Việt Văn Mới
Việt Văn Mới






CẢM XÚC NĂM MƯƠI LĂM NĂM



N gày tháng qua mau, mới đó mà đã năm mươi lăm năm, cuộc đời trôi qua như một giấc mộng. Tôi nhớ lại ngày anh và tôi gặp nhau, một buổi sáng đầy nắng vàng, ánh nắng xuyên chiếu in bóng hai người ngã dài trên sân tiểu đoàn 621 yểm trợ truyền tin ở Qui Nhơn. Lúc ấy chúng tôi nói những gì, tôi chẳng còn nhớ, nhưng mà ánh mắt thì tôi không thể nào quên được. Tôi đã viết trong bài CHUYỆN TÌNH  của tôi như thế này

   “Cái buổi ban sơ đáng nhớ ấy, người cứ nhìn tôi, nhìn mãi nhìn mãi bằng ánh mắt ngọt ngào đầm ấm như trao gởi những lời thì thầm chìm đắm  miên man, đôi mắt cuốn hút, nụ cười say lòng. Người không cao, chỉ vừa tầm, da mặt hồng hào nhưng đầy râu quai nón, có thể gọi là đẹp trai nhưng tôi cứ thấy không yên tâm vì từ khi lớn lên tới giờ tôi chưa thật sự chấp nhận một tình yêu khác phái nào cả. Tuy nhiên lòng tôi cũng dâng lên một tình cảm ấm áp chưa đặt tên.    Chúng tôi quen nhau bằng giao kèo ba tháng và tôi ghi rõ hết giao kèo là ra đường gặp nhau coi như hai người xa lạ. Đó là sự nghịch ngợm của tuổi trẻ và cũng để dặn lòng mình nên dè dặt và nghiêm khắc với chính bản thân. Mỗi chiều khi tan sở, chúng tôi thường ra biển ngồi dười rừng dương liểu xanh, nhìn những con sóng bạc đầu xô nhau và ngắm hoàng hôn trôi chầm chậm về nơi chân trời xa tắp”.

  Chủ nhật nào anh cũng xin phép ba Mẹ để tôi đưa tôi đi chơi, có những chiều tan giờ làm việc,  anh đưa tôi về.  Nhà anh ở là cư xá sĩ quan độc thân tận khu một, còn tôi ở trên khu sáu, coi như đầu Qui Nhơn và cuối Qui Nhơn, con đường thật dài nhưng chúng tôi cứ lang thang, lang thang mãi trên đường chiều nhạt nắng,  bóng dáng chúng tôi đan xen bên nhau, sánh vai bên nhau thấm đẫm ân tình. Xa xa nơi chân trời là những đám ráng vàng, rồi ráng đỏ, rồi hoàng hôn bao trùm, trời chập choạng, các vì sao bắt đầu nhấp nháy giữa không gian…

   Một hôm anh đưa tôi đến nhà hàng sang trọng, mà lần đầu tiên tôi tôi bước chân vào, lạ lẫm, rụt rè...Các món ăn tôi còn nhớ là súp măng tây với lươn, cua rang muối, sắp trên một đĩa có xà lách xon trông rất ngon mắt. Thấm thoát chín tháng sau, chúng tôi cưới nhau, anh nhận đơn vị mới ở Kontum,  anh  đưa tôi đi theo, lần đầu tiên đi máy bay từ Qui Nhơn lên Pleiku, tôi rất mệt. Vừa xuống sân bay, tôi đã cảm nhận một tiết trời thu mát dịu, yên lành. Pleiku thuở ấy còn hoang sơ, đầy đất đỏ, bụi mù, làm cho thành phố trở nên cũ kỹ, một thành phố trong thời buổi chiến tranh, chẳng ai muốn xây dựng, thành phố lúc ấy còn “đi năm phút trở về chốn cũ”. Người thưa thớt nhưng quán bar thì nhiều, hình như để phục vụ cho quân nhân Mỹ, Việt mỗi khi họ về nghỉ dưỡng  sau những cuộc hành quân dài ngày. Chiều hôm đó, mới năm giờ, tôi đã thấy trời mờ mờ, thành phố chìm lặng trong màn sương, đẹp vô cùng, lòng tôi bỗng cảm thấy ngẩn ngơ.

     Ở lại Pleiku một đêm, tối đó tôi ngủ rất ngon. Sáng hôm sau, khi thức dậy nhìn ra bầu trời, tôi đã thấy đầy ắp sương mù, tiết trời lành lạnh bởi mùa Thu về có gió heo may. Khoảng chín giờ sáng chúng tôi lên Kontum bằng chiếc xe GMC có tài xế lái, anh ngồi bên tôi, đắng sau có mấy binh sĩ theo hộ tống. Chả là lúc bấy giờ, từ Pleiku lên Kontum phải có hành quân mở đường xe nhà binh mới di chuyển được. Tôi ngơ ngác nhìn hai bên đường đầy hoa dã quỳ vàng, một màu vàng tươi thắm kiêu sa, hoa và nắng xôn xao chiếu sáng lóng lánh, thỉnh thoảng có đàn bướm chấp chới trên muôn hoa, tạo thành một bức tranh cuốn hút lòng người.

  Sống ở Kontum ba năm, ngày ngày anh đi làm, tôi ở nhà cơm nước, mặc dù là đơn vị trưởng, anh vẫn đi làm đúng giờ để làm gương cho binh sĩ dưới quyền. Tuy nhiên vào ngày cuối tuần chúng tôi có nhiều thời gian dạo quanh thành phố Kontum, vào các làng như Phương Hòa, Phương Quí, thăm cuộc sống của người dân thời bấy giờ, phần đông nhà nào cũng sung túc và lần đầu tiên tôi được nhìn thấy ngôi nhà Rông của người Dân tộc, một cảm giác lạ lẫm đến sững sờ. Ba năm sống ở đây như một chuỗi ngày thơ mộng đáng nhớ trong cuộc đời. Anh đưa tôi đi chơi đây đó, những buổi đi săn, những hôm đi vào rừng lội suối bắn chim, tìm lan rừng làm cho lòng tôi vui vẻ, thấy đời toàn màu hồng, mặc dù đêm đêm thường nghe tiếng đại bác từ xa vọng về, thỉnh thoảng vẫn nghe tin từ chiến trường Dakto, Tân Cảnh...... và xa xôi trong rừng thẳm, những trận đánh nhau, người ra đi vĩnh viễn, người ở lại mang thương tật suốt đời làm  cho lòng tôi đầy thương cảm xót xa.

   Ba năm sau anh về Huế làm sĩ quan Truyền tin của một Trung Đoàn tác chiến. Nhiêu lúc về nhà anh kể những chuyến bay thị sát trên quê hương, anh nhìn xuống làng mạc, lũy tre, đồng ruộng xơ xác, hoang tàn vì chiến tranh, vì đạn bom tàn phá, mà thấy đau xót trong lòng, ngậm ngùi cho người dân của mình quá. Còn ở thành phố thì thỉnh thoảng bị bên kia bắn hỏa tiển 122 ly làm nhà tan, cửa nát... Anh nghĩ đất nước nhỏ bé Việt Nam sao chịu lắm cảnh tang thương.

 Thời gian sau anh về Qui Nhơn, chưa kịp mừng anh đã đổi ra Quảng Trị, nơi tuyến đầu của khói lửa đạn bom, lúc ấy trận  chiến Hạ Lào rất ác liệt, chỉ ở có mấy tháng, nhưng nơi đây anh rất bận rộn.  Rồi anh được  đi học khóa cao cấp chuyên môn ở Vũng Tàu sáu tháng. Chúng tôi vừa rời khỏi Quảng Trị năm ngày, thì trận chiến kinh hoàng xảy ra, tuy không tận mắt chứng kiến, nhưng đọc báo và xem tivi tôi thấy nó thê thảm làm sao...Học xong trở về anh làm Phó phòng truyền tin,  rồi Tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn 3 Truyền Tin, ở Đà Nẵng.

    Rồi ba năm sau, một ngày cuối tháng ba, anh và đồng đội đã tức tưởi buông súng để chấm dứt cuộc chiến tàn khốc tang thương, rồi anh bị chính phủ mới đưa đi tù lao động, một năm rưỡi sau anh về với thân xác tiều tụy, ốm o. Cái thời buổi bao cấp ấy, thật là cực khổ thiếu thốn trăm bề, anh đau lòng khi nhìn các con anh quá khổ, vậy là anh đã đi vượt biên và bị bắt, sống trong vòng lao lí thêm ba năm nữa, khi được trở về, anh hầu như không còn sức lực để mà sống với đời.  Anh bôn ba buôn bán làm đủ nghề để kiếm sống, để nuôi các con. Mấy năm sau, anh đi kinh tế mới tự túc ở Pleiku, cuộc sống cũng còn vất vả, thiếu thốn cho đến những năm gần đây, con cái đã có gia đình hết, anh mới thở phào nhẹ nhõm...

   Cuộc đời là vậy,những năm tháng anh đi tù, phải chia ly, rồi sum họp, rồi chia ly,nhưng với anh khi nào cũng vợ con là trên hết, lúc còn là lính chiến, đi đâu anh cũng đưa vợ con theo. Tuy có lênh đênh đây đó, nhưng được đi nhiều nơi, được biết nhiều phong tục tập quán nhiều địa phương, tôi cảm thấy thú vị vô cùng!

   Anh đưa tôi đi khắp bốn vùng chiến thuật, Quảng Trị khi tôi ở thấy hiền hòa, tôi ở gần cổ thành. Mỗi lần đi chợ, tôi được ngắm con sông Thạch Hãn, nước trong xanh, hai bên bờ có nhiều cây phượng già rủ bóng. Ở miền Trung tôi được nhìn những con sóng bạc đầu, được đón nhận những làn gió biển mơn man, được tắm trong không khí thanh bình, ở Tây Nguyên tôi được hòa mình cùng thiên nhiên với rừng cây ngút ngàn xanh mát, được nhìn những sáng, những chiều có sương mờ giăng phủ ngập lối đi, ở Vũng Tàu là những ngày tháng rong chơi khắp phố chẳng bao giờ nghe tiếng súng dù là rất xa.

    Có một điều mà trong tâm can tôi cứ ray rức đớn đau một nỗi đớn đau không bao giờ nguôi ngoai, một nỗi mất mát không gì có thể bù đắp nổi. Đó là cách đây ba năm, con trai thứ ba của tôi, trên đường đi dạy về đã bị tai nạn và qua đời, hôm ấy là một buổi chiều cuối tuần. Bây giờ chúng tôi chỉ còn chín đứa kể cả dâu rể và tám đứa cháu nội ngoại, theo tôi là một gia đình quá ít oi.

  Cám ơn cuộc đời! cám ơn anh nhé! cám ơn anh đã cho tôi sống những năm tháng hạnh phúc tuyệt vời bên anh, cám ơn ông Tơ bà Nguyêt đã xe sợi chỉ Hồng cho tôi với anh, kết duyên phu phụ cho tôi và anh thành tình yêu son sắt. Anh là món quà qúi báu mà Thượng Đế đã ban tặng cho tôi suốt năm mươi lăm năm qua và mãi mãi cho đến ngàn sau, cho đến khi tôi thở hơi thở cuối cùng về bên kia thế giới. Nhớ lại những ngày tháng bên nhau, lòng tôi bỗng dâng lên bao nỗi dạt dào sâu lắng, một niềm cảm mến chân thành lay động trái tim tôi. Mỗi lần nghĩ về anh lòng tôi lại rung lên những cung bậc cảm xúc ấm áp, ngọt ngào. Tôi không ngờ tờ giao kèo nghịch ngợm ba tháng năm xưa đã quấn chặt chúng tôi đến giờ này. Đã năm mươi lăm năm qua, bao nhiêu tình cảm chân thành, bao nhiêu mặn nồng của tình chồng, nghĩa vợ, giờ đây tuổi đã hoàng hôn, một mối tình cảm sâu sắc, đắm say đã gắn chặt chúng tôi bên nhau mãi mãi và mãi mãi đến hết cuộc đời....

 

.Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Pleiku ngày 17.8.2020 .