Nguyên tác của Francisco Sionil José
Tác Giả: Francisco Sionil José sinh ra tại tỉnh Pangasinan. Cha mẹ ông là người thuộc bộ tộc Ilocano. Ông theo học tại Đại học Santo và sự nghiệp văn chương khởi đầu vào năm 1949. Tiểu thuyết của ông được xuất bản trên toàn thế giới và được dịch sang một số ngôn ngữ bao gồm cả tiếng Ilocano quê hương của ông. Ông đã tham gia vào các tổ chức văn hóa quốc tế, đặc biệt là thành lập ra Trung Tâm Văn Bút Philippines vào năm 1958.
F. Sionil José, tác giả được dịch nhiều nhất ở Philippines, năm cuốn tiểu thuyết kể về một trăm năm lịch sử của Philippines - một bộ phim tài liệu sống động về cuộc sống dân xứ này.
Năm 1980, ông nhận được Giải thưởng Ramon Magsaysay về Báo chí, Văn học và Nghệ thuật Truyền thông Sáng tạo.
Năm 2001, ông được vinh danh là Nghệ sĩ Quốc gia về Văn học.
Năm 2004, Sionil José nhận được Giải thưởng cao qúi “Một Trăm Năm Cho Một Nghệ Sĩ” (Pablo Neruda Centennial).
Câu chuyện Nàng Waywaya dưới đây đã được dựng thành phim năm 1982
TRƯỚC KHI VÀO TRUYỆN Bối cảnh lịch sử
Văn hóa bộ lạc Ilocano được thể hiện trong truyện ngắn này. Trong thời kỳ tiền Tây Ban Nha, trước năm 1521, các cuộc chiến tranh giữa các bộ lạc diễn ra sôi nổi. Phía tây được gọi là vùng đất của dân Taga Laud trong khi phía đông là Daya. Dayaw là con tù trưởng vùng đất Daya. Vùng đất này nằm về phía đông, nơi có biển. Một dòng sông hùng vĩ đã chia cắt toàn bộ khung cảnh thành hai vùng. Cư dân của hai vùng đất này, Dayas và Lauds, là kẻ thù truyền kiếp và một quy tắc được đặt ra là bất cứ ai vượt qua sông bị bắt sẽ bị giết ngay.
Datu Daya là một tù trưởng huyền thoại ở Kandaya, nơi mà ngày nay gọi là Cebu, Philippines. Theo truyền khẩu, Datu Daya là thủ lĩnh của người Malayan đầu tiên định cư ở phía bắc Cebu. Những người định cư mới phá rừng và thiết lập một cộng đồng địa phương. Bọn cướp biển Moro liên tục tấn công, đốt nhà cửa, giết dân, bắt cóc phụ nữ và trẻ em cho đến khi Datu Daya lãnh đạo dân chúng đánh đuổi quân cướp và ông được coi là vị cứu tinh, sau đó vùng này được mang tên ông.
Vào năm 13 tuổi, Dayaw đã theo toán thanh niên tới con sông này để người thày thuốc chuẩn bị một hỗn hợp kỳ lạ giữa thuốc lá và cỏ dại để chữa vết thương cho họ sau khi đã cắt bao quy đầu cho họ. Ngoài ra còn có một nghi lễ mà các chàng trai của bộ tộc phải trải qua để được công nhận là một người đàn ông là phải nhẩy qua một hố lửa. Đối với phụ nữ, tầng lớp xã hội trong bộ tộc biểu hiện qua quần áo và nữ trang đeo trên người. Có thể thấy rõ điều đó ở Waywaya khi Dayaw nhìn thấy cô lần đầu tiên. Nếu một người trong bộ lạc bắt giữ kẻ thù, phong tục sau đây sẽ xảy ra: “đầu tiên là lột đồ của cô ấy, dẫn cô đi quanh làng và làm nhục cô ấy.
Một bộ lạc cũng phải có một thủ lĩnh và đối với bộ tộc Daya, cha của Dayaw là t ù trưởng. Họ tin vào thần thánh, gọi là “Apo”. “O Apo Langit, O Apo Daga. Dân Ilocanos được biết đến qua các ngành công nghiệp thuốc lá, làm chum vại, làm mắm, rượu gạo, và dệt. Họ trao đổi với các thương nhân Trung Quốc lấy dao, chiêng, cồng chuỗi hạt và đĩa.
Khi Waywaya chết, Dayaw rời làng cùng em đến Laud để tôn vinh cô. Trước khi họ vào làng, người dân Laud đã xuất hiện từ khắp nơi. Có những tiếng than khóc và sự đau buồn phát ra từ các căn nhà. Văn hóa Ilocano thể hiện cuộc sống rất giản dị, và đã ảnh hưởng rất nhiều đến những sáng tác của F. Sionil Jose,
Waywaya, theo thổ ngữ Ilocano là “Tự Do”.
________________
L ần đầu tiên Dayaw bơi qua sông và mãn nguyện như đã vượt qua được thử thách lớn nhất. Không như việc nhảy qua hố lửa, việc này chứng tỏ cho cha là Ulo là nó không yếu đuối. Mặc dù có vẻ lười biếng và yêu thích thơ và ca hát, nó vẫn có can đảm như những dũng sĩ can đảm nhất của Daya. Cả cuộc đời nó bị nhốt như những con heo được vỗ béo trước khi mang ra giết thịt cho những đám tiệc,đám giỗ. Vùng Daya rộng lớn và bí ẩn được biển bao bọc ở phía đông, phía tây là con sông hùng vĩ. Phía ngoài xa hơn là rừng và núi, đó vùng đất của giống người Taga Laud, kẻ thù truyền kiếp của bộ tộc nó.
Nó vượt qua vào ban đêm sau khi bôi đen cả khuôn mặt và cơ thể của mình với muội than, không mang theo gì ngoài một cuộn dây thừng và con dao dài. Lần đầu tiên nó tới con sông này khi được mười ba tuổi cùng với một số thanh niên tuổi đôi mươi; họ đã đi suốt một ngày một đêm trong sự lo lắng và sợ hãi, vì không có ai bảo vệ họ ngoài những ông thầy thuốc già nua, teo tóp. Họ thực hiện cuộc hành trình hàng năm, phải ẩn náu khi bước vào khu rừng bên ngoài những cánh đồng canh tác vì kẻ thù có thể ẩn nấp ở đó. Họ không phải là chiến binh có thể bị bắt và bị đưa đến Laud làm nô lệ. Trong một ngày, họ đi bộ mà không ăn gì và đến sáng ngày hôm sau, khi đến gần con sông thì mệt lả. Chỉ có nỗi sợ bị bắt mới khiến họ cố gắng. Trên bờ cát, đằng sau những cây lau sậy cao đã ra hoa với những chùm màu trắng, họ xếp hàng, ngồi xổm trong khi người thày thuốc mài dao và chuẩn bị hỗn hợp thuốc bằng thuốc lá, lá cây và cỏ dại kỳ lạ hái trong vùng gần đó để chữa trị sau khi cắt da qui đầu cho họ.
Giờ đây đã vào đêm thứ ba và nó không còn lo sợ nhiều về sự nguy hiểm như lần đầu tiên. Nó chui vào hốc cây rồi quay trở lại. Biết rõ vùng này, trong ánh trăng mờ ảo, nó đi vòng qua các bậc thang trên núi, rồi xuống khu rừng rậm, mỗi lần như vậy lại đi theo con đường khác. Khi đến gần con sông, trời vẫn còn tối. Nó đã thỏa mãn cho sự tò mò của mình, nghe được những bài hát, những cuộc trò chuyện. Nó cũng xem những công việc thủ công, những cánh đồng trồng khoai lang lúa gạo, và ngạc nhiên với những món đồ thủ công thật đẹp của họ. Nó quay trở lại khúc sông nhỏ bị che khuất bởi một bức tường làm bằng những nhánh cây thấp. Bên trong là một cái hồ do một con suối đổ vào và xa hơn qua một cồn cát là một cây ngô đồng mà nó đã ngủ qua đêm.
Khi thức dậy, tiếng chim hót, tiếng khỉ kêu, mùi rong rêu và những sinh vật xanh tươi làm nó thật dễ chịu. Nó nằm ngửa bất động một lúc, nhìn chằm chằm vào bầu trời đầy mây. Bất chợt, một tiếng sột soạt bên phải làm nó chú ý nhìn ra, một cô gái xinh xắn như buổi sớm mai, tóc buộc lệch sang phía bên tai trái. Hình xâm một cánh hoa màu xanh da trời chạy dài từ cánh tay đến cổ tay. Cô ta quỳ xuống cạnh chiếc hồ và nhìn vào hình ảnh phản chiếu của mình, sau đó đứng dậy, cởi nút của chiếc váy bao tải màu xanh da trời để nó tuột xuống chân. Cô ấy đứng trần truồng, xinh đẹp, ngẩng lên bầu trời, hít không khí trong lành buổi sớm mai, khom lưng tháo đôi dép da rồi bước nhanh xuống nước, lúc đầu hơi run lên khi ngón chân chạm nước. Sau đó, cô ấy lao xuống, sải bơi ra xa rồi lặn sâu xuống làn nước trong vắt, bóng dáng uyển chuyển … một lúc sau thì nổi lên.
Dayaw quan sát, nó muốn biết liệu cô ta có bạn đồng hành hay không nhưng chỉ nghe thấy tiếng gió xào xạc trên cây, tiếng nước chảy róc rách của dòng sông chảy qua những tảng đá và vực sâu. Phía bờ bên kia nó dấu một lưỡi cày bằng sắt, một mảnh vải mới dệt, một mũi tên nhọn bằng sắt. Nó nghĩ bây giờ sẽ mang về nhà một nô lệ khỏe mạnh, trẻ trung và dễ nhìn. Với đôi dép, vòng tay bằng vàng, cô ấy không phải là một nông dân nghèo mà phải thuộc về lớp thượng lưu của Laud. Đầu óc lanh lợi c ủa nó nhanh chóng nghĩ ra một cách để có thể bắt được cô ta với sự chống đối ít nhất. Tưởng chừng như bơi mãi nhưng cuối cùng, cô ấy đã l ên bờ và đi về phía để quần áo. Dayaw lao ra và kẹp chặt cánh tay, kẹp một miếng vải quanh miệng cô. Cô ta cắn vào tay nó; cơn đau khiến nó phản ứng lại ngay lập tức. Nó xoay người cô lại và đấm một cú thật mạnh vào hàm cô. Với vẻ mặt sững sờ cô ta loạng choạng và ngã xuống về phía sau. Dayaw trói tay chân, bịt miệng rồi gom quần áo, đôi dép của cô, xóa dấu vết trên bãi cát. Vác cô trên vai, nó tiến ra sông. Bây giờ nó băng qua giữa thanh thiên bạch nhật; nếu họ truy đuổi, nó có thể vượt qua sông dễ dàng, và một khi đã ở trong khu rừng thuộc phần đất của bộ tộc mình, nó sẽ là người đàn ông dũng cảm.
Khi đã qua được bờ sông, nó đặt cô nằm trên bãi cỏ rồi trở lại dưới nước để rửa muội than trên mặt và cơ thể. Khi quay lại, cô ta đã hồi tỉnh đang co rúm người lại. Nó nhe răng cười:
- Này con mèo rừng nhỏ, cô nặng quá. Nhìn vào tay tôi này. - Nó dơ bàn tay đã bắt đầu sưng tấy ra, dấu răng của cô vẫn còn in sâu phía dưới ngón tay cái. Cô ta lắc đầu, họng phát ra những âm thanh tức giận rồi cố gắng cựa quậy nhưng khi nhận ra có vùng vẫy cũng vô ích nên không cử động nữa. Dưới ánh sáng mặt trời, cô ta xinh đẹp hơn so với lần đầu tiên nhìn thấy. Đó là một đặc điểm của phụ nữ Taga Laud, không giống như phụ nữ Daya có làn da sẫm màu hơn.
- Em có đôi mắt thật đẹp. Nếu em hứa không gây rắc rối thì tôi sẽ trả lại quần áo cho em. - Cô vội vàng gật đầu. – Chúng ta còn cả một chặng đường dài phía trước, một ngày đi bộ và tôi không muốn vác em trên vai. - Nó đỡ cô đứng dậy, cô ta nhỏ bé đứng không với tới vai, nó cởi dây trói tay chân. Cô ta duỗi tay và giậm chân rồi lấy chiếc váy mặc vào. Khi nhìn nó lần nữa, mắt cô hiện lên vẻ cầu xin.
- Đúng vậy, tôi sẽ đánh em nếu em không chịu nghe lời. - Nó nói và giơ nắm đấm lên.
Đến trưa, nó lấy bình nước, miếng thịt khô và chiếc bánh ra. Nó ăn ngấu nghiến và khi đã tạm no, nó đưa cho cô phần còn lại. Cô cũng đói và khát, nhưng từ chối Dayaw nhún vai:
- Nếu em không muốn ăn, thì đi với cái bụng đói.
Khi màn đêm buông xuống, cô vẫn chưa nói một lời nào. Hàm của cô đã bắt đầu sưng lên và nó tự hỏi có phải mình đánh cô quá mạnh đến mức lưỡi của cô bị đứt hay không. Trong ánh sáng mờ ảo, nó ôm mặt cô. Cô nhăn mặt.
- Mở miệng ra - Nó quát lên, nhưng cô từ chối. Nó trừng mắt nhìn cô và giơ nắm đấm lên. Chậm rãi, cô mở miệng. Không, lưỡi không bị đứt, hơi thở của cô ấm áp ngọt ngào như một đứa trẻ. Nhìn vào đôi mắt ủ rũ, vào miệng, vào mũi; vâng, bây giờ nó đã có một nô lệ đẹp, đẹp hơn bất kỳ phụ nữ nào mà nó biết, ngay cả Liwliwa, người đã ở cùng với nó nhiều đêm.
Họ đến được hẻm núi nơi có cây si mọc và vào thời điểm này trong năm, suối nước đã khô. Nó bảo cô ta tựa lưng vào một gốc cây rồi trói tay cô lại. Không phải là nó sợ phản bội; cô ta có thể bỏ chạy và bị bắt bởi một Taga Daya khác và nó sẽ mất tất cả. Cô có vẻ cam chịu và không thốt ra lời phản đối. Bóng đêm đến nhanh. Đom đóm bay lên từ đám cỏ cao. Các vì sao đã xuất hiện trên bầu trời; Nó mệt nhưng giấc ngủ đến chậm. Quay sang bên thấy cô ta đang dựa vào gốc cây, trong bóng tối yên tĩnh này, nó có thể nhìn rõ khuôn mặt cô. - Tên em là gì? - Không trả lời, nó nói tiếp - Tôi là Dayaw, con trai lớn của tủ trưởng Ulo. Em trai tôi, Parbangon. Cô có biết bài hát người Laud nào không? - Vẫn không trả lời. - Tôi thích hát. Tôi làm những bài hát cho riêng tôi. Nghe này: “Sông sâu nhưng chúng ta có thể vượt qua. Ai sẽ làm cây cầu? Có lẽ tình yêu sẽ làm được điều đó. Có lẽ thời gian sẽ chứng minh điều đó… - Nó dừng lại - Em có thích không? - Khuôn mặt trầm ngâm bất động, đôi mắt nhắm nghiền như đang suy tư. - Cô không thích âm nhạc à? Này cô ngốc ơi, em làm gì mà chỉ có một mình ở chỗ chiếc hồ đó và rất xa nhà nữa. Dù sao thì em cũng chỉ có một mình. – Nó ngừng lại, cười, - Tốt, chắc em cũng nghĩ tôi làm gì ở đó chứ gì. - Lại im lặng, làn gió nhẹ lướt qua đám cỏ heo may, bọn dế mèn trong bụi rậm thi nhau kêu inh ỏi. “Thần Apo Langit đã đưa tôi đến đó, đưa em đến đó. Chính Apo Langit đã biến em thành một nô lệ cho tôi.
Buổi sáng hôm sau, nó bị đánh thức vì cô ta đang đá vào người, không phải vì tức giận mà vì đau. Cô bị trượt chân, vẹo lưng không thể đứng dậy. Nó đứng dậy nhìn vào cổ tay cô: đã sưng lên. Nó định bụng sẽ dạy cho cô biết vâng lời để cô ta phải phục tùng, nhưng nét đau trên khuôn mặt khiến nó xúc động nên cởi dây trói buộc cổ tay. Cô vặn vẹo người. Tiếp theo, chân cô cũng được cởi trói. Cô đứng dậy và khập khiễng đi tới bụi cây gần rãnh nước định đi tiểu nhưng khi quay lại, nó đã đứng ở phía đằng sau. Cô nằm sấp trên bãi cỏ và thút thít khóc, một lúc sau nói:
- Tại sao anh không giết tôi và để tôi khỏi phải chịu đựng thêm nữa? - Đó là lần đầu tiên cô nói và dù bằng thổ ngữ của mình nhưng nó cũng hiểu. Nó lạnh lùng nói:
- Bây giờ em đang ở trong phần đất của chúng tôi, em là một kẻ bị bắt, một nô lệ và sẽ bị giết ngay nếu cô ý định chạy trốn. Em phải biết rằng cuộc sống của cô nằm trong tay chính em.
- Sau đó như một dũng sĩ, hắn ra lệnh: - Bây giờ lên đường.
Cô đứng dậy bước nhanh theo sau. Trước buổi trưa, họ đến rìa vùng đất Daya, những cánh đồng được chăm sóc kỹ đang chuẩn bị gieo hạt. Theo thông lệ, tên nô lệ mới bị bắt phải bị lột hết quần áo, diễu hành quanh làng để làm nhục. Vết sưng ở quai hàm của cô ta đã giảm chỉ còn là vết bầm đen. Cổ tay của cô ấy chảy máu khi sợi dây cắt. Nhưng nó không lột quần áo của cô mà chỉ buộc cổ tay nhưng lỏng lẻo, sau đó dắt cô vào trong làng. Khi tới gần nhà, phụ nữ, trẻ em và những người đàn ông không làm việc đồng áng hoặc ra bãi biển nhìn chằm chập vào hai người. Bọn trẻ xúm quanh cô, sờ soạng váy, sờ vào vòng tay và chế giễu. Đầu cô ngửng cao, nhìn thẳng về phía trước nhưng đôi mắt có nét sợ hãi và một hai lần bị vấp ngã.
- Dayaw, chiến lợi phẩm của anh đó phải không?
- Nó có biết nấu ăn không?
- Nó có biết dệt không?
Dayaw cười như chấp nhận lời chào của họ, hài lòng vì họ biết nó đã trở thành một dũng sĩ, tự hào vì họ đã nhìn rõ thấy nô lệ của mình cùng chiếc bao đựng tên mới, mảnh vải đeo trên vai, lưỡi cày dưới cánh tay. Nó phải đưa cô ấy nên đến thẳng nhà người cha là Ulo.
Tóc cô bóng mượt với dầu dừa, trong khi anh ngả lưng sau khi ăn xong, cô xoa bóp bắp tay bắp chân nó bằng dầu. Khi tỉnh dậy, nó chỉ nơi cô ngủ, một góc trong bếp, giữa những cái bẫy cá và nồi nấu ăn, nói với cô những công việc phải làm từ lúc mặt trời mọc cho đến lúc mặt trời lặn. Cô chăm chú lắng nghe. Những người phụ nữ đi ngang qua nhìn trộm, và những đứa trẻ hét lên với những lời tục tĩu với cô.
- Bây giờ có thê nói cho tôi biết tên cô là gì không? - Nó hỏi trong khi chuẩn bị đến thăm người cha là Ulo.
- Waywaya, - Cô nói, cúi đầu, thút thít khóc. Nó lại rất ghét khi thấy phụ nữ rơi nước mắt. Vào lúc này, Ulo đang ở trong nhà cộng đồng, khuyên bảo, giúp đỡ việc canh tác cho những người cần, phân bổ lúa giống cho vụ gieo trồng tới cũng như mảnh đất mới cần được cầy sới ra sao. Dayaw yêu cha mình, không bao giờ có ý tỏ ra bất tuân, nhưng qua nhiều năm, suy nghĩ nó đã thay đổi; Trong khi những thanh niên khác lắng nghe những lời khuyên của những người lớn tuổi, nó lại thấy buồn chán, tự mình đi vào rừng hoặc ra bãi biển. Nó không hề yếu đuối, nhưng trong khi những thanh niên khác luyện tập chiến đấu và chuẩn bị cho bước tiến vĩ đại để trở thành đàn ông nó lại miệt mài với cây đàn kutibeng sáng tác những bài hát mới. Khi đại lễ đến, nó cũng không quan tâm. Cái hố rộng được chất đầy cỏ khô và khúc gỗ biến thành ngọn lửa cháy hừng hực. Những thanh niên được xếp thành hàng sẽ trở thành những dũng sĩ, từng người một nhảy qua hố lửa. Họ đã luyện tập thành thục còn nó thì không. Rồi khi đến lượt, nó hoảng sợ vì nhận ra cái hố rộng hơn nó nghĩ. Nó vừa chạy vừa nhảy mà không sang được phía bên kia; bàn chân bị bỏng, những khinh miệt mà cha nó phải gánh chịu, nhưng nó lại không nghĩ về điều đó. Trải nghiệm cuối cùng là người dũng sĩ phải băng qua sông. Nó đã làm điều đó, ở vùng Laud trong suốt ba đêm liền và nó đã học được gì? Có phải dũng sĩ vùng Laud đều thiện chiến và hung dữ? Có phải họ luôn luôn muốn tiêu diệt dân vùng Daya cùng tất cả mọi thứ mà cha và người dân ở đây đã xây dựng? Đó là những gì cha đã nói với nó và tất cả thanh niên Taga Daya; Nó đã nghe điều này khi còn nhỏ, khi tập luyện và bây giờ nó còn nghe thấy họ nói Ulo đã bắt đầu già và tóc bắt đầu bạc. Dù sao đi nữa ông ta vẫn là Ulo, kho trí tuệ và sức mạnh cho đến khi có ai đó dũng cảm hơn, mạnh mẽ hơn và khôn ngoan hơn dẫn dắt đám thanh niên ra trận.
Ngôi nhà cộng đồng đã xuất hiện trước mắt, một công trình kiến trúc nguy nga cao như một cây tre, chiếc mái dốc bằng hai cánh tay, dày đến mức có thể tồn tại hàng trăm năm. Sàn nhà được làm bằng gỗ qúi từ thân cây trong rừng do trâu kéo về. Tre làm tường đã được ủ trong nước muối để côn trùng không thể sống được. Các cây cột nhà to hơn đùi một thanh niên cường tráng nhất trong làng là thân cây tốt nhất ở đây Phía trên những bức tường, ngay dưới mái hiên là những chiếc sọ của kẻ thù được sâu thành hàng bằng những thanh mây. Đợi cho đến khi mọi người đi hết, Ulo ra hiệu cho nó. Khuôn mặt cứng cỏi ngăm đen được bao phủ bởi vẻ u ám.
- Con có biết hôm nay con không trở về, ngày mai chúng ta sẽ phải cho người tới Laud tìm không?
Dayaw nói:
- Xin thứ lỗi cho con.
- Mà con đã đi được bao xa?
- Con đã qua sông, thưa Cha. - Nó muốn nói thêm nhưng kìm lại.
- Con đã làm được điều gì khác?
- Con muốn biết kẻ thù. . .
- Đó là một điều ngu ngốc khi đến đó một mình, không có ai phía sau. Và cô gái này. . .
Dayaw mỉm cười.
- Cô ấy là con mèo rừng nhưng con có thể dạy dỗ được. Con sẽ biết thêm về người Laud từ cô ta. Nhưng điều này con đã biết, họ cũng giống như chúng ta là muốn sống yên ổn thôi.
- Chúng ta cũng vậy - Ulo nói. - Nhưng thời gian thay đổi và chúng ta phải sẵn sàng cho cuộc chiến. Luôn luôn là như vậy. Nếu mình không chuẩn bị cho chiến tranh mà chỉ ca hát, ngâm thơ hay tự mình thực hiện một cuộc phiêu lưu. . .
Một lần nữa với những lời châm biếm Ulo không giấu giếm nữa, ông thất vọng vì đứa con trai lớn của mình, tài giỏi với giai điệu, khôn ngoan theo cách riêng của mình, không có bất kỳ cảm giác nào với chiến đấu, với chính trị, với mưu mẹo về cai trị. Ông đã lăn lộn trong nhiều năm nhưng sẽ truyền sự khôn ngoan và kinh nghiệm tích lũy này lại cho ai? Ông đã được thần rừng và thần biển dạy cho cách thống trị, chinh phục không những đất liền mà còn nhiều vùng bên ngoài Daya nữa. Khi Dayaw còn trẻ, nó nhìn Ulo với sự kính sợ; làm ông hài lòng khi biết rằng cha là một nhà lãnh tụ được tôn sùng và yêu mến, chính ông là người lãnh đạo các dũng sĩ và đã khiến người Daya đoàn kết chống lại kẻ thù mà họ phải lẩn tránh trong nhiều năm. Dần dần, nó cũng thấy quyền lực và lễ giáo đã tiêu hao Ulo, và không nằm ngoài tầm ngắm của những người thân và những kẻ tham vọng chung quanh. Nó không thể hiểu tại sao trong năm hạn hán, mẹ vẫn có thể đi đến tận nơi xa xôi Amianan, mang theo một đoàn tùy tùng cùng mật ong và gạo trên hai chiếc thuyền, khi trở về không có gì ngoài chuỗi hạt và nói về những bữa tiệc xa hoa khoản đãi bởi người giàu có và quyền lực mà bà đã gặp. Nó không thể hiểu làm thế nào mà người anh của mẹ sống trong nhàn rỗi trong khi mọi người đều làm việc, làm thế nào mà cha anh có thể giao ngũ cốc từ vựa lúa của làng cho những người ông yêu thích, những người chưa chiến đấu ở Laud bao giờ. Có lúc người dân cằn nhằn vì thiếu thực phẩm nhưng Ulo nói là đã mang lại cho họ sự bình yên, quyền được làm việc và sinh sống mà không còn có người Taga Laud xuống núi cướp bóc hay giết họ.
- Chiến tranh phải dừng lại, thưa Cha. - Nó nói khẽ.
- Con đã bắt người ta làm nô lệ. - Ulo rít lên - Có nghĩa là họ sẽ tìm cách trả thù.
Cha lại nói đúng và một lần nữa, nó bị lú lẫn không phải bởi trí thông minh mà bởi sự bốc đồng. Sau này nghĩ lại, nó thấy ma thuật về Waywaya không thể nào trừ được. nó đến không phải như một tia chớp mà chỉ là sự sợ hãi, khi biết rằng kiếp đọa dày do chính bản thân mình tạo ra. Xuống cầu thang gỗ đi vào sân cỏ rộng lớn; sự thôi thúc rời khỏi vùng đất Daya này lại đến. Nó thường nghĩ về điều đó nhưng dường đời sống đã cắm rễ vào mảnh đất này.
Khi về đến nhà thì trời đã chạng vạng và từ xa nó đã thấy Patbangon đang ở dưới chân cầu thang chơi đàn kutibeng. Thằng em có thể sẽ ở lại đây cả đêm với hàng loạt câu hỏi, nghe các bài hát mới của nó. Waywaya ở sau nhà, Liwliwa, người nô lệ thì chế nhạo và ghen tị với cô ta. Liwliwa nói:
- Waywaya không thể ở đây lâu vì cách sống và thái độ khác, tất cả là do cô ta đến từ Laud. - Những phụ nữ lớn tuổi cũng nhận xét như vậy, cô xa lạ với cách sống của người Daya.
Nhưng qua ít lâu sau, tất cả các nồi trong bếp đều sạch sẽ, củi được xếp gọn gang trên giá. Mái cỏ chỗ nào mỏng thì được vá lại. Waywaya hỏi liệu cô có thể dệt không, Dayaw lấy ra một chiếc khung dệt cũ mà bà ngoại để lại, có đủ bông và thuốc nhuộm thực vật, cô trộn theo cách khác với phụ nữ vùng Daya. Cô ta tạo ra loại thuốc nhuộm mới, sử dụng màu đỏ và đen chính của người Daya và may quần cho Parbangon, cho Dayaw và cuối cùng, một chiếc váy cho chính mình. Có nhiều đêm, Dayaw không ngủ trong nhà mà đi lang thang trong khu nhà chung dành cho những người chưa lập gia đình. Khi thời tiết đẹp, nó cùng Liwliwa đi tắm biển hoặc ra đồng. Khi trở về vào buổi sáng, thức ăn sáng đã sẵn sàng, những câu hỏi về việc đêm qua có ngủ ngon không, và tất nhiên cả Liwliwa nữa. Một lần, nó thức dậy trong đêm vì cổ họng khô rát, nó tìm đến vại nước để uống. Cô đã tỉnh và ngồi dậy. Trong bóng tối, nó đến bên cô và muốn ôm cô. Không có gì ngăn cản cả vì cô là tài sản của nó, nhưng khi nhớ lại sự bốc đồng của mình trong quá khứ nó lại lảo đảo bước về giường ngủ tiếp.
*
Sấm chớp! Sấm chớp! Đó là điềm báo hiệu một năm tốt; cây lúa cao lớn. Thần Apo Langit đã ban ơn cho dân làng, ruộng vườn tốt tươi, gia súc dồi dào. Vào lúc những cơn gió mùa đông bắt đầu thổi, những cánh đồng đều đã được dọn sạch sẽ, đàn dơi sải cánh về hướng “Mắt Hẹp”; họ mua thêm nhiều chai lọ và đĩa, chuông và cồng. Nô lệ được cấp quần áo mới, một số được thả tự do, nhưng họ quyết định ở lại để tham gia vào cộng đồng thịnh vượng của vùng Daya. Một năm tốt lành, nhưng không phải với Waywaya. Cô lên cơn sốt nặng trước mùa thu hoạch, Parbangon tới, nấu nước marunggay cho cô, nhưng cơn sốt càng trở nên tồi tệ. Dayaw cúng thần Apo Daga; Vừa e ngại vừa sợ hãi, nó đặt bát cơm với trứng luộc vào góc nhà nơi cô ngủ. Cơn sốt không thuyên giảm cho đến vài ngày sau cô ấy mới đứng dậy được nhưng vẫn còn yếu. Cô rất thân thiện, mỉm cười với tất cả mọi người. Đối với bạn của Dayaw, cô ấy thể hiện sự vâng lời và tôn trọng. Tuy rằng cô chưa từng nói về thân phận mình là cao quý, nhưng tại sao hôm đó nàng lại đi xuống sông? Cô nói rằng vì tính tò mò, cô muốn băng qua con sông và giá như cô có thể chạy nhanh như một con nai thì sẽ lên núi ngắm nhìn tạo vật trải rộng trước mắt, như những khu rừng, đồng bằng và xa hơn nữa là con sông đổ ra biển.
Rồi nó cũng đưa cô đến đó vào một đêm biển động, một đêm trời không có sao. Lúc đầu cô rất sợ nhưng nó nắm tay cô. Họ cùng nhau vượt con sóng cho đến khi đến nơi yên tĩnh nước chỉ đến vai. Nó nghĩ là có thể xoa dịu nỗi cô đơn của cô nếu nó giải thích, mặc dù không cần phải làm vậy.
- Những gì em làm khiến mọi người nhớ tới em, không phải em là cái gì. . . . - Nó nói với cô. Trong bóng tối dịu êm, đôi mắt cô sáng lên, nụ cười biết ơn.
- Đừng nghĩ ngợi. em có thể ở bất cứ nơi nào, ngay cả có thể vượt biển mặc dù em không biết ở đó là gì. . . .
Dayaw nói:
- Nhưng điều khó nhất mà chúng ta không bao giờ có thể đi tới được, đó là tâm hồn người khác.
**
Thân hình cô ngày càng trở nên gầy yếu, vào một buổi chiều vào tháng mà những cơn mưa lại ập đến, Dayaw đến khi cô dệt vải, con thoi bất động trên tay cô. Nước mắt cô lăn dài trên má. Tim của Dayaw quặn đau bởi sự thương hại và lòng trắc ẩn. Buổi sáng đó, nó chuẩn bị cho chuyến đi dài: thịt khô, cơm nấu nước cốt dừa, muối, đường và những ống đựng nước. Nó bảo cô thu dọn đồ đạc, thực ra không có gì ngoài chiếc váy cũ, đôi dép da trâu đã sờn và mảnh vải dài mà cô đã dệt. Họ rời khỏi Daya trước khi ánh sáng ló dạng và đến chiều tối hôm sau thì tới gần con sông.
Suốt đêm qua nó trầm tư ít nói, giờ nhìn cô lặng lẽ đi phía sau, một nỗi buồn tràn ngập trong lòng. Nó đưa cô trở lại và nó muốn đi càng xa càng tốt, cùng qua sông với cô, vì vậy phải đợi cho trời tối, cho đến khi những vì sao hiện rõ trên bầu trời. Một lần, cô trượt chân vì một tảng đá rêu, nó đưa tay ra nắm chặt lấy cô. Họ đã đến khúc quanh rồi đi đến bên hồ nơi nó tìm thấy cô. Sau khi ăn xong, cô đặt mảnh vải trên cát và họ nằm xuống. Nó ngủ một cách dễ dàng và ngay khi tia sáng đầu ngày xuất hiện, tỉnh dậy nó vẫn thấy cô đang nằm bên cạnh. Nó quan sát kỹ, bầu ngực nhô lên, đôi môi hé mở, đôi mắt nhắm nghiền. Rồi cô ấy cựa quậy.
- Tôi nghĩ là em đã bỏ đi rồi. Tôi muốn em trở về nhà em. Em biết tại sao chúng mình lại tới đây không? Tôi đã gây đau khổ cho em. Tôi đã không làm đúng ngay từ đầu, tôi biết điều đó là sai.
Nó đứng dậy, lấy con dao bên mình và đưa cho cô.
– Bây giờ em có thể trả thù.
Đôi mắt cô ấy mở to vì kinh ngạc. Cô ta khuỵu gối, ôm lấy chân nó rồi hôn.
- Dayaw, em thuộc về anh - Cô thì thầm.
**
Đó là khởi đầu cho cuộc sống mới.
Trở lại Daya vào những buổi sáng khi sương còn lấp lánh trên cỏ và những ngọn lửa nấu nướng trong làng đang tỏa ra những làn khói xám phía trên những ngôi nhà. Từ đó cô lặng lẽ bên nó, chờ đợi mọi ý thích bất chợt của nó. Lần đầu tiêncô công khai cùng nó đi đốn củi trong rừng để dành trong mùa mưa. Một bó nặng trên đầu cô và một gánh làm bằng một cây sào vắt qua vai nó. Trời nắng ấm và những hạt mồ hôi lấm tấm trên gáy cô như ngọc trai. Họ chuẩn bị đi vào khu đất trống. Nó ấy mệt nên để gánh củi xuống và giúp cô hạ bó củi trên đầu xuống. Ở bên cạnh nó ngửi thấy cơ thể ấm áp của cô, mái tóc của cô. Nó kéo cô đến dưới bóng của một cây đại thụ; cô bắt gặp ánh nhìn của nó mà không sợ hãi như thể cô ấy cũng đã mong đợi khoảnh khắc này. Cô ấy thả chiếc váy của mình xuống, đứng trước mặt nó như khi nó thấy cô ấy lần đầu tiên, nhưng bây giờ không lo lắng, không sợ hãi. Cô không có nhiều kinh nghiệm như Liwliwa, nhưng lúc này nó ấy chỉ biết nhu cầu của mình, ngọn lửa phải được dập tắt. Mặt trời lọc qua những chiếc lá phía trên. Cô nằm bên cạnh bất động, nó nói trong khi bàn tay anh vuốt ve chiếc bụng phẳng mịn của cô.
- Hy vọng anh đã không làm tổn thương em,
- Lần sau sẽ tốt hơn, - cô nói - Em xin lỗi vì em không biết nhiều để làm hài lòng anh. Anh sẽ dạy em nhé.
Cô vẫn ngủ trong bếp trừ những đêm anh gọi cô vào, nhưng sau hai tháng, Dayaw cấm cô ngủ ở đó nữa. Buổi sáng hôm đó, trước khi những người đàn ông ra đồng hoặc ra khơi, nó mặc chiếc áo choàng mà cô đã dệt và cô mặc chiếc váy Laud cũ, trên đầu đội một vòng hoa kalachuchi mà Parbangon kết cho. Họ bước xuống sân, rạng ngời hạnh phúc. Parbangon đi phía trước, thổi chiếc kèn sừng trâu cùng những tiếng nổ chói tai vang vọng trong buổi sáng yên tĩnh. Họ dắt tay nhau đi đến điểm xa nhất của làng, sát biển, mọi người nhìn ra cửa sổ hoặc dừng lại trong sân để xem. Các chàng trai mỉm cười, nhưng không một cô gái nào chào đón họ. Liwliwa nguyền rủa họ. Cuộc tuần hành quanh làng kết thúc tại nhà người cha bên cạnh hội trường cộng đồng. Ulo bước ra, mặt đờ đẫn và với một cái phẩy tay, ông ta ra hiệu cho thằng con trai ngưng thổi kèn. Lắc đầu, ông nói với đứa con:
- Dayaw, con sẽ không bao giờ là tù trưởng nữa
- Nhưng con có hạnh phúc, thưa cha, - Dayaw nói, nhìn thẳng vào cha mình . Trong nhà, mẹ anh đang đợi; bà chia sẻ nỗi buồn của chồng và tự hỏi việc khủng khiếp nào đã khiến thần Apo Langit không hài lòng. Và buổi tối hôm đó, khi Waywaya đem món cơm và nước cốt dừa tới, bà nhận cả hai, nhưng trước sự chứng kiến của con dâu, bà đổ những cái chậu đựng thức ăn xuống hố nhốt những con heo. Hận thù, đây là thứ tình cảm mạnh mẽ duy nhất gắn kết mọi người lại với nhau. Dayaw biết chính sự căm ghét đã khiến người Taga Daya coi Waywaya và bây giờ tới nó là kẻ thù. Cảm giác này bắt đầu như thế nào? Đó là trong nỗi sợ hãi và bất an của người dân trong làng và ngay Ulo là người biết lợi dụng lòng căm thù này. Chính ông ta, gia đình ông ta và những người thân, bạn bè của gia đình ông là những người được hưởng lợi từ lòng thù hận mà ra. Hiểu được điều này, Dayaw tự hỏi nếu chạy trốn vào rừng sâu, tưởng tượng khởi nghiệp, khai khẩn đất đai bằng tay không, trồng cây trên một mảnh đất hoang dã sẽ không dễ dàng. Công việc lao động sẽ rất khó nhọc và phải cảnh giác liên tục. Làm thế nào để trông chừng cánh đồng, bảo vệ khỏi heo rừng, hươu và chuột xâm nhập - và không có hàng rào nào ngăn đ ược lũ trâu rừng và khi hạt lúa chín, các loài chim đến phá hoại. Đơn giản biết bao nếu ở lại và nương theo nhịp sống hàng ngày mà cha anh đã tạo dựng. Ở đây có một cộng đồng trật tự, cùng chung một mục đích, đảm bảo cho mọi người không chỉ về vị trí mà còn về số phận nữa. Còn tại những vùng đất khác thì sao? Hận thù và bất công ở khắp mọi nơi và chính nó đã góp phần vào sự bất công này. Hãy nhìn những gì bạn đã làm với Waywaya: bạn không yêu cô ấy mà chỉ sở hữu cô ấy thôi. Bạn có tội như cha bạn, như những chiến binh của bạn, những người đã phục kích và giết những người Taga Laud đó.
Vào những buổi tối, khi trong khi nó gảy đàn kutibeng và hát những lời buồn bã. Waywaya đã hiểu. Cô hỏi:
- Sao anh không vui?
- Bởi vì em là …
- Em luôn luôn thấy hạnh phúc bên anh
- Nếu không còn anh bên em nữa?
- Thì em sẽ sống một mình.
Nó lắc đầu. Nó đã quyết định, sẽ nói chuyện với Ulo một lần nữa, tìm cách cho người cha chấp nhận tình trạng này. Nó suy nghĩ những gì sẽ nói. Công cụ của chúng ta làm bằng những chiếc sọ của kẻ thù, chúng không tạo ra bóng ma nào để quấy phá mình, không làm phiền giấc ngủ của mình. Chiến tranh đã mang lại cho chúng ta điều gì? Phụ nữ khóc khi họ nhớ đến chồng con bị giết. Bao nhiêu máu đã được đổ ra? Nó không được sử dụng để tưới cây, làm dịu cơn khát hoặc rửa sạch chất bẩn trên cơ thể chúng ta. Và thịt của kẻ thù không làm cho no bụng, hoặc làm cho đất đai phì nhiêu thêm.
Họ chậm rãi đi trên bãi biển, những con sóng lấp lánh ánh trăng, Đó là một đêm yên tĩnh xen vào đó là tiếng trẻ con nô đùa, tiếng chó hú; mùa gieo trồng sẽ sớm bắt đầu. Vẫn không có sự báo thù từ Laud, vẫn không có vết rách trong nền hòa bình tốt đẹp. Ulo nói:
- Họ sợ hãi. Họ không thể xuyên thủng bức tường quyết tâm của chúng ta. Và nếu họ đến, liệu có đủ nhanh để chạy trốn để thoát khỏi những con chó săn của chúng ta không? Con có biết tại sao chúng ta mạnh không?
Dayaw nhìn chằm chằm vào những con sóng đang vỡ tung trên mặt biển với tiếng rì rào, hắn nói:
- Thiên nhiên đã đứng về phía chúng ta, thưa Cha.
- Không phải chỉ có thiên nhiên - Ulo tỏ ra hào hứng
- Chúng ta học hỏi từ quá khứ nên không lập lại những sai lầm nữa. Đó cũng là truyền thống.
- Quá khứ cũng có thể là một nhà tù, thưa Cha. Cha luôn nhìn về quá khứ mà không nhìn về hiện tại truớc mặt. Cha có biết rằng phía bên kia sông người ta không còn nấu ăn bằng nồi đất nữa mà bằng nồi đồng không? ” Họ có lò nung tốt hơn của chúng ta, không phải để làm nồi nấu ăn mà nấu chẩy kim loại. Và họ có sáp ong và thuốc nhuộm núi. Cây gỗ qúi. Và giáo của họ ...
- Giáo bằng tre của chúng ta nhẹ hơn, dễ ném hơn.
- Mũi giáo nhọn của họ tốt hơn.
- Chúng ta chiến đấu theo nhóm, chúng ta ăn cơm - không ăn khoai sắn như họ.
- Họ cũng có lúa ở vùng thấp, và họ sử dụng nước từ suối ...” Ulo im lặng. Dayaw vẫn tiếp tục nói
- Chúng ta phải thay đổi, thưa Cha. Để hiện tại hoá, chúng ta phải thay đổi ...
- Đó là quy luật của cuộc sống,- Ulo nói. Con không nói với cha điều gì mới cả.
- Thay đổi, không phải là chiến tranh.
- Chiến tranh là một phần của sự thay đổi. Tuy con ghét nó, nhưng do chiến tranh mà chúng ta đã trở nên thịnh vượng. Ch úng ta làm việc chăm chỉ… - Và hạt giống của chúng ta tốt nhất trong vùng. Những con trâu nước của chúng ta khỏe nhất. Chúng ta đã sử dụng kiến thức của mình để lai tạo, không chỉ thực vật, mà còn cả động vật nữa...
- Còn con người?
- Đừng nói như vậy với cha.
- Cha muốn Liwliwa làm vợ của con à.
- Cha của cô ấy đầy quyền lực và ..
- Kiểu quyền năng của ông ngoại…
- Đúng vậy, mọi việc chúng ta làm nên nghĩ về bộ tộc Daya, cho sự đoàn kết của chúng ta, sự tiến bộ của chúng ta… Ngay cả sự nhàn rỗi của chúng ta. Nghề dệt của chúng ta, đồ gốm của chúng ta ...
- Taga Laud làm tốt hơn…
- Đó không phải là bài kiểm tra. Một dân tộc sống sót không phải nhờ vào những chiếc bình của họ. Nó tồn tại, trường tồn bởi vì nó có một ý chí ...
- Ai là người cung cấp ý chí, thưa Cha? Các nhà lãnh đạo à?
- Đúng!
- Mọi người, thưa cha. Và ý chí đó đến khi họ có những thứ mà họ có thể tự hào. Không chỉ lúa giống, trâu nước của họ. Người Taga Laud có cái cày bằng sắt. Chúng ta cần kim loại của họ và họ lại cần muối, cá, sợi và dầu của chúng ta ...
- Tính tự lập. Kỷ luật. Đó là tất cả những gì chúng ta cần. -Ulo nói - Suốt hai mươi năm qua cha cũng đã làm cho Dayna có các kênh mới. Và hãy nhìn vào ngôi nhà cộng đồng mà mẹ con đã xây dựng. Nó uy nghi đẹp đẽ làm sao.
- Và nó được trang trí bằng hộp sọ của kẻ thù. - Ulo phớt lờ lời nhận xét.
- Bà ấy đã giúp đỡ những người thợ dệt, bán dùm những gì họ làm ra, cải tiến thiết kế của họ. Và những người thợ chạm khắc. Đã bao giờ hàng thủ công được khuyến khích như vậy chưa? Chúng ta không còn trông chờ gì nữa vào những chiếc bát, đĩa từ phía bên kia biển. Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ có lò chế tạo ra những chiếc đĩa đẹp đẽ như vậy ...
- Nhưng chúng ta lại không có loại đất sét tốt.
- Thì mình sê đi tới nơi nào có loại đó mang về. Chúng ta sẽ mở rộng giới hạn về buôn bán và lãnh thổ.
Trước kia hắn đã nghe và bây giờ lại nghe lại. Nhưng sự thật là gì? Dayaw đã tự hỏi nhiều lần nhưng không thể tìm ra câu trả lời ngoại trừ việc hắn tin vào những gì nó cảm nhận được. Nhìn thấy mặt trời mọc, gió mát trong rặng tre, mùi gạo mới, tiếng nổ lách tách trong đống lửa khiến nó vui sướng. Và bây giờ là mùi hương của mái tóc, sự ấm áp và mềm mại trong con người Waywaya, và nó sẽ không phải là một tù trưởng nếu lấy cô làm vợ.
- Parbangon đang lớn như măng vậy, thưa cha - Dayaw nói, cố đánh lạc hướng suy nghĩ của ông.
- Nó cũng đang theo đuổi con đường của con đó.
- Nó cũng phải biết thơ và nhạc. Nó sẽ là một người đàn ông toàn hảo. Nó sẽ là người lãnh đạo tài ba cha à, nó làm được những gì con không thể làm được. Nhưng ít nhất đối với Waywaya, cha có thể đối xử tốt với cô ấy.
- Nó là giống người Taga Laud, - Ulo buồn bã nói.
- Cô ấy là vợ con. Và đứa con của cô ấy … đứa con của chúng con sẽ mang dòng máu của cha, thưa Cha!
Dayaw quan sát cô qua các giai đoạn mang thai, trong ba tháng đầu cô thèm cam, và thịt gà, nhưng chỉ có người Taga Laud biết cách nấu, khi nấu chín máu đông lại với thịt, vì vậy cô chẳng có gì ăn. Cô trở nên tiều tụy. Nó lo lắng cho sức khỏe của cô; cho cô uống sữa trâu, nhiều cá và lá marunggay. Nó ngạc nhiên về sự kỳ diệu về đời sống trong bụng cô. Với đôi mắt long lanh, cô nói ước mong sâu kín nhất của cô là đứa con sẽ mang lại niềm hạnh phúc lớn nhất cho nó chứ không phải vì cô mà nó phải u sầu.
Nhưng tại sao cô phải chết? Hỡi thần Apo Langit, hỡi thần Apo Daga - các vị sắp đặt dòng thời gian và vận mệnh của con người, vậy thì cô ấy đã làm sai điều gì? Nó thấy cô xuất huyết mà không làm gì được, không có người thày thuốc nào đến.
- Waywaya, Em sinh con trai! Nó vừa ôm thằng bé đưa đến trước mặt cô vừa khóc. Cô nhìn nó mỉm cười, rồi từ từ nhắm mắt lại.
Không một lời than khóc, Parbangon hiểu là Waywaya không còn nữa. Căn nhà vắng lặng do thần chết ngự trị. Dayaw cẩn thận lau chùi cho cô rồi lựa bộ quần áo Taga Laud mà lần đầu tiên nó gặp mặc cho cô. Nó hôn lên đôi môi rồi bồng thằng bé đến nhà người cha.
- Mẹ có một cháu trai, thưa Mẹ, - Nó nói khi thấy bà đứng ở cầu thang. - Người nô lệ mà tất cả mọi người khinh miệt không còn ở với chúng ta nữa.
Dấu vết nhan sắc vẫn còn nguyên trên gương mặt bà.
- Không phải là lỗi của mẹ, con ạ. Đó là số phận.
- Con không đổ lỗi cho bất cứ ai. - Dayaw nói. - Thậm chí ngay cả số phận. Nhưng mẹ hãy hứa với con, hãy nuôi dạy con trai của con là phải yêu mẹ nó như con đã luôn yêu mẹ.
- Tại sao con nói điều này?
- Con có nhiệm vụ phải làm, thưa Mẹ. Con sẽ không ở đây để nhìn nó lớn lên…
Những gì nó đang nói làm bà choáng váng. Bà hét lên ngạc nhiên và đau buồn khiến Ulo từ trong nhà phải chạy ra.
- Ngăn nó lại. Nó không cần phải làm như vậy.
- Chuyện ngu ngốc gì thế này - Người cha hỏi. -Có phải con giận cha không? Bất kể điều gì cha đã làm vì con là giọt máu của cha.
- Con không tìm kiếm danh dự, thưa Cha.
- Con đã thể hiện điều đó rồi. Nhưng bây giờ, cha muốn con phải sống, bất kể lỗi lầm, bất kể điểm yếu của con.
- Truyền thống, thưa Cha. Chúng ta phải sống theo nó. Cha đã nói như vậy. Con cũng tin vào truyền thống. Điều này cha chưa bao giờ hiểu. Có những truyền thống mà chúng ta phải đề cao bởi vì chúng không chỉ dành cho mình mà còn cho tất cả mọi người…
Ulo im lặng.
- Đã bao nhiêu năm tháng trôi qua mà cô ấy không được một vinh dự nào, nhưng con có thể tôn vinh cô ấy ngay bây giờ.
- Vậy thì hãy sống với sự nhục nhã! - Ulo hét vào mặt nó.
– Con sẽ làm. Ngay từ bây giờ.
Nó tiến về phía trước và ôm lấy ông, nước mắt dàn dụa,
- Con ơi, con trai tôi ơi. - Ulo thì thầm. Dayaw cảm thấy vòng tay của cha mình siết chặt. Đó là lần cuối cùng họ ôm nhau.
Parbangon đã bắt đầu xây nhà của riêng cho mình.
- Cô ấy nhẹ - Dayaw nói khi nhớ lại cách nó đã đưa Waywaya qua sông. - Anh có thể buộc vào lưng rồi leo dốc được, còn em thì không khỏe như vậy.
Parbangon lắc đầu.
- Không, đó không phải là lý do. Anh lo cho em. Chị ấy là chị dâu của em, nấu ăn cho em, dệt vải, may quần áo cho em. Em chưa làm bất cứ điều gì cho chị ấy. Hãy để em tôn vinh chị ấy.
Dayaw quấn Waywaya trong chiếc mền mà cô ấy đã dệt, màu đỏ tươi với những hình ảnh mặt trăng, núi và xuyên qua là thân cây tre. Trên hai đầu là những vòng hoa kalachuchi mà Parbangon đã làm. Họ tới bờ sông vào buổi chiều hôm sau, họ nghỉ ngơi ăn uống, Dayaw ngạc nhiên trước sức mạnh của cậu bé. Họ tháo dép lội qua những bãi cạn, bước qua những tảng đá rêu phong, cẩn thận để chiếc gánh quý giá không đụng nước. Vẫn còn quá sáng khi họ đến bờ bên kia và đi theo khúc quanh đến chiếc hồ nơi anh nhìn thấy cô lần đầu tiên. Thật yên bình, trong một thoáng, nó nhìn thấy cô khoan thai bên bờ hồ, một cơn đau buốt làm tim nó quặn lại.
***
Tới chiều tối thì đến làng người Laud; họ đã bị theo dõi ngay từ khi đến gần rìa làng và bây giờ, kẻ thù xuất hiện từ khắp nơi, phụ nữ, trẻ em và đàn ông, họ nhìn hai anh em với sự tò mò hơn là căm thù.
Nó biết nơi nào cần tới; nó đã nghiên cứu nơi này rất kỹ và Waywaya đã kể rõ cho nó nghe từng chi tiết nhỏ. Một số phụ nữ đã gặp họ trước khi họ đến bãi đất trống trước nhà cộng đồng, họ bắt đầu khóc, người chị, người bạn không còn nữa, nước mắt làm mắt nó mờ đi. Qua màn sương mờ ảo, nó có thể nhìn thấy cấu trúc trước mặt, những chiếc cột nhà thật cao với những đường chạm trổ tinh xảo, những thanh xà nhô ra treo những chiếc sọ người bộ tộc nó.
Cánh cửa lớn của hội trường cộng đồng mở ra, đi xuống bậc thang lớn là thủ lĩnh của bộ tộc Laud mà Dayaw nghi là cha nàng, Dayaw hạ Waywaya xuống bệ gỗ nơi các lễ vật được bầy ra. Ông ta đặt tay lên vai Dayaw với một giọng run run:
- Đã hai mùa thu hoạch qua rồi, chúng tôi nhớ nó…
Sau đó, ông ra hiệu cho một phụ nữ lớn tuổi, ông ấy nói
- Hãy nhìn viên ngọc của bà đi!
Bóng tối ập đến cùng với tiếng chim và những làn gió núi. Nó ngồi với vị tù trưởng già ở vị trí danh dự, các dũng sĩ Laud với khiên và rìu sáng bóng giơ tay chào. Sau đó là tiếng trống, cồng, chiêng bắt đầu vang lên. Có phải đó là hồi chiêng báo tử của nó không đây?
Xung quanh họ là những ngọn đuốc bằng nhựa thông lớn tỏa ra ánh sáng đỏ rực vào đám đông; Đã đến lúc làm nghi lễ cuối cùng và họ đứng lên, chỉ có nó và gia đình cô làm thành một đám rước nhỏ đi đến sườn núi, nơi đã đào sẵn một cái hố. Họ để nó đẩy chiếc quan tài của cô xuống, một tảng đá chắn trên nơi chôn cất và phủ đất lên. Mẹ của Waywaya đã trồng một vài cây hoa, chúng sẽ lớn lên, cao và có màu màu tím. Nó là một dũng sĩ Taga Daya, phải chứng tỏ cho họ thấy mình có thể dẹp bỏ mọi cảm xúc, nhưng nước mắt chảy dài trên má và bật khóc. Tù trưởng choàng tay qua vai rồi dìu nó trở về.
Tiếng cồng, tiếng trống lúc này lớn át cả kêu của những con heo đang bị giết. Họ đi lên đại sảnh, sàn nhà bằng gỗ trơn, với những ngọn đèn sắt rực sáng treo trên mái nhà.
- Tôi đã hỏi cha tôi.- Dayaw nói, - Họ sẽ không vượt sông nữa, nếu họ làm vậy thì đó chỉ là những món quà tặng. Tôi mong ngài cũng làm như vậy. Đây là những gì Waywaya muốn. . .
Vị tù trưởng già ngồi xổm trên tấm thảm nhưng không trả lời; ánh mắt ông nhìn qua khỏi đống lửa bên ngoài cánh cửa rộng mở, lúc này đang hừng hực, thắp sáng cả bầu trời cao vời vợi. Trong bức tranh thêu màu vàng của ngọn lửa, dường như đôi mắt ông mơ màng, cuối cùng ông nói, lời nói rất chậm và chúng mang lại cảm giác tuyệt vời.
- Có điều gì đó về một cây cổ thụ, nó không còn mọc thêm ra được nữa nhưng mà cũng rất khó hạ nó xuống được. Rễ của nó rất sâu mặc dù nó không thể hút được thức ăn từ trái đất nữa. Có lẽ phải để những cây mới phát triển.
Nó ăn ít còn Parbangon không ăn gì vì đang ngủ mê mệt. Đã muộn và phải nghỉ ngơi nên họ để nó ngủ phía trong. Tiệc tùng, nhẩy múa tiếp tục bên ngoài. Nó ngủ say cho đến sáng, Đó là thời điểm yên tĩnh và thanh bình khi chỉ có một chút màu tím xuất hiện ở phương đông và những ngôi sao dính trên bầu trời như những viên đá quý. Giờ đây, những suy nghĩ lại dồn dập hiện trong tâm trí. Nó hối hận vì đã không tử tế với cô ấy. Nó nghĩ đến mái tóc đen bóng mượt, khuôn mặt thanh tú, đôi mắt sáng, đôi môi mềm mại, hình ảnh cô sống động như đang thở, đang chạm vào người nó, đang nấu nướng trong bếp, chuẩn bị bữa ăn. Và đứa bé, phải con trai của họ, nó sẽ ra sao khi trở thành một người đàn ông? Và Parbangon, liệu họ có bắt nó làm nô lệ không? Họ đối xử với nó như thế nào đây? Nó đã được huấn luyện để không sợ chết và mặc dù đã nghĩ đến việc chiến đấu, nhưng bây giờ không có ý nghĩa gì nữa.
Tù trưởng già đã đứng ở cửa, Dayaw liếc nhìn Parbangon vẫn còn đang ngủ.
- Đừng đánh thức nó, - Tù trưởng nó khẽ. - Nó cần nghỉ ngơi; chúng tôi sẽ đưa nó trở lại sông.
Một nỗi vui sướng tràn ngập tâm hồn. Họ đi xuống bãi đất rộng rãi nơi một số dũng sĩ đã tập trung. Vị tù trưởng già choàng tay qua vai nó thì thầm:
- Chồng của con gái tôi- con trai à.
- Cha của con - cha ơi, - Nó đáp lại rồi ôm ông nói lời từ biệt. Mọi thứ giờ đây thật rõ ràng - những ngôi nhà tre lợp cỏ, những chuồng heo, chuồng gà, luống rau, cây cam, cây quýt. Nó biết hầu hết mọi thứ xung quanh vì Waywaya đã mô tả; và nó có cảm tưởng như đang ở nhà mình. Họ đưa nó đến rìa làng. Bây giờ nó phải nói lời quan trọng.
– Waywaya - Nó nói với giọng thật tôn kính. - con đã yêu em ấy. Kết quả của sự kết hợp này là một đứa bé. Máu của cha ở trong thân xác nó, nó ở bên kia sông. Cha sẽ để nó lớn lên trong hòa bình? Cha sẽ …
Tù trưởng không trả lời, nếu ông ta có nói thì Dayaw cũng không nghe thấy. Tiếng cồng tiếng chiêng đã vang lên và tiếng than khóc của những người phụ nữ làm náo động cả dòng sông. Có phải dành cho nó không? Trong lòng tuy sợ nhưng cũng mừng. Rừng đang đợi, nhưng chắc chắn như hoàng hôn sẽ tới, nó biết rằng mình sẽ không muốn qua con sông kia nữa.