hồng hào nằm say ngủ bên người cung nữ. Yên tâm về con, nàng càng cảm thấy trống vắng, mở cửa sổ, nàng ngắm vừng trăng lạnh tỏa ánh sáng chan hòa khắp kinh thành. Từ nơi nào đó ba tiếng trống cầm canh trầm đục vang lên.

Sáng ra, người phờ phạc, Dương Quý phi ăn lót dạ qua loa rồi đòi viên quan hầu Lưu Cung đến hỏi:

- Hoàng thượng đi tuần du phương nào mà mấy hôm nay không thấy trong cung?

- Bẩm nương nương, hoàng thượng có đi đâu đâu, người vẫn ở trong cung mà!

- Sao ta không thấy hoàng thượng?

- Dạ bẩm. bẩm.

- Vậy mấy đêm nay hoàng thượng nghỉ ở cung nào?

- Dạ bẩm nương nương, nô tài không rõ ạ!

- Không rõ? Làn môi mỏng của nàng cong lên, giọng kéo dài chì chiết. Không rõ? Chả nhẽ ông ăn hại đến vậy sao? Là viên quan chủ quản Ðông cung mà đến hoàng thượng ngự ở cung nào ông cũng không biết! Ông muốn trêu ta hay ông định giấu diếm ta điều gì đây?

Viên quan hoạn bối rối, quỳ xuống:

- Dạ bẩm nương nương, nô tài không dám ạ. Có điều nô tài không dám nói!

- Không dám nói? Có gì mà không dám nói. Tất cả nội cung này là nhà của hoàng thượng, người nghỉ ở đâu không được mà ông không dám nói? Ông định chọc tức ta sao? Vậy thì.

- Dạ bẩm nương nương, nô tài có tội, xin nương nương bớt giận, nô tài xin nói. Chỉ xin nương nương đừng nói với hoàng thượng là nô tài .

- Có gì mà phải rào trước đón sau vậy? Ông nói đi! Giọng nàng đanh lại khắc nghiệt.

- Dạ thưa, mấy đêm nay hoàng thượng nghỉ ở chỗ Lễ nghi học sĩ ạ!

- Lễ nghi học sĩ? Tiếng Quý phi dường như ré lên kinh ngạc.

- Dạ bẩm nương nương, đúng thế ạ, ở chỗ Lễ nghi học sĩ, nô tài không dám nói sai!

- Thôi được rồi, ông ra đi!

Mặt tái đi, Dương Quý phi lảo đảo, bước về giường, nàng nằm vật xuống. "Không ngờ, không ngờ, nàng lẩm bẩm, tình địch của ta lại là con đĩ già!" Nàng nhớ lại, buổi đầu tiên đến vấn an mình, thị ăn nói từ tốn lễ độ nhưng không hiểu sao nàng lại có cảm giác lo lo, không dám nhìn thẳng vào mắt thị. Có vẻ như nàng sợ khi nhìn vào khuôn mặt đẹp lộng lẫy của người đàn bà đang độ hồi xuân. Nàng có biết bao uy thế: tuổi trẻ, xinh đẹp, là Quý phi, mẹ của thái tử. Nhưng tất cả những cái đó cộng lại cũng không làm nàng yên tâm. Vẻ đẹp lộng lẫy, sự hấp dẫn nơi thân xác thuần thục đang hồi xuân của ả có thể hớp hồn bất cứ người đàn ông nào! Bên cạnh ả, nàng cảm thấy mình chỉ như chú gà nhép tội nghiệp trước con diều. Người đàn bà này sẽ gây họa cho ta, nàng thầm nghĩ. Nếu lúc đó chỉ là cảm giác mơ hồ thì nay bất hạnh đã là sự thật. Chưa bao giờ có chuyện đó trong cung. Ngoài nàng ra, hoàng thượng chưa từng si mê ai đến thế! Hoàng thượng đã sa vào cái bẫy lớn mà con dâm phụ khôn khéo dăng ra!

***

Ở ngôi chí tôn nhưng Lê Thái tông là người bất hạnh. Chàng sớm phải dứt tình mẫu tử. Trong ký ức của chàng, hình ảnh mẹ chỉ là khuôn mặt mờ mờ hương khói trong ngôi đền nhỏ một buổi chiều ảm đạm. Rồi mẹ biến mất và để chàng lại giữa những người xa lạ. Dù tất cả đều chiều chuộng nâng niu chàng thì chàng vẫn cảm thấy thiếu cái gì đó mà sau này chàng hiểu là tình mẹ. Cha quá bận rộn với những trận đánh, những cuộc hành quân, những việc lớn không có thời giờ chăm sóc chàng. Rồi cha cũng sớm ra đi, chất lên vai đứa trẻ là chàng cái gánh nặng quốc gia. Tuổi trẻ của chàng bị tước đoạt. Mới mười một tuổi, chàng đã phải đội mũ mang đai thiết triều, đối diện với những ông già râu bạc, những võ tướng oai phong. Tất cả đều phủ phục dưới chân chàng. Chàng không sao hiểu được mỗi lời nói của chàng lại có uy lực đến vậy. Do tính hiếu thắng con trẻ, chàng thích thú với quyền lực của mình. Nhưng rồi chàng nhận ra cùng với uy lực, chàng cũng mất bao nhiêu cái chàng yêu thích. Không được nói những điều muốn nói, không được làm những việc muốn làm. Tới lúc chàng nhận ra mình chỉ là con rối, là thằng hình nhân trong tay quan thái sư Lê Sát. Vừa là lão thần, vừa là cha vợ, lão luôn bắt bẻ luôn luôn cấm đoán. Chàng sợ lão như sợ ông ba bị. Vắng lão, chàng đã nổi loạn đòi lại tuổi thơ của mình bằng cách chơi đùa với bọn thái giám. Có bận chàng cưỡi voi cho chúng chọi nhau. Hai con voi đực lớn xông vào nhau phát ra tiếng động rầm trời. Giữa cuộc đấu voi, người ta dâng một con sơn dương đực lớn. Chàng liền cho con voi chàng đang cưỡi xông vào con sơn dương. Nhìn con vật đồ sộ, lúc đầu con sơn dương sợ sệt lui bước nhưng khi bị dồn đến đường cùng, con sơn dương liều chết xông lên giương sừng húc lại con voi. Ðang khoái chí vì con "ngựa" của mình áp đảo đối phương, chàng chợt hoảng hồn khi con vật khổng lồ bỏ chạy. Chàng chỉ vừa trên mình voi phóng xuống đất thì con voi sa giếng. Cả triều đình hốt hoảng. Mấy tiểu thái giám thân thiết với chàng bị lôi ra chém. Từ đấy chàng bị giám sát chặt hơn. Bọn tiểu thái giám lạy như tế sao mỗi khi chàng bày trò tinh nghịch. Người vợ đầu tiên người ta lấy cho chàng năm mười một tuổi là Nguyên phi Ngọc Dao, con của Ðại tư đồ Lê Sát. Người thứ hai là Lê Chiêu nghi, con của Ðô đốc Lê Ngân. Những cuộc hôn nhân được sắp đặt, dù muốn dù không, chàng cũng phải chấp nhận. Chàng có vợ nhưng không hề có tình yêu. Vì vậy, sau này khi Sát và Ngân có tội, chàng phế truất hai người cũng nhẹ nhàng. Chàng thực sự biết đến tình yêu từ Dương Thị Bí. Phải chăng ở tuổi mười lăm chàng đã trưởng thành nên người con gái vừa gặp đã hớp hồn chàng. Người vợ này không do mai mối sắp đăﴠmà do chính chàng tìm. Trong lần về Lam Kinh, chàng thăm một làng dệt chiếu và thấy người con gái xinh xắn ngồi trên khung dệt, chàng đưa nàng về cung phong làm Quý phi. Khi nàng sinh cho chàng đứa con trai đầu, hoàng tử Nghi Dân, chàng càng yêu quý hơn. Tuy nhiên, như mọi bậc đế vương trên đời, Lê Thái tông vẫn nạp phi và tuyển thêm cung nữ để thỏa mãn nhu cầu hưởng lạc.

Nhưng từ khi gặp Nguyễn Thị Lộ, Thái tông cảm thấy cuộc đời mình không như trước nữa. Quyền lực vô biên của chàng lần đầu tiên bị thách thức. "Uy quyền có thể làm được nhiều điều nhưng không làm nên tình yêu!" Nàng nói. Quả vậy, nàng là người đàn bà đầu tiên mà chàng phải bỏ công chinh phục. Cảm hóa nàng không dễ. Chàng không ép buộc bởi chàng cần một người tình, người yêu chứ không chỉ là một con mái tuân phục! Chàng muốn nàng tự nguyện hiến dâng. Chàng biết nàng có cảm tình với mình. Chàng cũng biết, trong cái cảm tình ấy mong manh tình yêu. Nhưng sống lâu năm với con người đạo đức, nàng đã nhiễm thói quen kìm nén. Nàng khép lòng lại như vị tướng giữ thành. Chính cái đêm nàng gẩy đàn trong nước mắt ấy, chàng đã nghe rõ lòng nàng và chàng hành động. Lúc đó hoặc mãi mãi không bao giờ! Lúc đầu, nàng chống cự. Nhưng chàng biết, đó là nàng chống cự lại bản thân. Chàng đã giúp cho nàng chiến thắng. Sau đó mọi chuyện đã khác. Khi đã sang bờ bên kia, không còn quay trở lại được nữa, nàng trở về đúng với bản năng nàng: người đàn bà khao khát tình yêu. Nàng đã tận lòng dâng hiến... Nàng không mưu cầu ngôi vị, nàng không màng danh lợi. Vì vậy tình yêu của nàng là vô tư. Cái vô tư của nàng mang chút khắc khoải của tội lỗi. Tình yêu của nàng không chỉ ngọt ngào mà đầm vị đắng cay. Chính vì thế nó mang lại cho chàng hương vị lạ. Không phải chàng mà chính nàng là người dẫn dắt trong cuộc tình. Sau vồ vập ban đầu, nàng nói: "Chàng biết không, thiếp đã chiều chàng, nhưng như vậy sẽ làm hư chàng. Chàng biết vì sao lại gọi là tinh không? Tinh là tinh túy, là tinh khiết tức là cái quý giá nhất của con người. Tinh khí là của quý mà trời ban cho người đàn ông để duy trì nòi giống, để giáo dưỡng đàn bà. Không có cái đó cố nhiên không duy trì được nòi giống mà cũng không giáo dưỡng được đàn bà. Nguời đàn bà quy phục chồng ở chuyện đó. Người đàn bà phải theo phải quy phục người đàn ông rồi mới nói đến tam tòng tứ đức. Không có cái đó tắc loạn! Nhưng của trời cho có hạn, như ngọn nến đốt mãi cũng phải tắt. Vì vậy phải giữ gìn vật quý đó, đừng phí phạm, đừng bừa bãi. Mỗi lần vui thái quá sẽ là vị đắng chát về sau." Một cảm giác khác cũng đến với chàng. Ðấy là lần đầu tiên chàng biết sợ một người đàn bà. Người ấy là nàng. Nàng là cô tiên của tuổi thơ chàng, nàng còn là mẹ mà khi gần nàng, chàng cảm thấy tâm hồn yên ổn. Nàng là người duy nhất chàng nhận những lời khuyên mà không cảm thấy bị coi thường. Từ nàng, chàng tìm được sức mạnh, được sự tỉnh táo trước mớ bòng bong phức tạp của cuộc đời. Hơn một cô tiên trong mơ bởi nàng là người thực. Hơn cả mẹ bằng xương thịt vì nàng có thể âu yếm có thể ôm ấp và đưa chàng lên đỉnh tuyệt vời của khoái cảm. Nàng là vị thần mà cuộc sống ban cho chàng. Chàng đê mê trong hạnh phúc.

***

Dù quân hầu đã hô vang tới ba lần: "Hoàng thượng đến!" Và lũ thái giám cùng cung nữ quỳ mọp xuống thi lễ thì bà chủ Ðông cung vẫn không thấy bước ra. Viên hoạn quan thưa: "Bẩm hoàng thượng, nương nương hơi khó ở nên không ra tiếp thánh giá được, xin hoàng thượng xá tội!" Nghe vậy, Thái tông bước nhanh vào nội cung. "Ái khanh, ái khanh!" chàng gọi. Trong ánh đèn lồng, Dương Quý phi nằm thiêm thiếp như ngủ. Nhà vua lay nhẹ người nàng. Lát sau nàng từ từ mở mắt, ngồi dậy: "Hoàng thượng người còn nhớ đường về nơi này sao? Tưởng người không tới, thiếp đi ngủ sớm, không nghênh tiếp thánh giá, xin thánh thượng xá tội!" Nghe giọng nàng có ý mỉa mai, Thái tông hỏi lại: "Khanh nói sao? Khanh nói còn nhớ đường về nghĩa là thế nào?" "Thưa, thiếp nghĩ là cung cấm trăm đường khiến hoàng thượng bị lạc!" "Bị lạc? Trẫm mà bị lạc giữa nội cung của mình? Khanh định mỉa mai ta gì đây?" "Thưa, thiếp làm sao mà dám mỉa mai người. Có gì thì người tự biết chứ!" "Nàng. nàng. dừng lại một lúc, nhà vua tiếp, cổ nhân nói không sai, đàn bà và tiểu nhân là khó dạy!" Không nhìn nhà vua, vành môi mỏng của nàng cong lên, giọng chì chiết: "Vậy mà cổ nhân cũng sai đấy!" "Sao? Nàng nói sao? Giọng nhà vua sửng sốt, nàng bảo cổ nhân cũng sai là thế nào?" "Các cụ nói: trai tơ vớ phải nạ dòng, như nước cáy thối chấm lòng lợn thiu. Vậy mà lòng lợn thiu chấm nước cáy thối cũng ngon lắm đấy chứ! Cổ nhân chả sai là gì?" "Khanh khanh dám." Nhà vua giận tái mặt không nói thêm được nữa, gạt tay hất ấm trà cùng những chiếc chén xuống đất vỡ tan. Ngài giận dữ bỏ đi. Người ta bảo con rồng vốn hiền có thể vuốt ve nhưng trên thân rồng có những vảy ngược, vô ý chạm vào sẽ bị nó giết! Dương Quý phi đã chạm vảy ngược của con rồng. Nhà vua yêu nàng, nhiều khi đùa bỡn cợt nhả, nàng quen thói nên cũng buông tuồng không gìn giữ. Thấy nhà vua đi lại với Lễ nghi học sĩ, cũng tưởng chỉ là chuyện trăng hoa thường tình nên hơi làm mình làm mẩy nhắc nhở nhà vua, không dè dụng vào chỗ phạm của người, khiến nhà vua nổi giận. Ngày hôm sau ngài giáng Dương Thị Bí xuống làm thứ phụ, nhân đó bãi ngôi thái tử của Nghi Dân, trong chiếu nói: "Người mẹ kiêu căng lăng loàn thì con đẻ ra chưa chắc đã hiền, không thể ở ngôi thái tử."

***

Không thể nói hết niềm vui sướng của Thần phi Nguyễn Thị Anh khi mẹ con Dương thị bị phế truất. Như trời giúp, tự nhiên nàng trở thành người đứng đầu hậu cung còn con nàng ngấp nghé ngôi thái tử. Từ gia đình thứ dân xã Bố Vệ huyện Nông Cống tiến cung may mắn được vua yêu, phong làm Thần phi, nàng vô cùng mãn nguyện. Biết thân bíết phận mình, nàng một lòng tuân phục Dương Quý phi. Khi Nghi Dân được phong thái tử, mẹ con bà Quý phi dọn sang Ðông cung, nàng càng tỏ ra tôn kính họ. Nàng khôn khéo nuông chiều nết đành hanh ngạo mạn của bà Quý phi. Thấy Thần phi như vậy, trong cung không ai dám ho he phản ứng gì. Ðược thể Dương Quý phi càng lộng hành, không coi ai ra gì rồi tự mình gây vạ lớn. Học bài học của Quý phi, Nguyễn Thị Anh càng tỏ ra hiền dịu hơn, nàng đối đãi với mọi người ân cần, rộng rãi. Biết nhà vua sủng ái Lễ nghi học sĩ nên nàng cũng muốn làm thân với bà. Biết rằng trong cung, vua là chung của mọi người, dù được vua sủng ái cũng chả ai giành riêng được cho mình. Vì vậy nàng không dại dột ghen tuông như Quý phi mà tập trung vào củng cố địa vị của mình và tạo cơ hội để con nàng được phong thái tử. Nàng nói với bà Lộ:

- Từ khi phu nhân vào cung, như đưa làn gió xuân đến. Trước đây, các cung nữ chỉ có việc điểm trang rồi ngồi chờ ân huệ của thánh thượng, ngày ngày như thế sao khỏi buồn tẻ vô vị. Bây giờ trong cung vang vang tiếng học chữ, lời ca hát, ai cũng vui. Thánh thượng càng vui hơn, người không ngớt khen ngợi phu nhân và dạy bản cung ráng học theo phu nhân!

- Cảm ơn nương nương quá khen, thần chỉ làm công việc được thánh thượng phó thác. Nếu có được thành tựu nào, đó cũng là nhờ hồng phúc của thánh thượng và nương nương!

- Phu nhân quá khiêm nhường rồi. Lời khen ngợi của hoàng thượng với phu nhân là thật. Bản cung cũng rất cảm kích, muốn được phu nhân bảo ban cho. Sau này may nhờ hồng phúc của tổ tiên mà con bản cung được làm thái tử, cũng phải nhờ phu nhân dạy dỗ cho nó nên người!

- Ða tạ nương nương, thần sẽ hết lòng phò tá nương nương cùng thái tử!

Nhìn theo bóng Thị Lộ rời khỏi cửa, Thị Anh nghĩ thầm: "Mụ phù thuỷ, đồ dâm phụ, con yêu tinh. Không biết có bùa mê bả lú gì mà nó hớp hồn nhà vua đến thế. Phải đề phòng ả. Chưa biết lòng dạ ả ra sao. Nếu tuân phục ta thì tốt, còn chống ta, ta sẽ làm cho mụ điêu đứng!"

***

- Bệ hạ buồn vì việc phế truất quý phi cùng thái tử sao? Ðang đàn cho nhà vua nghe, thấy người không vui, Thị Lộ dừng tay hỏi.

- Vậy nàng bảo ta vui được sao? Quý phi là người trẫm yêu quý, đã dành cho thị nhiều ưu ái. Nhưng sao thị lại vậy? Quả nhân nhìn lầm người sao? Uổng phí công quả nhân đã đem khúc củi mục cố tạc thành ông bụt!

- Bệ hạ có lầm chăng nữa thì cũng sao đâu bởi nhìn nhận con người chả là việc khó nhất trong trời đất sao? May là bệ - Bệ hạ có lầm chăng nữa thì cũng sao đâu bởi nhìn nhận con người chả là việc khó nhất trong trời đất sao? May là bệ hạ đã sửa được lỗi lầm. Ðấy là phúc lớn của muôn dân. Kinh Dịch nói: "Vạn vật đều nhờ đức quẻ Khôn." Ðức quẻ khôn là đức của người mẹ. Người mẹ trong một gia đình thường dân đã vậy, người mẹ là mẫu nghi thiên hạ trong cung cấm càng có vai trò quan yếu hơn, vì vậy phải hết sức thận trọng. Ðức quẻ Khôn là đức của nước, tức đức nhu thuận mềm mại. Có nhu thuận mới đạt được tứ đức mới theo được tam tòng mới vượng phu ích tử mới sinh con hiền lương. Vậy đức khiêm cung nhu thuận là đức tính hàng đầu của người mẹ!

- Nàng nói rất phải, quả nhân sớm mồ côi mẹ nên ít hiểu biết điều này vì vậy khi chọn phi cũng chỉ theo cảm tính, nghe nàng nói, trẫm càng hiểu, một người tính nết như Dương thị không thể nào làm người mẹ tốt. Nhà vua cười mỉm, nói tiếp: Vậy mong khanh chọn giúp trẫm người nào có thể làm mẫu nghi thiên hạ?

Thị Lộ vui vẻ:

- Thiếp không thể chọn mẫu nghi thiên hạ cho bệ hạ nhưng có thể làm cho hậu cung của người không còn những kẻ như Dương thị để bệ hạ có thể yên tâm bất cứ đứa trẻ nào do bệ hạ sinh ra cũng là người hiền!

- Vậy khanh giúp trẫm đi!

- Thưa, thiếp đã có ý về việc này, hẹn hôm nào đó sẽ trình người rõ. Không chỉ muốn hậu cung bệ hạ không còn đàn bà lăng loàn mà thiếp muốn rằng, trong dân dã, loại đàn bà đó cũng sẽ bị thanh trừ!

- Trẫm không hiểu? Nhà vua nhìn nàng vẻ chăm chú.

- Thưa, gia đình là gốc của nước. Từng gia đình không yên, cả nước không yên. Trong gia đình, người đàn bà, người mẹ là cái nền. Dân gian có câu: Sẩy cha ăn cơm với cá, sẩy mẹ liếm lá dọc đường. Trong gia đình mà người mẹ hiền lương thì khi chẳng may người cha có mệnh hệ nào, đàn con vẫn được nuôi dạy chu đáo. Muốn có nhiều đàn bà hiền lương, từ xưa đã nêu gương tiết liệt. Nhưng theo thiển nghĩ, vậy chưa đủ, còn cần có biện pháp chế tài với những người đàn bà kiêu căng thô lỗ lăng loàn. Muốn vậy, thiếp xin bệ hạ xuống chiếu trừng trị những hạng đàn bà đó.

- Khanh nói rõ hơn xem?

- Dạ thưa, thiếp thiển nghĩ, mỗi hình phạt đưa ra đều nặng nề cho muôn dân, là điều mà bậc minh chúa không muốn. Vì vậy, hình phạt nên đơn giản, dễ thi hành. Thiếp trộm nghĩ, để trong họ trong làng công khai đưa ra những người đàn bà hung hãn lăng loàn rồi tuỳ nặng nhẹ mà phân xử, từ đánh đòn thị chúng, nộp phạt đến bắt giam. Sao cho nghiêm mà đừng khắc nghiệt quá. Có thể cho gia đình hay họ tộc đứng ra bảo lãnh, giúp tội nhân sửa đổi.

- Ðược, trẫm chuẩn tấu. Khanh suy nghĩ thêm cho cặn kẽ rồi viết thành tờ chiếu, trẫm sẽ ban hành.

Từ đấy, chiếu trị tội bọn đàn bà hung dữ lăng loàn ban khắp dân gian.

***

Cung Khánh Phương không lớn nhưng xinh xắn. Có vườn hoa, có bể cạn cùng non bộ với cây si cổ lá nhỏ li ti, cành uốn theo thế nấp bóng tùng quân, những chùm rễ nâu mịn buông tới gần mặt nước thì lún phún trắng. Thấp thoáng trong khe núi giả có những chú tiều phu lom khom, những con nai vàng ngơ ngác. Bên cầu, ông Lã Vọng đội nón, râu dài ngồi câu cá. Tiệp dư Ngọc Dao thích nhất là rặng liễu tơ trồng dọc theo con đường ra đến Ngọc Hồ. Mùa xuân liễu xanh rờn buông mành trông thật thướt tha yểu điệu. Màu xanh liễu, dáng mềm của liễu êm đềm quá khiến nàng cảm thấy thư thái, lòng dịu đi thanh thản. Sáng nay, theo thói quen, nàng lại dạo dưới màn tơ liễu. Nàng nhớ đến cây liễu bên bờ ao nhà ông nội ở xã Ðộng Bàng huyện Yên Ðịnh từng che mát tuổi thơ nàng. Ông nội Ngô Kinh là gia thần của Tuyên tổ Phúc hoàng đế, được Thái tổ phong chức Thái phó. Nhờ ông nội mà cha nàng là Ngô Từ được làm gia thần của Thái tổ, có công cung cấp quân lương nên được phong chức Thái bảo. Sau ngày chiến thắng, ông rồi cha nàng được triều đình cấp đất xây phủ nên cả nhà ra Thăng Long sinh sống để hưởng lộc nước. Cha nàng là chỗ thân tình của quan Thừa chỉ đại học sĩ Nguyễn Trãi và bà Nguyễn Thị Lộ. Thông cảm với hoàn cảnh hiếm muộn của bà Lộ nên cha đã cho ông bà đứa cháu gái ba tuổi, con người em ruột, làm con nuôi. Ông bà rất thuơng yêu, đặt tên là Ngô Thị Chi Lan. Vợ chồng quan Thừa chỉ cũng coi nàng như con. Nhờ phúc ấm tổ tiên mà chị Xuân của nàng được vào cung hầu vua. Một bận vì tò mò, nàng theo chị vào nội cung, may mắn được nhà vua cho làm cung tần sau đó phong làm Tiệp dư. Từ ngày vào cung Khánh Phương, nàng như lạc lên tiên cảnh. Nàng chỉ băn khoăn là mình chậm có thai. Nàng năng đến chùa cầu tự. Hình như điều mong ước bấy lâu nay đã kết quả. Ði bên nàng là cung nữ tâm phúc Xuân Trang. Hai người ríu rít trò chuyện. Không giấu nổi niềm vui, nàng nói:

- Chị đã mơ gì, em biết không? Ngọc Dao nói trong lúc hai gò má hồng hồng lên vì ngượng.

- Nương nương mơ gì, nói cho em biết với! Người cung nữ hào hứng vẻ tò mò.

- Ta mơ. ta mơ. nhưng nói ra ngượng chết đi được!

- Nương nương nói đi mà, em chứ có phải ai đâu mà ngượng?

- Thôi để ta nói nhá! Hơn tháng trước, sau khi hầu hạ thánh thượng, ta mơ thấy Ngọc hoàng thượng đế dự tiệc bàn đào, có một tiên đồng khôi ngô tuấn tú hầu hạ bên người, dâng người chén rượu. Uống xong, nhìn tiên đồng, ngài nói: Ta cho con đầu thai vào nàng Tiệp dư Ngọc Dao, rồi con sẽ làm vua nước Nam. Sáng nay ngự y xem mạch, nói là ta có mang. Giấc mơ ấy không biết thực hay hư?

- Nương nương mơ như vậy thật sao? Cô cung nữ hỏi.

- Thật chứ chị dối em làm gì? Có điều chị thấy giấc mơ lạ quá, không biết lành hay dữ?

- Hay quá rồi nương nương ơi. Người mơ như vậy sau khi hầu hạ hoàng thượng thì chắc là giấc mơ sẽ ứng nghiệm, nương nương sẽ sinh quý tử, rồi con nương nương sẽ làm vua!

Ngọc Dao vội đưa tay bưng lấy miệng Xuân Trang, nói nhỏ:

- Khẽ miệng thôi, người khác nghe thấy thì chết đấy!

- Sao lại chết ạ? Nô tỳ tưởng như vậy phải vui mới đúng chứ! Xuân Trang mở to mắt ngơ ngác hỏi.

- Em dại quá! Không như em tưởng đâu. Tin này mà lộ ra thì không yên với Thần phi đâu. Chị nói cho em biết thôi, không được nói với ai nữa, chuyện chết người đấy!

- Nô tỳ hiểu ạ! Mừng cho nương nương, nhưng em sẽ im như thóc, không hé môi với ai đâu!

Ðang tưới hoa, nhưng đôi mắt sắc của cung nữ Xuân Thanh luôn dõi theo hai bóng người đi dưới hàng liễu. Thấy Tiệp dư và Xuân Trang trò chuyện vui vẻ đắc ý, cung nữ Xuân Thanh cảm thấy nhức nhói, lòng ghen tỵ nổi lên: "Nó thì được cùng nương nương đi dạo, còn mình phải múc nước giếng sâu lên tưới cây, vừa mệt lại ướt át bẩn thỉu, tức muốn ứa máu. Nhất định phải biết xem họ nói những gì! May mà mình khôn khéo kết thân với nó!" Nghĩ vậy thị mỉm nụ cười bí ẩn.

Xuân Trang và Xuân Thanh vào cung một lượt. Xuân Trang trúng các cuộc tuyển cung nữ từ phủ huyện rồi lên kinh đô. Xuân Thanh là cháu họ của hoạn quan Ðinh Phúc nên việc vào cung dễ dàng hơn. Khi đưa cháu vào cung Ðinh Phúc dặn: "Trong cung mọi sự phải cẩn thận đề phòng, không khéo thì mắc tội, có khi mất mạng, lại còn làm tội lây đến cả cha mẹ vì vậy bề ngoài cháu không được tỏ ra quen biết ta, cũng không để cho ai biết là cháu ta. Chỉ có vậy ta mới giúp được cháu." Khi Ngọc Dao được hoàng thượng sủng ái phong làm Tiệp dư cho ở cung Khánh Phương, Ðinh Phúc bố trí cho cháu vào hầu Ngọc Dao. "Trong triều nhiều bất trắc cháu thấy đấy. Dương thị hôm truớc còn là quý phi, là mẹ của thái tử, uy quyền che phủ tam cung. Nhưng chỉ một sớm bị truất phế, thành dân thường. Không những ngôi thái tử của con bị mất mà cả đến những kẻ tâm phúc cũng bị hại. Ngoài đời, ăn cây táo rào cây táo nhưng trong cung, không chỉ rào cây táo mà còn phải rào cây na, cây ổi. Hiện thời Thần phi là chủ hậu cung, ta phải thờ bà ấy. Nhưng nếu chỉ có vậy thì khi chẳng may bà ấy bị phế, biết dựa vào đâu? Vì vậy ta cho cháu vào hầu hạ bà Tiệp dư, cố làm sao thành người thân tín của bà ấy và nắm chắc được mọi ý nghĩ cũng như việc làm của chủ rồi báo cho ta biết. Nếu sau này Tiệp dư được vua sủng ái, cháu sẽ theo, còn nếu có chuyện gì, ta sẽ đựa vào Thần phi mà cứu cháu. Chỉ có cách ấy mới tự cứu được mình mà hưởng phú quý. Ðiều cốt tử là phải thật kín đáo." Xuân Thanh rất uất là đã làm hết cách mà không lấy được lòng của bà Tiệp dư trong khi càng ngày bà càng quý Xuân Trang. Vì vậy ả cố làm thân với Xuân Trang để dò xét chủ.

Ðêm, thị bò sang giường Xuân Trang, giả bộ mệt mỏi, nhăn nhó nói: "Em bóp tay chân giúp chị đi, chị tưới hoa cả buổi, đau nhừ người." Xuân Trang vui vẻ bóp tay chân cho người chị kết nghĩa. Khi hai bàn tay mềm ấm của Xuân Trang đưa lên vai ả, đầu cô ngả gần đầu ả, Xuân Thanh nói: "Em nay có gì mà vui thế, nét mặt cứ tươi như hoa, đã đẹp lại còn đẹp hơn! Biết đâu em tôi gần Ngô tiệp dư, có lúc lọt mắt xanh thánh thượng lại được lên làm phi thì bà chị này được nhờ rồi!" "Chị cứ nói vậy, chứ em có gì vui đâu?" "Không vui sao mặt cứ hơn hớn như bắt được của vậy? Có gì vui cho chị biết để chị vui chung với, dấu chị làm gì? Hay là nương nương thưởng cho em cái gì chăng? Chị thấy nương nương quý em lắm! Nương nương thật tốt. Ðược hầu hạ nương nương là phúc đức của chị em mình." Vốn cả tin, nghe những lời đường mật ấy, Xuân Trang không đắn đo nữa, liền kể giấc mơ của Tiệp dư. "Em chỉ kể cho chị nghe thôi đấy, không được nói với ai đâu kẻo hại đến nương nương!" "Em yên tâm đi, đời nào chị lại kể cho ai nữa. Chị em mình có phúc rồi Xuân Trang ơi!" Vui như mở hội, ả vừa nói vừa ôm ghì người em kết nghĩa.

Sáng hôm sau, tìm gặp Ðinh Phúc, Xuân Thanh liền kể về giấc mơ của Ngô Tiệp dư. Ngay lập tức Ðinh Phúc vào bẩm báo với Thần phi.

- Có giấc mơ như vậy sao? Thị Anh hỏi.

- Dạ quả là như vậy, người cháu của nô tài nhờ hồng phúc của nương nương, được hầu Tiệp dư. Nó không được Tiệp dư sủng ái nhưng có con bạn được Tiệp dư rất quý. Sáng hôm qua hai người đi dạo, Tiệp dư đã nói ra giấc mơ đó. Ðêm qua cháu nô tài phải hết sức gạn hỏi, bạn nó mới nói. Trước khi vào đây, nô tài đã xem lại sổ ghi chép. Ðúng là cách đây hơn tháng, thánh thượng nghỉ đêm ở cung Tiệp dư. Nô tài hỏi, thái y cũng nói là Tiệp dư có thai rồng ạ! Mặt thần phi Nguyễn Thị Anh chuyển từ hồng sang tím tái. Cặp môi hình trái tim mím lại, hai bàn tay cuộn thành nắm đấm. "Thôi được, ông lui ra đi!" Nàng nói với Ðinh Phúc.

Tin Ðinh Phúc mang đến như sét đánh ngang tai làm Thần phi choáng váng. Vậy là điều mình lo lắng lâu nay đã thành sự thật, nàng nghĩ. Ả mang thai rồng, thêm giấc mơ tiên đồng đầu thai hẳn sẽ sinh quý tử. Ngôi thái tử của Bang Cơ bị đe dọa. Không như Dương thị, nàng là người biết lo xa. Tuy con nàng được phong làm thái tử, uy của nàng trùm cả nội cung nhưng nàng cũng hiểu, tất cả chỉ là tạm thời, chưa có gì chắc chắn. Trước kia ai chả bảo Dương thị có phúc nhưng chỉ cần một lần làm hoàng thượng nổi giận là mất hết. Nàng biết, lỗi tại Dương thị nhưng cũng còn tại có Bang Cơ. Nếu không có Bang Cơ hẳn là hoàng thượng sẽ cắn răng chịu đựng Dương thị mà chẳng dám ho he. Nay điều đó lại diễn ra với nàng: khi Ngô thị sinh quý tử, biết đâu vì lý do nào đó mà có cần gì lý do, chỉ cần ả khéo nịnh nọt chiều chuộng thì địa vị của con mình không còn, đời mình cũng tàn cuộc! Làm sao đây? Làm sao đây? Nàng oán trách ông giời sao lại cho Ngô thị vào cung? Không được oán trách lung tung nữa, nàng tự nhủ, bây giờ không phải lúc ngồi mà oán trách, phải tính toán cách nào? Tới chiều nàng nghĩ ra một độc kế. Ðêm hôm đó nàng khâu một hình nhân con trai hai tuổi mặc áo gấm màu vàng. Khâu xong, nàng lấy bảy chiếc kim cắm vào bảy huyệt quan trọng trên người hình nhân. Sáng ra, nàng cho gọi Ðinh Phúc đến:

- Ông đã nghĩ ra cách gì giúp ta chưa? Nàng hỏi rồi nhìn viên quan hoạn bằng con mắt trách móc.

Ðinh Phúc khúm núm thưa:

- Bẩm nương nương, nô tài đã bàn cùng Ðinh Thắng nhưng chúng thần chưa nghĩ ra kế gì ạ!

- Không nghĩ ra hay các ông không muốn nghĩ bởi ta sắp thất thế nên các ông cũng tự lo lấy thân?

Phúc luống cuống:

- Bẩm nương nương không ạ, chúng thần luôn trung thành với nương nương, số phận của nương nương cùng thái tử cũng là vận mạng của chúng thần. Chỉ vì chúng thần tối tăm chưa nghĩ ra kế gì hay thôi ạ!

- Ðược rồi, ông đứng lên đi! Các ông không nghĩ ra thì hãy làm theo kế của ta vậy! Nói rồi Thị Anh lấy ra con hình nhân đặt lên bàn. Ðến nước này không dùng độc kế không xong. Nhưng mưu cao thì họa càng sâu, các ông phải cùng ta sống chết làm đến cùng, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Ông có dám làm không?

- Bẩm nương nương, chúng thần nguyện hết sức khuyển mã hầu hạ nương nương cùng thái tử ạ.

- Vậy thì đây, các ông phải làm ba việc sau: thứ nhất, tìm một đạo sĩ tin cẩn xin một đạo bùa cho vào ruột hình nhân này, khâu lại rồi sai cô cháu gái ông, cô ta tên gì nhỉ? Xuân Thanh, phải, phải Xuân Thanh đem thằng hình nhân giấu vào chỗ kín đáo trong cung Khánh Phương. Phải nhớ kỹ chỗ dấu để rồi còn tìm. Sau đó, ông đến gặp thái y tin cẩn, bảo ông ta cho hai thang thuốc. Một thang cho thái tử uống vào thì người nóng sốt nhưng không thể đoán ra bệnh gì. Một thang uống vào thì hết bệnh. Phải nhớ là thuốc cho thái tử uống, sao cho thật an toàn cho người. Có gì bất trắc không chỉ các ngươi mà cả ta cũng mang họa. Việc thứ ba: mời đạo sĩ về lập đàn cúng. Ông nói cho đạo sĩ chỗ để hình nhân. Ðạo sĩ sau khi cúng sẽ nói là thái tử bị yểm và chỉ ra chỗ giấu bùa. Khi lấy được bùa đem về cúng giải bùa, thì cho thái tử uống thuốc giải và phải đốt ngay thằng hình nhân để tránh họa về sau. Các ông đi làm ba việc đó đi, còn lại ta lo. Nhớ là phải thật cẩn thận, lộ ra là chết cả lũ. Nói xong nàng đưa cho Phúc một gói bạc: Ðây là số bạc một trăm lạng, ông mang theo lo công việc!

Buổi chiều Ðinh Phúc đến báo mọi việc đã xong và đưa cho Thần phi hai gói thuốc một gói đề chữ "tiền" một gói đề chữ "hậu". Nửa đêm về sáng, bỗng nhiên thái tử lên cơn sốt rồi khóc ré lên, phá tan không khí tĩnh lặng của Ðông cung. Từ đó đến sáng, thái tử cứ ngằn ngặt khóc, các cung nữ, đến cả Thần phi không sao dỗ được.

Ðang cùng bách quan thiết triều, hay tin thái tử bị bệnh, vua Thái tông lập tức bãi triều trở về Ðông cung. Ðến nơi, người thấy thái tử Bang Cơ nằm lả đi trong tay mẹ, mặt đỏ bừng, chiếc khăn dấp nước đắp lên trán, còn Thần phi ôm con, đầu tóc rối bù, nước mắt lã chã, vừa khóc con vừa gọi nhà vua.

- Ðặt tay lên trán con, nhà vua hỏi các quan thái y: Thái tử bị bệnh gì? Ba vị quan thái y nhìn nhau rồi một vị già nhất quỳ tâu:

- Muôn tâu thánh thượng, chúng thần chỉ thấy thái tử sốt nhiều mà không biết là bệnh gì, chúng thần đáng chết!

- Hồi hoàng thượng, Ðinh Thắng xen vào, các vị thái y đã chẩn bệnh cho thái tử rất kỹ nhưng không thể xác định là bệnh gì. Theo thiển ý của thần, có lẽ đây không phải bệnh thông thường mà có thể do quỷ ám hay có người trấn yểm ạ!

- Ma quỷ? Bùa yểm? Trẫm chúa ghét những trò dị đoan. Trước đây trị tội Lê Ngân cũng vì chuyện đó. Nay lại có chuyện bùa chú quỷ ma trong cung của trẫm. Thật hoang đường!

Vẫn ẵm con trên tay, Thần phi quỳ xuống sụt sùi:

- Bệ hạ ơi, xin người cứu lấy con thiếp. Có bệnh thì vái tứ phương. Các thái y giỏi nhất của người bó tay rồi, còn cách nào hay hơn, xin người cứu con thiếp với. Thái tử có mệnh hệ nào thì thiếp sống làm sao? Ðến đây, nàng bù lu bù loa: con ơi con, sao mẹ khổ thế này, con nỡ bỏ mẹ mà đi sao?

Không chịu được tiếng khóc cùng sự lu loa của đám đàn bà, chàng gắt:

- Thôi, tùy các ngươi muốn làm gì thì làm!

Nói rồi nhà vua phẩy tay bỏ đi.

***

Lâu nay Thái tông có thói quen, mỗi khi có gì buồn bực trong lòng, chàng lại về cung Lễ nghi học sĩ. Về bên nàng, chàng như người đi giữa nắng được ẩn trong bóng râm. Chàng thấy tâm hồn trở nên thanh thản, tâm trí tỉnh táo. Sao lạ vậy, có lúc chàng tự hỏi. Hơn một người vợ. Người vợ chỉ biết tuân phục và nuông chiều. Hơn một người mẹ, từ mẫu chỉ biết thương yêu và răn dạy. Nàng như là người mẹ trong một người tình. Nàng biết khuyên can ta những điều sâu xa, nàng cũng nghiêm khắc như người mẹ với những điều ta chưa phải. Nhưng sau đó, bao giờ ta cũng được hưởng sự vuốt ve chiều chuộng cùng niềm vui ân ái . Chàng nhận ra, từ khi gặp nàng, chàng đã thành người khác, trầm tĩnh hơn chín chắn hơn.

Nhìn vẻ mặt ủ dột của nhà vua, Thị Lộ hỏi với giọng thương cảm:

- Nguyên Long, bệnh thái tử sao rồi?

- Thái y bó tay, còn bà ấy định mời đạo sĩ về giải bùa!

- Ðạo sĩ ư? Phân vân một lúc, nàng tiếp: có bệnh vái tứ phuơng, thôi cũng được, cốt sao cho Thần phi yên lòng!

Dáng bộ mệt mỏi, nhà vua ngả mình trên giường. Thị Lộ bước lại, bàn tay mềm mại của nàng xoa xoa lên thái dương, lên trán lên má nhà vua, qua hai vai rồi lan đi khắp cơ thể. Chỉ lát sau nhà vua chìm vào giấc ngủ.

Nhìn nhà vua ngủ, trong lòng Thị Lộ bồi hồi xáo trộn nhiều tình cảm. Chàng ngủ yên lành vô tư như đứa trẻ. Nhưng trên vầng trán thơ trẻ sớm mờ mờ những nếp nhăn in dấu ấn cuộc đời khắc nghiệt. Trong dáng dấp đứa trẻ thơ này lại mang oai phong của con mãnh hổ. Nhưng dù sao, chàng cũng mới qua vòng thơ trẻ. Có thể là thiên tử nhiều người mơ ước nhưng chàng là đứa trẻ bất hạnh! Nhìn chàng ngủ nàng bỗng thấy xót thương như người mẹ xót thương con. Nàng không ngờ có một ngày mình lại là người như thế này! Nhưng thế này là thế nào? Nàng nghĩ. Xấu xa hay tốt đẹp? Hèn hạ hay cao thượng? Không dễ trả lời! Một tập hợp những điều phức tạp. Nàng không bao giờ muốn mắc vào cái nghiệp chướng này. Nàng muốn mình mãi mãi sống cuộc đời thanh bạch cùng Ức Trai, vui với cây cỏ với núi rừng, vui cùng thơ văn của người. Nhưng rồi sự dun dủi của số phận bắt nàng vào cung. Rồi việc gì phải đến đã đến! Nàng không giữ được tiết với chồng. Nàng đã thành dâm phụ. Nhưng trong hoàn cảnh bất khả kháng, nàng đã làm được những việc hữu ích. Trong những việc hữu ích ấy, nàng tự hào là mình đã cải biến được Thái tông. Một ông vua ít học, hành động nông nổi theo bản năng, từ khi yêu nàng, từng ngày một nhà vua trở nên chín chắn hơn, trầm tĩnh, sáng suốt hơn. Giữa công ấy và tội ấy, bên nào nặng bên nào nhẹ? Ðiều đó nàng không quan tâm lắm. Nàng chỉ buồn vì đã không phải với Nguyễn Trãi, nàng đã phụ người chồng muôn vàn yêu kính. Và đó là nỗi đau day dứt lòng nàng.

***

Chỉ cần chờ có thế, Ðinh Phúc lập tức đưa đạo sĩ về. Trong Ðông cung lập đàn cúng với trống chiêng inh ỏi. Ðạo sĩ mặc áo vàng thắt khăn vàng cầm kiếm gỗ múa. Ðang nhảy nhót, đạo sĩ ngã xuống ngất lịm đi, lát sau ngồi dậy nói với Ðinh Phúc:

- Có kẻ yểm bùa mưu hại thái tử. Kẻ đó rất cao tay nên bần đạo không biết được hắn là ai. Nhưng bần đạo đã biết chỗ giấu đạo bùa. Nói rồi đạo sĩ đưa la bàn ra ngắm nghía một lúc, nói: cứ đi về hướng cấn đúng năm trăm bước sẽ tìm thấy đạo bùa.

Lập tức Ðinh Phúc cùng Ðinh Thắng lấy quân cấm vệ chiếu theo la bàn đi tìm. La bàn dẫn đến cung Khánh Phương cũng là lúc vừa đủ năm trăm bước. Quân cấm vệ định xông vào cung, lính gác ngăn lại. Hai bên giằng co không ngã ngũ. Ðinh Thắng phải đi mời nhà vua. Nhà vua cùng Thắng đến cung Khánh Phương. Quang cảnh thật rối loạn, lính hai bên sát khí đằng đằng. Tiệp dư Ngọc Dao người xanh xao quỳ xuống:

- Hoàng thượng, người ta vu cho thiếp làm bùa hại thái tử. Thiếp oan quá, xin bệ hạ giải oan cho thiếp! Nói xong nàng khấu đầu trước chân vua.

- Nàng hãy đứng lên. Cứ để cho họ khám. Nếu không thấy bùa ngải gì thì mặc nhiên nàng được minh oan, sự trong sạch của nàng được làm rõ. Ngọc Dao đứng dậy, vừa khóc vừa lủi thủi bước vào cung. Ðược thể, lính cấm vệ tràn vào cung Khánh Phương lục lọi. Nhà vua vào trong cung chờ đợi. Lát sau Ðinh Thắng dâng lên nhà vua hình nhân đứa trẻ mặc áo màu vàng, y lôi từ ruột hình nhân một đạo bùa bằng giấy vàng. Vạch áo hình nhân thấy những chiếc ghim sắt nhọn hoắt, nhà vua giận dữ thét lớn:

- Quân phản loạn! Ðồ rắn độc! Không ngờ ngươi mặt người dạ thú táng tận lương tâm đến vậy.

Nhà vua chưa nói dứt lời, nàng Ngọc Dao vốn yếu đuối, ngất đi như cây chuối bị chặt, bất tỉnh nhân sự.

- Hạ ngục tất cả bọn người trong cung Khánh Phương, còn Tiệp dư, giam vào lãnh cung, chờ xử sau! Nói xong nhà vua giận dữ bỏ đi.

***

Giao con cho cung nữ ẵm, Thị Anh mắt ráo hoảnh, tuyệt không còn vẻ sầu thảm lúc trước, đi đi lại lại chờ đợi có vẻ nôn nóng. Ðinh Thắng trở về cùng con hình nhân áo vàng trên tay:

- Bẩm nương nương, nô tài đã tìm thấy bùa trong cung Khánh Phương, trình nương nương .

Nhận hình nhân cùng đạo bùa, nàng thét lên:

- Quân ác độc! Chúng trù ẻo con bà đến thế này sao? Giết hết chúng đi! Con ơi là con ơi! Nàng la lối rồi giằng lấy con mềm oặt trong tay cung nữ.

Ðạo bùa cùng hình nhân được đưa cho đạo sĩ. Y nói:

- Ðạo bùa cùng hình nhân thế mạng đã tìm được, bây giờ bần đạo cúng giải bùa để cứu thái tử. Y đặt hai vật trong tay vào chiếc đĩa rồi đưa lên bàn thờ. Chiêng trống rộn lên, đạo sĩ lại cầm gươm múa những đường thuần thục như một võ sư. Múa mấy hiệp như đánh nhau với người vô hình, đạo sĩ ôm ngực như người bị thương, bước loạng choạng, sau đó gượng lại vung gươm chém tiếp. Cuối cùng, đạo sĩ chém một nhát mạnh rồi dừng lại:

- Con quỷ này rất mạnh, bần đạo suýt bị nó hại. Nhưng cuối cùng cũng diệt được nó. Bây giờ phải nhanh nhanh cứu thái tử.

Cầm hình nhân và đạo bùa lên, y lấy ngón tay trỏ vẽ những hình trên không phía trên hai vật, phun lên đó một bụm máu rồi ném vào hỏa lò đang rực cháy. Y ném thêm vào đó mớ giấy tiền vàng bạc, nói:

- Con quỷ này rất thiêng, phải cao tay lắm mới diệt được nó nên bần đạo cũng phải có lễ tiễn nó!
Thái tử Bang Cơ hết sốt, ngủ ngon trong tay mẹ.

***

Tỉnh lại thấy đang nằm ở nơi lạ hoắc, Tiệp dư Ngọc Dao vô cùng hốt hoảng:

- Ta, ta ở đâu thế này? Ðây là đâu? Sao ta lại ở đây? Nàng từ từ bò dậy, lảo đảo đứng lên nhìn căn phòng vắng lạnh.

Vừa lúc đó Xuân Trang từ phía sau chạy tới, dìu nàng ngồi lên ghế.

- Nương nương, nương nương tỉnh rồi sao? Lạy trời, nương nương đã tỉnh rồi. Người làm em sợ quá. Như vậy là người đã thiếp đi một ngày một đêm rồi đó!

- Vậy sao, một ngày một đêm? Nhưng điều gì đã xảy ra vậy? À, ta nhớ ra rồi. Có phải đầu tiên là quân cấm vệ kéo đến định xông vào cung, lính gác cự lại. Rồi hoàng thượng đến, người nói: cứ để cho khám, nếu không có sẽ làm rõ sự trong sạch của nàng. Cấm quân ùa vào lục soát, rồi Ðinh Thắng mang ra một hình nhân, một đạo bùa. Rồi. rồi ta không biết gì nữa!

- Lúc đó nương nương ngất đi rồi, làm sao biết được. Xuân Trang lau nước mắt trên má nàng.

- Nhưng sao chị em ta lại ở nơi này, mà đây là đâu, chị không biết?

- Nương nương không biết là phải, đây là lãnh cung!

- Trời, đây là lãnh cung! Vì sao ta lại ở lãnh cung? Ngọc Dao hỏi trong hoảng loạn.

- Dạ, khi tìm thấy hình nhân cùng đạo bùa, hoàng thượng truyền lệnh giam nương nương vào lãnh cung để hậu xét. Còn người trong cung tất cả cùng bị hạ ngục.

- Trời, vậy là hoàng thượng giam ta rồi! Nhưng ta bị tội gì đây?

- Dạ thưa, nương nương bị kết tội yểm bùa mưu hại thái tử!

- Hoàng thượng cũng tin điều đó sao?

- Tang vật rành rành bắt được trong cung, bảo người không tin sao được?

- Vậy ư? Ta mà lại làm điều thất đức đó sao? Em, em gần ta nhất, em có tin là ta làm không?

- Em biết chứ, thưa nương nương, người làm gì em chẳng biết sao? Người hiền lành như bồ tát sao lại làm cái việc bạo ngược ấy được. Nhất định có kẻ vu oan giá họa cho nương nương!

- Tìm thấy bùa ở chỗ ta thì đích thị có người giá họa cho ta rồi! Trời Phật ơi, ta có ăn ở thất đức với ai đâu mà nên nông nỗi này? Hoàng thượng ơi, oan cho thiếp quá!

- Xin nương nương nén bớt đau buồn vì còn hài nhi trong bụng. Nương nương không nhớ là nương nương đang mang thai rồng do Ngọc hoàng thượng đế sai tiên đồng xuống đầu thai sao? Nương nương tin đi rằng cây ngay không sợ chết đứng. Nỗi oan của nương nương rồi sẽ được sáng tỏ. Lúc này nương nương cần vững tâm để giữ sức khoẻ. Nói rồi cung nữ Xuân Trang đưa đến cho nàng bát cháo vừa nấu và nàng gắng gượng nuốt miếng ăn đầu tiên sau hơn một ngày nhịn đói.

***

Ðinh Thắng nét mặt hớn hở quỳ trước bệ rồng:

- Muôn tâu, nhờ hồng phúc của thánh thượng, sau khi giải bùa, thái tử đã bình phục. Sau giấc ngủ ngon, giờ người đã ăn được bát cháo. Thần phi kính mời bệ hạ tới thăm thái tử.

- Khoẻ rồi sao? Nhanh vậy sao? Ðược, để trẫm tới thăm thái tử cùng vấn an Thần phi.

Ðón nhà vua trước cửa cung, Thần phi cúi đầu thi lễ. Ðược nhà vua tận tay nâng lên, nàng hớn hở báo tin:

- Nhờ hồng phúc của hoàng thượng, sau khi được đạo sĩ giải bùa, thái tử đã hết bệnh, người đã ăn được bát cháo và bây giờ lại ngủ tiếp ạ.

- Ðể trẫm vào thăm con!

Nhà vua bước vào, nhìn con nằm ngủ ngon lành trên chiếc giường nhỏ, đưa tay sờ lên trán con, vẻ mặt nhà vua dịu lại:

- Trẫm cảm ơn nàng đã cứu con trẫm. Nếu riêng trẫm, trẫm cũng không biết xoay sở ra sao! Nàng đã trọng thưởng cho đạo sĩ chưa?

- Ðội ơn thánh thượng, thiếp đã mạo muội thay mặt người thưởng cho đạo sĩ. Nhìn nhà vua, nàng tiếp, nay thái tử thoát nạn nhưng thiếp chưa thể yên tâm vì giống mặt người dạ thú còn trong cung, thì mối đe dọa với con thiếp vẫn còn!

- Nàng nói phải, trẫm đã giam Ngô thị vào lãnh cung, rồi sẽ xét xử sau. Trẫm quyết không tha!

- Còn xét xử sau gì nữa, thưa bệ hạ, tội của thị đã rõ ràng. Chỉ có voi giày mới xứng với tội của thị. Chỉ khi nào con ác phụ bị phanh thây xé xác, thiếp mới yên tâm và tính mạng của thái tử mới được đảm bảo!

***

Lòng dạ Thái tông rối như tơ vò. Thái tử bỗng nhiên bị ốm, thái y bó tay. Mười mươi tưởng chết. Nhưng rồi pháp sư đến, như có phép thần, thái tử hết bệnh nhưng lại nảy ra chuyện bùa yểm trong cung Khánh Phương. Thật điên đảo! Phải xử Ngô thị thế nào đây? Nhà vua nghĩ đến việc mình đã phế truất ba bà phi. Chả lẽ lại thêm người nữa với hình phạt ghê gớm như Thần phi vừa tâu?
Những ngày qua nhiều lần Thái tông xem xét lại việc làm của mình. Tiên tề gia. cổ nhân dạy, vậy với một thiên tử thì mình đã tề gia ra sao? Phế truất hai bà phi họ Lê là bất khả kháng. Cha họ có tội, họ không còn xứng với vai mẫu nghi thiên hạ. Việc với Quý phi là chẳng đặng đừng. Người đàn bà kiêu căng lăng loàn như thế không thể tiếm vai chính cung và đứa con do người đàn bà ấy sinh ra cũng không thể ở ngôi thái tử. Nói cho cùng thì trong đạo tề gia, mình cũng chưa có gì thái quá. Nhưng dù sao phế lập cũng là việc không hay. Giờ lại xảy ra chuyện bạo thiên nghịch địa này càng khiến cho mình khó xử. Trong thâm tâm, nhà vua không tin Ngô Tiệp dư có bản lĩnh làm cái việc ghê gớm này. Trong các bà vợ nhà vua, nàng là người nhu thuận nhất, hiền lành rộng rãi bao dung như một nữ bồ tát. Nàng chăm đi lễ chùa cầu tự. Nàng cũng không có động cơ hại thái tử. Lẽ nào nàng lại dám mắc tội tru di chỉ vì lo cho đứa con vừa mới hoài thai? Chàng thấy thật hoang đường thật khó tin. Nghĩ thế nhưng rồi lúc nào đó trong lòng chàng những tiếng nói khác cất lên: Ai đo được lòng người sâu hiểm? Thêm nữa, tang chứng rành rành, và lại phạm cái tội mà mình chúa ghét.
Nghĩ ngược nghĩ xuôi đều không yên bề nào khiến nhà vua mất ăn mất ngủ. Ngài tiếc rằng, đây là việc nhà nên không thể nghị luận ở triều đình mà cũng không thể đưa cho hình quan xét xử. Lòng chàng càng bối rối.

***

Trước những chuyện xảy ra trong cung, Nguyễn Thị Lộ rất lo lắng. Trong đầu óc nàng, chuyện hệt như một thần thoại. Thái tử đột nhiên mắc trọng bệnh, các thái y bó tay, pháp sư lập đàn cúng lễ, chỉ ra bùa yểm trong cung Tiệp dư, cúng giải bùa, thái tử lập tức khỏi bệnh. Chuyện thần thoại ngoài đời do dân gian đặt, còn thần thoại trong cung này chỉ có thể do con người dàn dựng. Chỉ có bàn tay con người mới dựng được bản kịch hoàn hảo đến vậy! Nhưng chính vì sự hoàn hảo mà nó bộc lộ chân tướng. Ngón đòn này đánh vào ai? Vào Tiệp dư Ngô thị, vốn con của gia đình đến ba đời hầu hạ nhà Lê, giờ lại mang thai mà các thái y đoan chắc là thai rồng. Thêm nữa lại câu chuyện không biết từ đâu đó đưa ra, là Ngọc Dao nằm mơ thấy tiên đồng xuống đầu thai! Việc này đe dọa ai nhất? Chắc chắn là ngôi vị của thái tử Bang Cơ. Có Bang Cơ nên Nghi Dân mới dễ dàng bị phế rồi Quý phi cũng hết thời! Liệu sự việc có thể lặp lại: ông tiên đồng sắp sinh sẽ đẩy Bang Cơ khỏi ngôi vị và kéo luôn Thần phi xuống vực? Ai dám nói có, ai dám bảo không? Nhưng ở đời, có sự gì không thể xảy ra? Tiên hạ thủ vi cường! Lúc này ra tay là thuận nhất. Khả năng Thần phi thủ mưu vụ này là rõ. Nàng cũng hiểu Thần phi, khác Dương thị kênh kiệu lăng loàn nhưng không hiểm độc, Nguyễn thị khôn ngoan, bề ngoài tỏ ra ngọt nhạt thân mật nhưng bên trong là những toan tính sâu xa. Do linh cảm mà ngay từ lần tiếp xúc đầu tiên, nàng đã nhận ra điều này và cảnh giác. Nhưng không ngờ thị lại có gan lớn đến mức này! Nàng đương băn khoăn nghĩ ngợi trong tâm trạng lo buồn thì Thái tông đến. Nhìn vẻ ủ dột của nàng, nhà vua hỏi:

- Có điều gì làm nàng lo lắng?

- Thiếp không lo sao được khi trong cung cấm xảy ra chuyện tầy đình như thế!

- Cảm ơn nàng đã lo cùng trẫm. Quả thật chưa bao giờ trẫm hoang mang như lúc này! Biết tin ai được đây? Trẫm phế Dương thị vì tội lăng loàn. Nhưng bây giờ hậu cung của trẫm còn xảy ra việc nghiêm trọng hơn cả lăng loàn là yểm đảo mưu giết thái tử, việc đại nghịch vô đạo, muốn tuyệt dòng giống của trẫm! Con đàn bà dám làm cái việc bạo thiên nghịch địa ấy lại vốn là con gia thần tận trung đã ba đời hầu hạ nhà trẫm.
Nhìn thẳng vào mắt nhà vua trong tình cảm vừa yêu vừa thương mà bao dung như người mẹ, nàng nói:

- Nguyên Long, chàng tin là Ngô Tiệp dư làm chuyện đó thật sao?

- Nàng biết đấy, ta đâu muốn tin nhưng sự thật là thế, tang chứng rành rành.

- Thưa được, cứ cho là tang vật rành rành đi, thì thử hỏi, Ngô thị ra tay nhằm mục đích gì? Ðể tranh ngôi thái tử chăng? Nếu có dã tâm ấy thì thị cũng biết ra tay lúc này là quá sớm. Con thị còn chưa ra đời, chưa thực biết là trai hay gái, liệu có sống sót được không vì người ta vẫn nói: chửa là cửa mả. Ai dại dột lo cho cái lợi quá xa xôi ấy mà không nghĩ tới cái họa trước mắt: tội ác chẳng những diệt thân mà còn là họa tru di! Thánh thượng than biết tin ai được đây! Nhưng sống giữa con người mà không tin người thì sao sống nổi? Vậy phải tin nhưng không được mù quáng. Theo thiếp, Tiệp dư chẳng những chưa có động cơ giết người mà về bản lĩnh cũng không phải con người có thể làm việc ác đó. Một con người yếu đuối quen tuân phục lại vốn xuất thân từ gia đình nhiều đời làm tôi tớ của người, được hưởng phúc từ nhà Lê, trung thành hết mực với người. Vì vậy, thiếp có thể cam đoan rằng người làm việc này không phải Tiệp dư.

- Không phải Tiệp dư thì ai? Nguyên Long sốt ruột hỏi.

- Xin người đừng vội, hãy nghe thiếp đã. Bệ hạ nói đến tang chứng. Ðúng là tìm được hình nhân và đạo bùa trong cung Khánh Phương. Nhưng bệ hạ có biết chắc bùa ấy do Ngô Tiệp dư làm không? Bệ hạ không biết chắc chứ gì? Ðúng là bệ hạ không biết vì bây giờ tang vật cũng không còn! Nếu tang vật còn, bệ hạ bằng cách xem đường kim mũi chỉ sẽ biết ai khâu, bằng cách tra lại nguồn gốc các loại vải, lụa làm hình nhân sẽ biết được xuất xứ của nó, rồi việc này gọi việc khác sẽ tìm ra nhiều điều khuất tất. Tang vật không còn vì người ta nói rằng phải thiêu hình nhân mới giải được bùa cho thái tử. Nhưng đó là điều xưa nay chưa ai nói, bởi cái linh nghiệm nếu có là ở đạo bùa. Lấy đạo bùa đi rồi, hình nhân vô giá trị, chỉ còn là mớ giẻ rách. Phải chăng biết rằng những vụ án bùa chú trong cung cấm nhà Tống thường bị Bao Công phát giác nên hôm nay, sợ sự xét đoán sáng suốt của thánh thượng mà người ta hủy con hình nhân để phi tang? Như vậy là ngu ý của thiếp nghĩ đến một mưu mô to lớn, có nhiều người tham gia, được sắp đặt công phu. Trong vòng quay mưu mẹo ấy, Ngô Tiệp dư cùng đứa con trong bụng nàng chỉ là vật tế thần, vật hy sinh, là cái đích để trừ diệt!
Dừng lại một chút nhìn nhà vua đang gục đầu suy nghĩ, Thị Lộ rót ly rượu dâng người, nàng nói tiếp:

- Xin bệ hạ thứ tội, nếu thiếp có làm phật lòng người! Bệ hạ biết không, mẹ con Tiệp dư nương nương là vật tế thần nhưng người mắc bẫy đau đớn nhất khốn thay lại chính là bệ hạ! Bệ hạ sẽ trở thành kẻ hồ đồ giết oan vợ con mình và mang tiếng trong lịch sử là hôn quân bạo chúa!

Ðặt chung rượu xuống bàn, Thái tông như bừng tỉnh, nói:

- Nghiêm trọng vậy sao? Quả là ta không nghĩ ra!

- Thưa, vẫn chưa hết, sau khi Ngô thị bị phanh thây cùng đứa con trong bụng nàng, nhà Lê chỉ còn người nối dõi là Bang Cơ. Xin bệ hạ thứ tội, nhưng thiếp nói thật, lấy gì đảm bảo thái tử không gặp những run rủi bất trắc? Khi đứa trẻ sinh ra, người ta chấm tử vi cho nó nhưng rồi gấp lại, cất đi, chỉ đến năm mười ba tuổi mới đem ra giải đoán vì lẽ, từ tuổi đó đứa trẻ mới thành người. Sinh mệnh con người vốn mong manh mà! Lúc đó bệ hạ tính sao cho cơ nghiệp nhà Lê? Thiếp biết, bệ hạ vốn nhân từ, dù có phế truất mấy bà phi nhưng cũng chưa bao giờ đưa họ vào vòng lao lý. Nhưng nếu bây giờ, theo ý muốn của Thần phi, giết Ngô Tiệp dư thì người sẽ làm một việc thất đức, đường con cái về sau sẽ đầy rẫy oan khiên.

- Ta hiểu, ta hiểu. Cảm ơn nàng cho ta hiểu hết chiều sâu của sự việc. Vậy thì bây giờ ta làm gì đây?

- Xin bệ hạ nghe tiếp. Liệu bệ hạ có thể xử nổi vụ án này chăng? Chứng cứ có đó. Nhưng chỉ căn cứ vào một con hình nhân mà kết tội thì sao tránh khỏi hồ đồ, sao tránh mang danh hôn ám? Với bệ hạ, tất cả đều rất khó. Có trọng án không thể không xét xử. Nhưng chỉ căn cứ vào những chứng cứ bề nổi mà xét thì sao cho khỏi oan sai? Thấy khuôn mặt trẻ thơ của chàng suy nghĩ nghiêm trang quá, trông ngộ nghĩnh, nàng bất giác bật cười thành tiếng, làm hoàng đế ngơ ngác. Nàng an ủi, chàng yên tâm đi, thiếp đã nghĩ cho chàng một cách thoát khỏi mê hồn trận này.

- Nàng nói đi, ta đang muốn nghe đây!

- Ðấy thực sự là âm mưu rất lớn chống lại chính bệ hạ mà có lẽ kẻ tạo ra độc kế cũng chưa lường hết hậu quả. May mà chưa có thiệt hại nào thực sự xảy ra. Theo thiển ý, bây giờ bệ hạ không truy cứu vụ án này nữa. Nếu làm đến tận cùng sẽ không tránh khỏi gây cảnh nồi da xáo thịt. Vậy theo thiếp, chỉ còn cách, là hóa giải vụ án bằng việc không truy cứu Tiệp dư với lý do không đủ chứng cứ. Lấy độc trị độc, dùng gậy của bọn ác đánh lại chúng, bằng cách nói, do hình nhân bị đốt nên không còn chứng cứ buộc tội Ngô Tiệp dư. Chỉ vào việc phát hiện hình nhân trong cung Khánh Phương không đủ kết luận là Ngô thị làm. Nhưng vẫn để án treo đó, nếu sau này có những biểu hiện gì liên can, sẽ gộp vào trị tội!

- Trẫm chấp nhận, không truy cứu nữa.

- Nhưng thưa bệ hạ, thế cũng chưa xong. Mấu chốt của vụ này là có ai đó muốn thanh toán Ngô Tiệp dư cùng thai rồng trong bụng nàng. Không hiểu hoàng thượng đã nghe câu chuyện Tiệp dư nương nương sau đêm hầu hạ người, nằm mơ thấy Ngọc hoàng thượng đế sai tiên đồng đầu thai vào nàng không?

- Có chuyện đó thật sao?

- Thưa có, chính vì chuyện đó lọt ra ngoài mà sinh chuyện. Nhưng cũng chính vì có người rắp tâm diệt tiểu long từ trong trứng nên bệ hạ càng phải cố sức giữ mạng sống của mẹ con nàng Ngọc Dao. Nếu Tiệp dư nương nương còn ở trong cung, sẽ lại có âm mưu khác nhằm hại nàng. Vậy, xin bệ hạ nghe theo kế của thiếp. Kế này do chính phu quân thiếp là quan Hành khiển Lê Trãi nhờ thiếp dâng hoàng thượng.

- Quan Hành khiển nghĩ giúp ta sao? Nhà vua hỏi lại.

- Dạ thưa, sau khi nghe tin lôﮠxộn trong cung, quan Hành khiển rất lo lắng, người đã cho gia nhân chạy thư về bàn với thiếp.

- Vậy kế của người ra sao?

- Sau khi trả Tiệp dư về cung Khánh Phương, xin bệ hạ cho thần được đem nàng dấu ở nơi kín đáo, rồi trong cung cho người phao tin là được nhà vua rộng lượng tha cho nhưng Ngô thị vì sợ tội nên bỏ trốn. Nhờ vậy, Tiệp dư không bị truy sát nữa, có thể sống an toàn. Chờ khi nàng mãn nguyệt khai hoa ta sẽ tính sau!

Trầm ngâm suy nghĩ một lúc, nhà vua gật đầu:

- Diệu kế! Diệu kế! Ta càng hiểu vì sao nàng yêu Ức Trai. Thị Lộ nhìn nhà vua, dò hỏi. Không, không, đừng hiểu lầm ta. Ta không ghen với Ức Trai đâu vì ta biết nàng cũng rất yêu ta. Ôi, tuyệt vời sao, tình yêu của nàng chia sẻ cho hai người đàn ông không những không mất đi mà càng cho lại càng nhiều, lại càng đầy! Vậy nàng hãy yên tâm. Ta càng yêu Ức Trai vì người giúp ta thoát khỏi cạm bẫy lần này. Ðúng như nàng nói, vụ án này càng truy cứu càng rối mà truy cứu rồi thì phải xử lý, làm tới cùng sẽ là tù đày giết tróc sẽ là oan khiên mà người bị hại sau cùng lại chính là trẫm! Cảm ơn hai khanh! Thôi được, nghe lời nàng, trẫm không truy cứu vụ này nữa. Trẫm giao Tiệp dư cùng noãn chúa cho hai khanh. Trẫm tin hai khanh. Nếu có gì khó khăn trẫm sẽ giúp sức!

***

Trở về cung, nhà vua cho gọi Ðô giám trung thừa Lương Ðăng vào, ngài truyền:

- Khanh truyền khẩu dụ của trẫm: thả hết người của cung Khánh Phương bị giam, cho ai nấy về việc cũ. Rước Ngô Tiệp dư trở lại cung, nói rằng, do chứng cứ không rõ ràng nên trẫm không truy cứu nhưng để treo đấy, sau này nếu có tội sẽ xử một thể. Trẫm cấm chỉ không bàn tán gì về việc này nữa!

Nghe Ðinh Phúc báo là Ngô Tiệp dư được xá tội, ra khỏi lãnh cung, trở về cung Khánh Phương, Thần phi Nguyễn Thị Anh rất tức tối:

- Vậy ta công cốc sao? Mất bao công sức mà không làm gì được ả chết dẫm ấy sao? Sao nhà vua xử gì mà lạ vậy! Tội thân ta làm mệt thái tử, tốn bao công sức cùng tiền bạc! Gái này chẳng chịu để bị xử ức thế đâu! Nói rồi nàng xăm xăm đi tới điện Hội Anh là nơi nhà vua đang phê duyệt văn thư.

Quỳ trước mặt nhà vua, nàng nói trong tiếng khóc nấc vẻ oan ức:

- Xin thánh thượng làm chủ cho thiếp, con thiếp.

- Nàng đứng lên đi, và cũng nín đi, có gì từ từ nói. Một cung nhân lấy ghế cho phi ngồi. Ngồi trên ghế, nàng nói trong tiếng nấc ấm ức:

- Con thiếp bị người ta hại thập tử nhất sinh, may mà cứu được, tang chứng đã rành rành xin bệ hạ trừng phạt kẻ ác tâm, trả thù cho con thiếp.

- Khanh muốn ta xét xử thế nào đây? Tìm được hình nhân thế mạng và đạo bùa trong cung Khánh Phương nhưng ai dám chắc là do Tiệp dư làm? Hơn nữa, bây giờ vật chứng ấy cũng bị huỷ rồi, bảo ta lấy gì làm căn cứ mà xử? Ðầu óc ngu tối của các khanh không thấy hết mức nghiêm trọng của sự việc đâu. Tiếng là hại thái tử nhưng đây quả là âm mưu nhằm hại Ngô Tiệp dư cùng đứa con trong bụng nàng. Kẻ ác tâm định mượn tay trẫm làm cái việc thất đức ấy, tức kẻ loạn thần muốn bắt trẫm tự tay triệt hạ nòi giống máu mủ của mình. Cái mưu đại nghịch này chính là nhằm vào trẫm. Nhưng môi hở răng lạnh, vì thái tử cuối cùng cũng qua khỏi nên trẫm bỏ qua không truy cứu!

- Muôn tâu bệ hạ nhưng oan ức quá, oan ức quá, con thiếp.

- Khanh còn muốn truy cứu sao đây? Nhìn Thần phi với vẻ giận dữ, nhà vua cười mỉm, nói: Nếu truy cứu, trẫm sẽ bắt đầu bằng việc cho bắt gã đạo sĩ. Không biết từ đâu tới mà chuyện trong nhà trẫm y biết rõ như trong lòng bàn tay, cả cái tội y cố tình hủy tang vật vụ án, khanh bằng lòng không?

Nghe nhà vua nói, mặt Thần phi đang từ bừng bừng tức giận chuyện sang tím tái, tay run run. Nàng quỳ xuống:

- Muôn tâu thánh thượng, thần ngu muội không nhìn ra cao kiến của thiên nhan, xin người tha tội.

Ra khỏi điện, thần phi loạng choạng bước về cung, trống ngực đập hơn trống làng, vừa uất ức vừa sợ. Ðinh Phúc đi sau thấy lạ không dám hỏi.

Về cung, ngồi lả người trên ghế, cho đuổi hết người hầu ra ngoài, nàng nói với Ðinh Phúc:

- Nguy quá, suýt nữa thì ta tiêu mạng rồi. Hoàng thượng nói là không đủ chứng cứ nên không truy cứu còn ta nằng nặc đòi người trả thù cho thái tử. Ông có biết hoàng thượng nói sao không? Ngài bảo: nếu truy cứu thì trước hết phải bắt tên pháp sư, làm sao hắn biết việc trong cung như trong nhà hắn, thêm nữa, hắn có tội huỷ tang vật. Ông nghĩ xem? Nếu hoàng thượng làm như vậy thật thì chuyện gì sẽ xảy ra? Ta nghĩ, lời hoàng thượng vẫn còn như cái án treo đó. Vì vậy, trước hết, để tránh mối họa, ông phải bịt miệng gã pháp sư đi! Và tạm thời án binh bất động, đừng làm gì thêm cho rối chuyện. Nhưng nhớ rằng, thù này ta không quên!

***

Bọn người của cung Khánh Phương sau hơn nửa tháng bị giam giữ, ai cũng sợ mất vía, tưởng phen này không còn chỗ chôn. Chỉ cần chủ bị gán tội đại nghịch là hàng loạt người bị chết theo. Ðược thả về gặp lại nhau mọi người nước mắt ngắn nước mắt dài mừng khôn xiết kể. Ngô Tiệp dư tới điện Kinh Diên tạ ơn nhà vua. Nàng tới cổng, lính gác ngăn lại:

- Bẩm nương nương, hoàng thượng đang bàn chuyện cơ mật, không cho ai vào!

- Xin các người vào bẩm với hoàng thượng là ta xin vấn an người. Người lính gác đi vào, lát sau một công công bước ra:

- Nô tài kính chào nương nương. Hoàng thượng có khẩu dụ nói rằng người không muốn gặp nương nương. Những gì cần nói người đã nói trong khẩu dụ, vậy xin nương nương hồi cung.
Lủi thủi như chó bị cắt tai, nàng cúi đầu bước theo con đường mùa hè xanh rợp bóng cây, có hương sen ngan ngát.
Cung nữ Xuân Trang lặng lẽ đi sau.

Không được gặp mặt nhà vua, Ngô Tiệp dư lòng lo sợ vô hạn, nàng nghĩ rằng, tuy không truy cứu nhưng nhà vua vẫn nghi nàng ám hại thái tử, một cái án tử treo lơ lửng trên đầu mình. Một nỗi lo nữa cũng lớn không kém: kẻ nào hại mình đó, nay thấy mình yên lành trở về tất sẽ bày mưu khác. Mình ngoài sáng, họ trong tối làm sao mà đề phòng? Lo lắng, đau buồn khiến nàng bồn chồn ăn không ngon ngủ không yên. Xuân Trang nói với nàng:

- Nương nương đừng nghĩ nhiều hóa quẩn. Phải thấy được như vầy là may rồi. Em tưởng đầu lìa khỏi cổ, chị em phải gặp nhau dưới suối vàng. Nhưng hoàng thượng lại không bắt tội, nương nương được trở về như trước còn em cũng được hầu hạ nương nương là phúc lớn rồi . Nương nương hãy tĩnh trí lại, cố ăn uống, thuốc thang, không chỉ vì sức khỏe nương nương mà còn vì cái thai trong bụng người.

- Em nói phải, nhờ trời rồi tai qua nạn khỏi.

Nói là nói vậy nhưng trong lòng nàng vẫn nơm nớp lo.

Một buổi chiều, Xuân Trang chờ tới khi chỉ còn hai người trong phòng mới đưa cho Ngô thị phong thư niêm kín, phong bì không ghi người gửi cũng như người nhận. Cầm phong thư, nàng băn khoăn nỗi lo của con chim bị tên sợ cả cành cong, không biết lành hay dữ. "Ai đưa cho em?" nàng hỏi. "Một cung nữ trong cung Lễ nghi học sĩ kín đáo đưa cho em, bảo khi không có ai hãy đưa cho nương nương, dặn nương nương đọc xong phải đốt ngay." Nghe đến Lễ nghi học sĩ, nàng thấy bình tâm trở lại, mở thư đọc: "Qua sự việc vừa rồi, thấy nương nương ở lại trong cung không ổn, thần đã bàn với hoàng thượng đưa nương nương đi trốn. Sáng mai nương nuơng cho người thân tín mang tư trang quần áo thật nhẹ nhàng tới chỗ hẹn đưa cho người mang thư này. Xem xong đốt ngay." Ðốt lá thư xong, nàng ngồi thừ người ra suy nghĩ. "Ðúng như mình nghĩ. Trong cung bây giờ là miệng hùm hang sói không biết đâu mà lường. Trốn khỏi nơi đây là thượng sách. Nhưng một mình mình thân gái dặm trường lại bụng mang dạ chửa thì làm sao mà trốn? Có Lễ nghi học sĩ giúp cho thì yên tâm. Lâu nay, được nàng ưu ái dạy cho ngón đàn giọng hát rồi được nàng yêu thương, Ngô thị coi nàng như mẹ. Từ khi biết bà dan díu với hoàng thượng, nàng thực sự đau lòng, như bị mất đi một cái gì thiêng liêng. Không phải nàng ghen vì làm sao mà ghen trong cung với hàng trăm người con gái mà người nào thì cũng của nhà vua. Nhưng nàng muốn thấy bà trong hình ảnh đẹp, một người mười phân vẹn mười. Việc bà dan díu với nhà vua, có gì đó trái luân thường đạo lý. Bà còn lớn hơn tuổi mẹ hoàng thượng. Nàng không chịu được điều đó, nàng đau khổ thất vọng. Tuy vậy ở hoàn cảnh nàng, biết nói sao? Nhưng nay, trong cơn hoạn nạn này, nàng hiểu, chính bà đưa bàn tay cứu vớt mẹ con nàng. Ðêm hôm đó nàng cho tư trang vào trong cái tay nải nhỏ, sáng ra đưa cho Xuân Trang: "Em đem cái này đến chỗ gặp người hôm qua, đưa cho người ta. Phải kín đáo, đừng để ai biết!" Trở về, Xuân Trang nói với nàng: "Theo lời nương nương dặn, em đã trao tay nải cho người cung nữ hôm qua. Người đó dặn em nói lại với nương nương là vào giờ ngọ, nương nương ăn vận bình thường, đi một mình kín đáo đến cung Học sĩ, sẽ có người đón!" Y lời dặn, đầu giờ ngọ nàng ra khỏi cung, theo con đường liễu. Ði theo sau nàng là một cung nữ tin cẩn. Vừa tới cửa cung Học sĩ, liền có người đón dẫn nàng vào trong. Người cung nữ đi theo dừng lại nhìn xung quanh một lát rồi quay về.
Người cung nữ dẫn Ngô thị vào một phòng vắng, nói: xin nương nương ngồi đợi một lát, bà tôi sẽ tới ngay. Nói xong cô đi ra, khép cửa lại phía sau. Lát sau, từ chiếc cửa phía trái, Thị Lộ bước ra, nghiêng mình chào. Khi cả hai yên vị, người hầu gái bưng ra một khay trà. Thị Lộ rót nước mời khách, nói:

- Sự việc vừa qua rất nghiêm trọng. Mưu hại thái tử chẳng qua là cái cớ để hại mẹ con nương nương. Lần này nhờ từ tâm của hoàng thượng, nương nương tránh được tai nạn nhưng mưu hại chưa phải đã hết. Nếu còn ở trong cung, mối nguy sẽ khó lường, thần lĩnh ý thánh thượng, đưa nương nương lánh tới một nơi kín đáo. Nay thần thỉnh nương nương tới đây rồi chúng ta đi.

- Tiệp dư xin đội ơn. Thấy người cùng thánh thượng lo cho như vậy là kế vạn toàn, nếu không, mấy hôm nay trong cung ta cứ nơm nớp lo, đến héo hon! Tiệp dư sẽ nghe theo chỉ bảo của người.

Sang giờ mùi, Ngô thị lên kiệu từ trong nhà để kiệu. Kiệu được khênh ra sân, bà Lộ lên kiệu, xuất cung.

Ðến chùa Huy Văn, một vị hòa thượng đón họ tại cổng chùa, sau đó cổng được đóng lại, vị hòa thượng dẫn kiệu vào một góc khuất nẻo, sát bên một cái cửa. Thị Lộ xuống kiệu cùng với người đàn bà buông tấm vải màu nâu che kín người. Nhà sư dẫn hai người đi theo hành lang dài rồi ra khoảng vườn rộng. Ở cuối khu vườn, trên bờ hồ là ngôi nhà ngói nhỏ thanh tịnh sạch sẽ. Gian ngoài kê chiếc bàn đặt sẵn ấm trà. Nhà sư nói:

- Mời hai vị thí chủ an tọa, lát nữa hoà thượng trụ trì sẽ tới vấn an hai vị.

Theo lối đi vỉa gạch từ chùa xuống, vị hòa thượng già bước vào, chắp tay trước ngực:

- Nam mô a di đà Phật. Bần tăng xin kính chào nhị vị thí chủ. Hai người đứng dậy đáp lễ.

-Nam mô a di đà Phật, chúng tôi xin kính chào trụ trì.

Thị Lộ nói:

- Thưa nương nương, đây là thầy Viên Giác chủ trì chùa Huy Văn, người tin cẩn. Quay sang hòa thượng, nàng tiếp, thưa thầy, theo hẹn trước với thầy, nay tôi đưa nữ thí chủ đây tới nương bóng Phật, mong nhà chùa hết lòng giúp đỡ.

- Xin nhị vị thí chủ yên tâm. Chùa đây vốn là chỗ thân tình với quan Hành khiển. Bần tăng cũng được thư đại quan, nhờ lo việc trọng đại này. Về việc bảo mật, bần tăng xin lo chu tất. Chỉ muốn biết chỗ ở này có thuận tiện với các vị không?

Tiệp Dư nói:

- Thưa lão tăng, đương lúc khó mà được chỗ ở như thế này là may lắm rồi, chúng tôi không dám đòi hỏi gì hơn. Chúng tôi chỉ lo nhất là việc an ninh.

- Ðiều này xin thí chủ yên tâm. Hòa thượng nói. Họ nhìn ra sân, hai người được dẫn đến, đó là cung nữ Xuân Trang và một thái giám trong cung Lễ nghi học sĩ được cử đi chăm sóc Tiệp dư. Họ đi theo đường khác nên đến sau. Căn dặn hai người tâm phúc ở lại trông coi săn sóc Ngô Tiệp dư, Thị Lộ chia tay nàng rồi chào hòa thượng Viên Giác ra về. Chiếc lá bồ đề khô đậu nhẹ xuống sân chùa vắng teo.

***

Bước vào Ðông cung, hoạn quan Ðinh Thắng mặt tái mét, giọng lo lắng nói với Nguyễn phi:

- Bẩm nương nương, nô tài không tìm được người đạo sĩ hôm nọ. Nô tài đến chỗ cũ bên hồ Thiền Quang thì thấy đạo quán đóng cửa. Hỏi thì người xung quanh nói là thày trò đạo sĩ đi khỏi năm sáu ngày rồi. Họ không biết là đi đâu ạ.

- Vậy là khó rồi đó, tên đạo sĩ thấy động nên bỏ trốn. Nó trốn cũng là mối đe dọa không nhỏ!

Hai người đang rì rầm thì Ðinh Phúc bước vào:

- Bẩm nương nương, trong cung Khánh Phương có tin là Ngô thị vì sợ tội nên bỏ trốn rồi ạ!

- Bỏ trốn? Nguyễn phi hỏi lại.

- Dạ thưa, đúng vậy, y thị sợ tội bỏ trốn.

- Thôi được, trời cũng giúp ta một việc. Không khảo mà xưng, sợ tội bỏ trốn sẽ chẳng còn cơ hội trở lại. Phi quay lại nói với hai người:

- Hai ông vẫn phải lo hai việc ấy: tìm tung tích tên đạo sĩ cùng tung tích Ngô thị. Nếu gặp, tốt nhất là khử chúng đi. Ngô thị giờ đã là kẻ có tội đào tẩu, nếu có chuyện chi với thị, chắc hoàng thượng cũng không bắt tội đâu. Nhưng nhớ là phải làm cho thật gọn gàng, tránh để lại dấu vết.

…....... CÒN TIẾP




VVM.31.7.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .