Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








THIỆN VÀ ÁC







N ắng đổ lửa trên khoảng sân lổn nhổn đất đá. Cái nắng ban trưa làm chóng phai màu áo nhưng lại tô đậm hơn làn da đã sẵn đen đúa của công nhân. Họ đang đưa lưng ra nắng. Áo đẫm mồ hôi nhưng cổ họng lại khô cháy. Dù vậy, đôi tay họ vẫn vận động nhịp nhàng, khéo léo. Những nhát cuộc bổ xuống làm nẩy lên từng mảng lớn đất khô cứng. Sau đó, chúng bị ném về một phía, chồng chất lên nhau như một ngọn đồi nhỏ cạnh chỗ sắp xây hồ bán nguyệt đang được đào vét sâu dần.

Tảo ngừng tay, ưỡn lưng vặn vẹo mình mẫy cho đỡ mỏi. Anh chép miệng “ khát quá!” Tảo đến chỗ xô nước đá, đặt cái cuốc một bên, anh chùi hai bàn tay đầy đất cát vào hai bên mông quần rồi dùng một tay mở nắp xô, một tay thò cái ca có vài vết đất vào thùng nước. Tảo ngửa cổ uống một mạch. Nước chảy vào họng ừng ực, tràn qua hai bên mép mát lạnh. Anh cảm thấy khoẻ hẳn ra. Tảo khoan khoái buột miệng “ Đã quá!” Mấy người bạn ngoái nhìn, phì cười. Dũng thúc giục “ Lại làm mầy! Ở đó đã với không” Tảo cũng nhoẻn cười, anh thủng thỉnh trở lại chỗ cũ nhảy xuống “ đáy hồ” tiếp tục đào vét. Như vừa được tiếp sức, Tảo bổ những nhát cuốc mạnh mẽ. Anh hất đất bay lên bờ như trẻ nhỏ ném viên bi. Khoảng đất chỗ Tảo làm tụt sâu hơn nơi khác, đất rung lên dưới bàn tay thoăn thoắt của anh.

Bỗng “ rổn”. Lưỡi cuốc chạm mạnh vào một vật cứng, tạo nên một âm thanh chát chúa, khô khốc. Cùng lúc, những mảnh sành văng tung toé. Tảo nghiêng người né tránh. Anh kêu lên “ Trời, cái hũ!” Mọi người đổ xô tới xem. Họ cảnh giác đưa tay bịt mũi phòng ngừa đây là hũ hài cốt người chết. Biết đâu mùi tử khí bay lên...nhưng mấy phút trôi qua không có gì hết. Chẳng có xú uế lan toả. Tảo thắc mắc “ cái gì vậy trời!” Nhóm người cùng quay lại một chỗ. Thoáng chốc, cái hũ được đưa lên trên mặt đất. Đó là một cái hũ sành tráng men vàng bóng, to bằng cái thùng xách nước nhỏ. Cái nắp được khằn kín bằng xi măng . Bây giờ nó bể một mảnh khá to. Tảo chợt nhớ câu chuyện cổ tích có một hung thần nị nhốt trong cái hũ như thế. Ông được một người tốt bụng giúp đỡ nhưng ông ta lại gây kinh hoàng , khó khăn cho ân nhân của mình. May nhờ người ấy thông minh nên đã lừa được hắn chui trở vào “ tù ngục” cũ, khằn kín lại bằng một lá bùa rồi ném xuống đáy biển. Tảo nói lên ý nghĩ của mình. Dũng, anh công nhân trạc tuổi Tảo đẩy mạnh vai bạn, cười ha hả:

- Khùng vừa thôi cha! Làm gì có chuyện hoang đường đó ha ha...

Mọi người đề nghị đập vỡ cái hũ. Không ai phản đối. Và Dũng đưa cuốc lên, cái hũ vỡ vụn. Giữa những mảnh sành, hiện ra một cái hộp gỗ nhỏ khá đẹp. Mọi người ồ lên kinh ngạc. Một người trong bọn cầm lên, mở nắp, thảng thốt kêu lên “ trời, vàng....vàng....!”

Cả nhóm thợ một phen choáng váng. Họ cảm thấy tim đập mạnh, hơi thở dồn dập và chân tay run rẩy . Họ vây quanh cái hộp, trố mắt nhìn những cái khâu vàng óng ánh dưới nắng trưa. Chúng bị xỏ thành một xâu khá dài. Mấy chiếc xuyến chạm trổ khéo léo và vài sợ dây chuyền dài ngoằng mềm mại. Những người thợ xây nghèo nàn chết đứng bên mớ của cải bất ngờ này. Họ như bị thôi miên, mồm há hốc, nét mặt ngây dại. Lát sau, Dũng lấy lại bình tĩnh trước tiên. Anh hỏi:

- Bây giờ tính sau đây?

Im lặng! Chẳng ai biết tính làm sao nữa? Mỗi người theo đuổi một ý nghĩ. Đa số đều tưởng tượng đời sống sẽ biến đổi khi có một phần của cải ấy. Họ sẽ xây nhà, mua xe máy. Sống cuộc sống sung túc hoàn toàn khác hiện nay. Họ sẽ trở thành những ông chủ đầy quyền uy trước những người làm thuê khác.

Chỉ có Tảo phân vân trước số của cải vừa nhặt được. Anh nhớ về thời thơ ấu của mình bên cạnh người bà hiền đức, nhân hậu. Bà đã kể cho Tảo nghe không biết bao nhiêu chuyện đời xưa tuyệt vời và bao giờ cũng kết luận: “ở hiền gặp lành” hoặc “người nhân hậu, thật thà luôn được hạnh phúc” và có những vạt dầu sôi, những bàn chông, những cây kéo sắc bén đang chờ kẻ ác dưới địa ngục. Tảo một mực tin như thế. Đến bây giờ, dù đã lớn những câu chuyện kể ấy vẫn còn in đậm trong trí nhớ anh. Tảo muốn trở thành một người hiền lương, tốt bụng. Dầu không phải lúc nào anh cũng được mọi người ủng hộ. Đôi khi, họ còn chế giễu Tảo, xem việc thể hiện đức tính thật thà như tính cách bất thường của một người dại. Tảo buồn nhưng vẫn tin những gì anh từng tin tưởng. Anh tiếp tục đi theo con đường mà người bà đã phác hoạ. Vì thế, Tảo phản đối việc chia đều số vàng khi có người đề nghị. Anh viện lý do vừa đúng vừa có vẻ lý tưởng là “nhặt của rơi phải trả lại người đánh mất”. Không phải vàng của mình mà lấy thì sẽ bị đánh giá là tham lam, hậu thế chê cười vv...Những người bạn của Tảo có vẻ bực mình trước luận điệu đạo đức ấy. Song không ai dám cãi vì Tảo nói quá đúng. Có điều, đối với người nghèo như bọn họ thì trước ngưỡng cửa đạo đức thì hình như có cái gì khá mai mỉa để họ phải lưỡng lự lẫn hối tiếc, ngập ngừng khi bước vào. Cuối cùng Tảo thắng cuộc. Mọi người đồng ý trả lại của rơi. Họ bàn tán một hồi rồi quyết định cho chủ thầu xây dựng hay. Dũng được cử làm việc ấy.

Mọi người không phải đợi lâu. Dũng gặp chủ thầu đang trò chuyện với chủ nhà. Hai người lập tức theo Dũng trở lại hiện trường. Vừa trông thấy cái hộp, ông chủ nhà kêu lên như gặp ...tri kỷ “Rồi...chính nó! Cái hộp nữ trang của mẹ tôi” Ông ta lắp ba lắp bắp nói như hụt hơi, mặt bừng đỏ vì xúc động.

Thế là đã rõ, không ai thắc mắc gì nữa. Cái hộp được trao lại cho chủ nhà. Ông ta mừng quá đến độ quên cả cám ơn những người thợ thật thà, tốt bụng. Chỉ có Chủ thầu tấm tắc ngợi khen nhóm công nhân xây hồ bán nguyệt ở đây. Ông xuýt xoa luôn mồm vì không ngờ quanh ông bấy lâu toàn những người tốt, biết trọng nghĩa nhân hơn vàng bạc và ông ví họ như những đoá sen sắp trồng để trang điểm cho hồ bán nguyệt. Mọi người hớn hở vô cùng trước lời tuyên dương của chủ và hy vọng tràn trề khi nghe ông bảo “ thế nào chủ nhà cũng thưởng cho các anh trọng hậu”.

Đêm đó, không ai ngủ được. Họ còn lâng lâng trong cảm giác khó tả. Họ cảm thấy mình cao quí hơn, đáng trọng hơn trong việc làm vừa qua.

Bỗng, có tiếng chó sủa vang, tiếng người xôn xao. Ánh đèn pin quét qua quét lại trong bóng tối. Mọi người giật nẩy mình khi nghe có tiếng đập cửa căn nhà dã chiến dành cho thợ mà họ đang trú ngụ. “ Mở cửa, mở cửa mau!” Mọi người nhìn nhau lo lắng. Lại có tiếng đập cửa, lần này gấp rút hơn “ có công an xã đến xét nhà” Hoảng vía, Dũng lật đật ra mở cửa. Khoảng bảy người có súng ống đầy đủ ập vào, một người ra lệnh như một đoạn phim bắt cướp “ Ngồi im, các anh đã bị bắt!” Sau đó, họ chia làm hai tốp. Một tốp canh giữ bọn Tảo. Tốp kia lục soát khắp nơi. Họ mở va li, dờ chiếu, kiểm tra cả chỗ để dụng cụ xây dựng. Không có gì lạ. Một nah công an báo cáo với trưởng nhóm “ Chẳng có gì lạ”. Người trưởng công an xã ra lệnh “ Tạm thời các anh phải về trụ sở xã vì chủ nhà viết đơn tố cáo các anh chiếm đoạt một số vàng của họ. Đợi chúng tôi điều tra vụ việc”. Tảo và các bạn bị điều về phòng tạm giam. Họ được công an xã cho biết chủ nhà đã phát đơn kiện. Họ thưa bọn Tảo đã chiếm đoạt tài sản trái phép. Số vàng của họ là năm chục cây nhưng bây giờ chỉ còn lại một nửa và họ quả quyết hai mươi lăm cây vàng kia đang nằm trong tay nhóm thợ xây hồ bán nguyệt. Mọi người kêu oan như bọng nhưng công an bảo phải chờ điều tra và để trấn an họ, trưởng công an bảo:

- Nếu các anh vô tội thì không việc gì phải sợ. Hãy tạm thời ăn nghỉ tại đây!

Thấy không thể giải thích được với chính quyền. Họ quay ra chửi trời mắng đất. Đang cơn thịnh nộ, họ chợt nhớ tới Tảo. Chính anh là đầu dây mối nhợ của cái oan này. Cũng tại anh cuốc nhầm cái hũ vàng. Và cũng tại anh ngu ngốc mang trả cho chủ nhà mới ra cớ sự. Nếu họ điều tra không ra thì họ đào đâu ra số vàng để trả. Chắc sẽ tù tội, rồi vợ con họ sẽ ra sao? Chắc phải chịu cảnh nghèo đói, lầm than. Ôi, bao nhiêu đau khổ sẽ trút lên đầu họ. Mọi người căm phần Tảo và không nén được họ ào tới đấm đá anh không thương tiếc. Khi công an hay được thì mặt mày anh sưng húp và mình mẩy đầy vết bầm. Anh được đưa sang trạm xá xã nằm tịnh dưỡng.

Tảo trăn trở, đau đớn từ thể xác đến tâm hồn. Nỗi hoài nghi về cái thiện và ác xâu xé, dằn vật anh từng giây từng phút. Lẽ nào người hiền gặp lành chỉ xảy ra trong cổ tích. Còn thực tế quá phũ phàng. Tại sao lòng tham của con người lại vô cùng vô tận đến thế? Liệu Tảo có sai lầm khi mang số vàng ấy trả lại cho chủ nhân? Tảo nhớ những lờ đay nghiến của Dũng:

- Thật thà hoá cha dại! Phải chi mầy để tụi tao chia vàng thì đâu đến nỗi.

Anh còn rứt rói:

- Con Mai, em gái tao mà thành vợ mầy thì có ngày đói rã ruột ra. May mà mầy chưa có tiền cưới nó. Trời ơi! Người đâu mà ngu động trời động đất vậy trời!

Tảo ôm lấy đầu! Ừ, phải chi anh có tiền hẵn là anh cưới được Mai. Hai người sẽ xây một ngôi nhà nho nhỏ và sống hạnh phúc bên nhau. Nhưng điều đó bây giờ bỗng trở nên xa vời. Anh đang bị tạm giữ. Biết đâu rồi hai người không có cơ hội gặp lại nhau. Tình yêu rồi sẽ chỉ còn lại một ít kỷ niệm vừa ngọt ngào vừa buồn bã.

Điều làm cho Tảo khó chịu và khổ sở nhất là mình gây hoạ cho các bạn. Họ phải chịu oan ức, tù tội. Anh không oán trách họ đã nhẫn tâm đánh đập anh. Họ có quyền làm thế! Hãy còn nhẹ tay lắm! Và nếu họ bị tù thật sự thì tội của Tảo sẽ lớn nhường nào và có lẽ đến chết anh vẫn còn ân hận. Tảo chỉ còn biết chờ đợi pháp luật nghiêm minh. Ánh sáng công lý soi tỏ lòng anh, xoá tan bóng tối đang chực chờ phũ trùm lên bao cuộc đời vô tội.

Giữa lúc mọi người tuyệt vọng thì người chủ thầu xây dựng xuất hiện như một vị thần công lý, giải thoát bọn Tảo. Khi hay tin ngườ chủ nhà đã thưa công nhân mình về tội chiếm đoạt tài sản trái phép và đòi xử theo điều luật quy định. Ông lật đật quay về thành phố tìm gặp một luật sư nổi tiếng nhờ giúp đỡ. Vị luật sư tài ba đã đưa vụ việc ra ánh sáng một cách dễ dàng.

Trước chính quyền xã, vị luật sư đã nêu những câu hỏi mà người chủ nhà không thể trả lờ được:

- Tại sao sắp xây dựng mà không lấy vàng cất giữ nơi khác, nếu là vàng của ông?

- Có giấy tờ hay chứng cớ gì để xác minh số vàng ấy là của mẹ ông để lại và số lượng là 50 cây? Theo tôi điều tra thì mẹ ông mới mất cách nay hơn một năm. Như vậy mua vàng ở tiệm nào? Có hoá đơn chứng từ gì không? Và đất mà ông thuê xây hồ bán nguyệt ông mới mua có mấy tháng nay, thể hiện qua giấy tờ chuyển nhượng. Điều này chứng tỏ vàng đó không phải là của mẹ ông. Vì không lẽ có vàng không chôn giấu trong đất nhà lại đem qua đất ruộng nhà người chôn giấu. Mà sao chính ông lại cho đào nơi giấu vàng để xây hồ. Thật vô lý.

- Nếu bảo công nhân chiếm đoạt tài sản thì chứng cớ đâu? Khi lục soát công an đâu tìm thấy dấu vết gì. Nếu bảo họ tham sao họ đem vàng trình báo cho chủ thầu xây dựng khi họ bắt gặp hộp vàng chẳng ai hay biết ngoài họ?

Và luật sư kết luận:

- Nếu kết tội những người vô tội là trực tiếp làm cho họ trở thành tội phạm sau này. Họ vĩnh viễn mất lòng tin ở con người và luật pháp. Và điều ấy thật là nguy hiểm cho toàn xã hội.

Nhóm công nhân được trả tự do ngay sau đó. Số vàng bị thu hồi, xung vào quỹ xoá đói giảm nghèo. Và chính quyền xã tuyên bố sẽ dùng toàn bộ số tiền quy đổi từ vàng để cất nhà tình nghĩa cho những công nhân nghèo thuộc địa phương, đồng thời hỗ trợ chi phí xây dựng cho các anh thợ ở xa để họ tự lo xây hay sửa nhà.

Đúng như luật sư đã khẳng định. Tảo và các anh công nhân khác đều cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì được chở che khi làm đúng. Họ không cô đơn! Quanh họ còn biết bao người tốt. Họ tin rằng cuối cùng thiện vẫn thắng ác.