TÌM LẠI CÕI NGƯỜI
X óm Đông có một gã đồ gàn, mình gã cao năm thước, da ngăm đen, trán rộng, mày thô mà mắt sáng như sao. Gã tiếp nhân xử thế bằng giọng cười hề hà, dễ dãi. Tuy vậy gã ngoại nhu, nội cương. Tuy không ưa tranh chấp với đời, nhưng lập trường luôn luôn dứt khoát. Gã không chịu theo gió mà giương buồm, lưng gã ngắn nên khó cong, cẳng thấp mà cứng nên không chịu quỳ, đành cam phận đói rách, bởi thế gã mới mang danh đồ gàn.
Cha mất sớm, gã ở
với mẹ già. Thuở nhỏ gã nổi tiếng thần đồng. Một
hôm theo mẹ về kinh, được mẹ dẫn đi xem lễ xướng
danh. Trên đầu voi, tên lính đầu đội nón chóp đỏ,
lưng thắt dải điều, chân cuốn xà cạp, gân cổ thét
loa, tên xướng cả buổi khắp phố phường, mới thấy
thầy cử ung dung, đĩnh đạc rẽ đám đông bước tới,
mọi người đều khen ngợi trầm trồ. Gã hỏi mẹ :
- Đậu cử nhân có khó lắm không?
- Đậu cử nhân có khó lắm không?
Mẹ gã đáp:
- Tuy cũng thập niên
đăng hoả, nhưng tài phải trên muôn người.
Gã còn bé mà mỉm
cười khinh thị. Lớn lên, gã đọc thiên kinh, vạn quyển,
nhưng chí không ở công danh, gã chỉ mong báo hiếu mẹ
già. Gã tài cao, tiếng đồn vang tới kinh thành, chân cử
nhân, tiến sĩ tưởng chiếm được trong sớm tối, vậy
mà ba phen lều chõng, vẫn không kiếm được một chân tú
tài, có lẽ cái tâm cuồng phóng của gã không làm vừa ý
các khảo quan. "Sĩ khả bách vi" gã xoay đủ trăm
nghề, mà nợ áo cơm không phút buông tha. Gã bốc thuốc
thì không có người bệnh, thiết trướng được một
tháng thì gia chủ kiếm cớ cho thôi. Mẹ gã muốn kiếm
dâu hiền để gã an tâm đèn sách, nhưng thời hạ nguyên
khó chọn được gái tảo tần. Tuổi ba mươi mà thân
chưa lập. Đời gã là một chuỗi dài thất bại, nhưng
chưa từng ai thấy gã nhăn mặt thở than. Cuối cùng gã
phải ngày ngày vào rừng đốn củi, hoặc gánh nước
tưới rau, sáng sáng mang ra chợ bán, mong đổi lấy hai
bữa cháo cơm đắp đỗi qua ngày, hắn chỉ thương mẹ
già sớm hôm vàng võ. Một năm, nhân ngày lễ hội, gã
vác chiếu tới cổng chùa, bói cỏ thì để đoán cát
hung, nhưng tiền kiếm được, chỉ đủ để mua cho mẹ
già hai chục thang thuốc. Giáp tết, gã tới cửa chợ,
trải giấy hồng điều, ngồi viết câu đối, nét bút
xương kính, có thủ pháp của một bậc đại hành gia,
nhưng tiền kiếm được, cũng chỉ vừa đủ mua chiếc
hòm gỗ tạp, chôn cất mẹ già. Mẹ chết sau một cơn
bạo bệnh, gã dựng lều cư tang ba năm bên mộ. Tang mãn,
gã đốt hết sách vở, không phải gã ngạo thị thánh
hiền, mà chỉ dốc chí đoạn tuyệt công danh. Khi ngọn
lửa phần thư tắt hẳn, gã quẩy gánh lên đường, lang
thang vô định. Gã đi về đâu, gã định làm gì, e rằng
trời già cũng không hiểu nổi.
Một buổi chiều,
phần đói bụng, phần mệt mỏi rã rời, gã tới gõ cửa
một ngôi chùa cổ. Sư già mỉm cười bao dung, mở rộng
cổng đón gã vào. Sư già múc cho gã một bát cháo gạo
hẩm với chút muối trắng. Cháo nóng, gã húp xì xụp,
mình vã mồ hôi mà cảm thấy rất ngon, sinh lực phục
hồi. Buổi tối, sau tuần chuyện vãn, biết gã là danh sĩ
thất cước, sư già đưa cho gã ba chiếc gối trúc, nước
trúc bóng xậm mồ hôi. Sư già giảng giải :
- Ba chiếc gối này
không phải vật tầm thường, mà do một đạo sĩ núi La
Phù đời Bắc Tống để lại. Chiếc thứ nhất là "Hội
chân chẩm", những kẻ thất tình nằm gối này có
thể gặp tiên. Thứ nhì là "Trạng nguyên chẩm",
kẻ sĩ tam phen lạc đệ, nằm gối này có thể thỏa mộng
công hầu. Thứ ba là "Cự phú chẩm" , kẻ bần
hàn ngày không đủ hai bữa cháo rau, nằm gối này có thể
thấy mình phú gia địch quốc. Mỗi giấc mộng kéo dài
được ba mươi năm, từ tráng thời tới lúc vãn niên. Ôi
kiếp phù sinh, cõi đời không bằng cõi mộng, há chẳng
nên gối mộng mà quên đời. Nhà thầy, hãy thử xem.
Sau hồi tư lự, gã
hỏi :
- Xưa nay đã có ai
gối đầu nằm mộng rồi chết hay chưa?
- Mô Phật! Việc ấy
thật chưa từng xảy ra.
- Bạch cụ, mộng dù
ba mươi năm cũng có lúc phải tỉnh, kê vàng tình mộng,
kẻ thất tình vẫn mượn rượu giải sầu, hàn sĩ vẫn
áo gai, giầy cỏ. Mộng tàn, tất cả đều mất, tiêu ma
luôn cả cái tráng chí đối mặt với đời.
Gã sẽ đẩy lui ba
chiếc gối, hào khí ngút trời, khẳng khái từ tạ:
- Bạch cụ! cất đi
thôi.
Sư già biết gã là
người cao khiết, có ý xem trọng, nên lưu gã lại chùa,
sớm hôm bầu bạn. Sư già thân gửi cửa không, nhưng ưa
kết giao với khách văn chương, thường cùng gã gác tay
đàm luận rất là tương đắc.
Chùa rộng, vườn
hoang, được phép sư già, gã rẫy cỏ, vỡ đất trồng
ngô khoai, bầu bí, lại thêm mấy liếp rau xanh. Từ đó
vui cảnh đời đạm bạc, trưa chiều ba chén cơm hẩm,
sáng ra uống một bát nước trà tươi đặc, để chiêm
nghiệm cái cồn cào sau một đêm bụng đói. Đêm đến,
gã bắc chõng tre bên cội mai già, đầu gối lên khúc
cây, nằm ngửa mà ngắm trời. Gã rất yêu trăng, nhưng
lại khó tính, gã ghét những gì viên mãn tròn đầy,
trăng mười lăm, mười sáu quá sáng, gã ví như người
con gái đẹp mà kiêu. Những đêm trăng tròn, gã nằm sấp,
úp mặt mà ngủ. Gã cũng ghét trăng thượng huyền, gã ví
như hạng liễu ngõ, hoa tường, trời chưa kịp tối đã
vội mọc. Gã chỉ yêu trăng hạ huyền. Trăng hạ huyền
bắt gã nằm chờ, có khi tới nửa đêm, trăng như lá lúa
mới dịu dàng nhô lên đầu ngọc trúc. Sương rơi càng
nhiều, trăng hạ huyền càng đẹp, cái đẹp mung lung, hư
huyễn.
Một buổi tối, gã
nằm khoèo đợi trăng rồi thiếp ngủ. Trong mộng, gã lại
thấy mình lang thang vô định, quán gió, lều trăng, chân
tuy mỏi, mà lòng không chán vẻ đẹp của đất trời.
Một hôm gã ngược dòng suối trong, vượt lên thượng
nguồn. Gã leo lên một mỏm đá nghỉ chân, mắt lơ đãng
nhìn trời, ngắm đất. Gã chợt nhận ra dòng suối này
thật lạ. Một dòng nước trong, đôi bờ khác biệt, bên
này rừng hoang còi cọc, cảnh vật tiêu điều. Bên kia là
rừng đào bát ngát, thoang thoảng hương bay, thấp thoáng
sau dãy rừng là đình tạ trùng trùng, mái ngói cong, xanh
biếc như mầu ngọc lưu li. Gã ngạc nhiên chưa dứt, bỗng
thấy xa xa thấp thoáng một bóng người, đó là một ông
lão trạc sáu mươi, đầu đội nón mê, thân khoác áo lá,
tay vác cần câu, nét mặt lão hân hoan như đứa trẻ thơ.
Thấy gã, ông lão nửa ngạc nhiên, nửa mừng rỡ :
- Ôi huynh ông từ đâu
tới, chắc là khách đường xa? Nơi đây hai mươi năm
chưa từng có người lai vãng.
- Thưa cụ, tôi là gã
hành cước bốn phương, dừng chân vì cảnh lạ, không
ngờ lại làm phiền đến cụ.
- Phiền gì. Hai mươi
năm mới gặp lại người đời, mừng còn chưa hết. Lại
đây, lại đây với lão.
Ông lão dẫn gã về
một gian lều cỏ, đẩy cổng bước vào, lớn tiếng gọi
:
- Lão Nguyễn đâu
rồi, hôm nay may thật, đã câu được hai con chép vàng,
lại gặp khách qúy, lão mau ra đây giúp ta, làm bữa gỏi
cá nhắm rượu.
Cuộc rượu được
bày bên bờ suối. Gã nghiêm trang hỏi :
- Hai vị thân gửi
rừng sâu, chí ở núi cao, chắc hẳn cũng là bậc danh sĩ
trốn đời.
Ông lão cười ha hả
:
- Danh sĩ gì bọn ta,
ta với lão Nguyễn đây là lũ dân chài, đọc chưa xong
cuốn kinh ba chữ, nhớ chưa nổi tên bẩy vị tiên hiền.
Tấm thân lưu lạc tới đây cũng vì một cuộc vui dang
dở. Huynh ông có từng nghe ai nhắc tới Lưu Thần, Nguyễn
Triệu chưa? Là hai ta đó.
Gã ngạc nhiên :
- Hai vị là Lưu Thần,
Nguyễn Triệu sao? Thuở nhỏ tôi ưa đọc ngoại thư, cũng
được biết qua kỳ tích của hai vị.
- Chuyện của hai ta,
người đời vẽ rắn thêm chân, lại hoàn toàn thuật sai
về chung cuộc. Này huynh ông, tháng này là cuối hạ, mà
bên kia đào nở bạt ngàn, huynh ông thấy có lạ không?
Chính là cõi Đào Nguyên đó.
Lão họ Lưu chỉ dòng
suối:
- Đây là ranh giới
giữa đôi bờ mộng thực. Bên này giá buốt, đá sỏi
khô cằn, muốn tồn tại phải đổi bát mồ hôi lấy bát
cơm. Bên kia là cõi Đào Nguyên, con người không phải lao
lực, mà ba ngày một tiểu yến, năm ngày một đại yến,
người đẹp lớp lớp như mây. Hai ta đã vượt qua ngọn
suối này, lạc vào chốn Đào Nguyên, ba năm sau, chợt nhớ
mùi đất mẹ, lại lội suối trở về.
Thế rồi từng lời
chậm rãi, lão kể lại chuyện xưa:
- Trước kia, ta với
lão Nguyễn vốn là bạn chài, cảnh nhà thanh bạch, hai ta
đều còn mẹ già, lại thêm thê tróc, tử phọc, nhưng
tính vốn thích ngao du. Một hôm hứng rượu, cứ theo dòng
suối mà đi mãi tới thượng nguồn. Ngang tới vùng này,
chợt thấy rừng đào đẹp, trái đào thơm, liền hăm hở
lội qua dòng suối tiến vào, ai ngờ kẻ tục mà lạc tới
Đào Nguyên. Người tiên vốn hiếu khách, gặp kẻ tục
không chút tị hiềm, ân cần đón tiếp. Đào Nguyên cảnh
như tranh vẽ, đào hồng, lựu thắm, liễu xanh xanh, khắp
nơi gác tiá lầu son, vang lừng nhã nhạc. Hai ta lưu lại
cõi tiên, làm cuộc đổi đời, từ một gã dân chài chân
đất, áo thô, cơm ăn chỉ có tôm cá, nhà ở sang lắm là
vách đất ba gian, gối tre, giường gỗ, phút chốc áo lụa
xênh xang, nằm giường thất bảo, ở điện lưu li, ta với
lão Nguyễn như lạc vào cõi mộng, quên cả quê nhà, quên
cả công ơn mẹ hiền một nắng hai sương, nuôi con khôn
lớn; quên cả người vợ tào khang, thịt da khét nắng,
bắt ốc mò cua; quên cả những đứa con bụng ỏng, đít
eo, mũi rãi lòng thòng. Để chúng ta quyết tâm đoạn
tuyệt qúa khứ, bà Tây Vương mẫu quản cố Đào Nguyên
đã gả cho ta và lão Nguyễn hai cô gái nhà trời. Vợ
chúng ta ư ? Lũ ta thô lậu, không đủ lời mà diễn tả
vẻ đẹp. Hôn lễ tưng bừng, khách tiên ba mươi sáu động
đều đến chung vui. Yến tiệc ròng rã ba ngày, rượu
quỳnh tương màu hổ phách tuôn như suối chảy, uống vào
ngọt lịm, không có vị cháy cổ như rượu trắng quê
nhà. Trong đêm hợp cẩn, vợ ta nâng chén giao bôi, nhìn
ta nửa phần e thẹn, nửa phần băn khoăn:
- Mối tình tiên tục
của đôi ta không biết kéo dài được bao lâu? Cõi tiên
không có răng long đầu bạc, nhưng tình người tiên cũng
không kém thủy chung. Chỉ sợ hương lửa đang nồng,
trạnh niềm cố quận, chàng lại bỏ thiếp bơ vơ.
Ta cảm động cầm
tay vợ rưng rưng:
- Ta nửa đời cơ
khổ, sớm đốn củi, chiều buông câu, ngày ngày vỡ đất
khai hoang, lực đã tận mà miếng ăn chằng đủ. Nay gặp
cuộc đổi đời, há còn mơ gì cảnh cũ. Ta xin thề với
trời đất...
Ta chưa kịp dứt câu
thì nàng đã chận lại :
- Chàng không phải
thề, hai ta sống với nhau bằng cõi lòng, không bằng lời
nói.
Từ đó ta với lão
Nguyễn sống ở cảnh tiên, ngày tháng tiêu dao, an nhàn
cùng cực, tưởng chừng không hạnh phúc nào bằng. Nhưng
lòng người thật lạ, sung sướng được hơn năm, ta bỗng
gặp cái gì man mác, bâng khuâng trong ánh nhìn của lão
Nguyễn, còn lòng ta cũng vời vợi nhớ thương. Một bữa
ăn canh lý ngư, ta chợt nhớ bát canh cua đồng nấu với
rau đay nhơn nhớt, uống chén rượu thanh mai dìu dịu, ta
chợt nhớ tới rượu ngang xé lòng. Nghe gió heo may ta bỗng
hoang mang, không biết đông giá quê nhà, mẹ hiền có được
manh áo ấm? Rồi tết đến, vắng ta, con thơ có được
tấm áo lụa để khoe với bạn bè? Rồi người vợ gầy
còm, có đủ sức chăn bầy gà, ổ lợn làm kế sinh nhai?
Tâm sự mang mang, ta với lão Nguyễn chẳng dám nói ra,
nhưng cũng hiểu nhau qua tiếng thở dài bất chợt. Vợ
tiên hình như linh cảm được điều gì bất ổn. Ở cõi
tiên không có tình buồn, mà người tiên bỗng thấy lòng
sầu vời vợi, đó là căn bệnh của cõi người lây tới
thiên cung. Vợ ta dịu dàng, nhỏ nhẹ :
- Không biết cảnh
tiên có gì khiến chàng buồn? Không biết thiếp vụng về
có gì làm chàng không vừa ý?
Ta không dám nhìn
nàng, cố thu hết can đảm:
- Ta nhớ quê nhà.
Vợ ta thở dài:
- Cõi tiên không giống
cõi trần, người tiên không giống người trần, thiếp
đã biết trước sẽ có ngày hôm nay. Nhưng một ngày cõi
tiên bằng ba năm dưới thế. Chàng đã dừng chân nơi đây
ba năm, như vậy trở về quê nhà, chàng đâu còn gặp lại
cảnh cũ, người xưa.
Ta vẫn cúi đầu vụng
về lập lại:
- Ta nhớ quê nhà.
Vợ ta ngậm ngùi, an
phận :
- Thôi đành vậy,
chàng nên xin phép về quê, rồi mau mau trở lại cùng
thiếp, thiếp mong.
Ta với lão Nguyễn
dừng chân bên bờ suối, nhìn lại cảnh tiên, lòng muôn
vàn bịn rịn, nhưng tình quê vẫn thấy nặng hơn, nên
đành dứt áo, vượt qua dòng suối, tìm lại quê nhà.
Về gần đến quê,
lòng ta hồi hộp, những mong chắp cánh mà bay, nhưng bước
tới đầu thôn, chân bỗng ngập ngừng, một phút mải
vui, ai dè chớp mắt đã ba năm, giờ về đây, những e mẹ
già quở phạt, lại sợ vợ trẻ, con thơ trách móc vì
mải vui quên cả gia đình. Sau phút bâng khuâng, ta bỗng
nhận ra cảnh vật đổi sao dời, vẫn lũy tre xưa, nhưng
xóm làng đổi mới, nhà nhà đều có hàng rào vây bọc,
có lẽ lòng người đã khác xưa, không còn rộng mở. Nhà
cũ của ta đây rồi, đón ta, con chó già nằm lười giữa
sân lạnh lùng sủa hung hăng, rồi một ông lão trạc tám
mươi, chống gậy ra mở cổng. Ông lão hoàn toàn xa lạ,
nhìn ta ngơ ngác, không lẽ nhà ta đã đổi chủ. Ta vội
hỏi:
- Chắc cụ là người
phương xa mới dọn tới đây.
- Ông lầm rồi, dòng
họ tôi đã bẩy đời lập nghiệp ở làng này, đây là
nhà tôi sinh sống từ tấm bé.
- Vậy không lẽ tôi
lầm nhà, đây không phải là nhà Lưu Thần sao. Tôi là
bạn cũ của Lưu Thần xin gặp.
- Lưu Thần nào? - Ông
lão nhíu mày - Tên này rất quen. À tôi nhớ ra rồi, tằng
tổ tôi cũng có một người tên là Lưu Thần, nhưng nghe
đâu cụ đã theo bạn nhập Đào Nguyên, từ đó bóng chim
tăm cá, cả làng không được tin gì.
Ta ngậm ngùi bỏ đi.
Lão Nguyễn cũng gặp cảnh ngộ như ta. Đúng như lời
người tiên đã nói, một ngày cõi tiên bằng ba năm dưới
thế. Rồi đó ta và lão Nguyễn lại rủ nhau đi biệt.
Hai ta đi đâu? Dị sử hoang ngôn, người đời nhiều
chuyện, tất cả đều kể hai ta ở làng được ít lâu,
không kham nổi cảnh đời cực khổ, lại lặn lội tìm
về Đào Nguyên, nhưng mộng cũ mê đường, hai ta lạc
lối. Đào Nguyên đâu không thấy, hai ta đi tìm, lang thang
tới chết, chết đi vẫn hận, hoá thân thành loài di
điểu, cứ mùa Đông lại bay về quê xưa.
Lão Nguyễn ngừng kể,
nhìn gã bâng khuâng:
- Này huynh ông, thực
ra hai ta vẫn tìm lại được chốn này và Đào Nguyên
đang ở trước mặt, nhưng bọn ta đã dừng chân nơi đây,
dựng lều bên suối hai mươi năm rồi, lòng vẫn dằng
co, phân vân giữa đôi bờ mộng thực. Ở bên này bờ
thì phải vỡ đất khai hoang, tận lực mưu sinh, qua bên
kia bờ, cuộc sống tuy an nhàn sung sướng, nhưng lòng lại
nhớ thương trùng trùng, nhớ bát canh cua ăn với quả cà,
nhờ mùi thơm của hương luá mới, nhớ giọng ngọt ngào
của lời mẹ ru con, nhớ cả những tiếng chửi thề,
văng tục của bọn người kẻ chợ. Đi hay ở, bề ngoài
tuy giản dị, nhưng sự chọn lựa bao giờ cũng đầy khắc
nghiệt, cuộc chọn lựa kéo dài đã hai mươi năm.
Buổi rượu đã hầu
tàn, gió đêm gai gai trở lạnh, lúc ấy trăng hạ huyền
vừa mọc, đâu đây văng vẳng tiếng trúc, tiếng tơ. Gã
vốn là người yêu nhạc, ngơ ngẩn lắng nghe. Tiếng đàn
thật lạ, không phải cung bậc ngũ âm, tiếng đàn tuyệt
vời điêu luyện, nhưng sao không rung động lòng người,
hình như trước sau chỉ có một giai điệu đầm ấm vui
hoà, như chim muông ríu rít. Tiếng đàn không có cái xót
xa của cảnh sớm họp, chiều tan, không có cái tái tê
của cuộc tình lận đận, không có cái khắc khoải của
người vợ trẻ trông chồng, không có cái chán chường,
dằn vặt của gánh nặng áo cơm, cũng không có cái ray
rứt của cuộc đời trăm cay, ngàn đắng, tiếng đàn như
thiếu một chiều sâu lắng đọng của tâm tư. Tiếng đàn
cõi tiên, đâu giống tiếng đàn của cõi người trùng
trùng tâm sự. Lại có tiếng lão họ Lưu vang lên :
- Bọn ta đã hai mươi
năm phân vân chọn lựa. Hôm nay sẵn có huynh ông, chúng
ta nên chăng dứt khoát một lần. Hay là huynh ông thử
theo bọn ta... theo bọn ta lội qua dòng suối tìm cõi Đào
Nguyên.
Gã trang trọng hỏi :
- Thưa cụ, cõi người
có gì đáng chán ?
- Cõi người "sinh,
lão, bệnh, tử" không ai tránh khỏi, cơm áo, tình
duyên, công danh sự nghiệp là vòng hệ lụy. Có một ước
muốn là có một điều khổ, có trăm ước muốn là có
trăm điều khổ, đời là bể khổ mênh mông.
- Trời có khi nắng,
khi mưa, tình có lúc đậm, lúc lạt, có đau khổ biệt ly
thì mới sung sướng lúc đoàn viên, có đói cơm rách áo,
mới thỏa lòng khi no đủ, nhịn đói ba ngày mới thấy
món "mầm đá hầm" là ngon. Đó là cuộc đời
muôn màu, nghìn sắc.
"Sinh, lão, bệnh,
tử" là điều không thể tránh, sao không bình thản
mà chờ ? Có một nỗi khổ là có một niềm vui, có trăm
nỗi khổ là có trăm niềm vui, sao không can đảm bước
vào bể khổ để tìm lạc thú nhân sinh ?
Rồi gã lại hỏi :
- Thưa cụ, cõi tiên
có gì là vui ?
- Cõi tiên không có
tiếng khóc, tiếng than, chỉ có tiếng cười vui và nhã
nhạc, không phải làm lụng mà vẫn có của ăn, mỗi bữa
cơm thường đều như yến tiệc. Ở thì gác tiá lầu
son, người đẹp lớp lớp như mây, trai như cây ngọc,
gái như Hằng Nga. Tứ chứng nan y không có, mà tuổi thọ
sánh ngang đất trời.
- Tuổi thọ sánh như
đất trời, mà trọn đời chỉ thấy một bề, như vậy
còn gì chán hơn. Người người đều là cây ngọc, nhưng
không có Chung Vô Diệm, sao biết Tây Thi là đẹp. Đã
không đói khát thì cao lương mĩ vị lấy gì làm ngon.
Không phải làm mà vẫn đầy đủ, sao biết được giá
trị của miếng cơm manh áo. Như vậy đủ thấy không có
gì nhàm chán bằng cảnh tiên đơn điệu, không có gì ấm
áp bằng cõi người lênh đênh. Hai cụ có đi thì đi, còn
tôi quyết chí quay về.
Sáng sớm hôm sau, khi
mặt trời vừa mọc, gã quẩy gói lên đường. Lên tới
lưng đồi, gã dừng chân ngó lại. Vượt lên ngàn dặm
hoa đào là lớp lớp đình tạ, mái ngói cong xanh biếc
như màu ngọc lưu li. Bên bờ suối, hai lão Lưu, Nguyễn
đang đứng tần ngần, hình như giằng co bất quyết. Chợt
thấy lão họ Nguyễn bước nhanh vào bếp, lấy ra một
mồi lửa, lão thẳng tay dí vào mái lá, lửa hồng theo
nắng hạ bùng lên, phút chốc lều cỏ ra tro. Thấy gã
còn đứng ở lưng đồi, hai lão đưa tay vẫy gọi rối
rít, rồi tất cả chạy theo. Tới đỉnh đồi, cả ba
dừng lại nhìn nhau, bất giác cả cười. Rồi Lưu Thần,
Nguyễn Triệu cùng gã đồ gàn tay nắm tay, xuôi dòng suối
trong, tìm lại cõi người.