Thử đặt lại vấn đề
VÙNG ĐỊA LÝ CỔ VIỆT NAM
TRONG CHINH PHỤ NGÂM KHÚC
C
hinh phụ
ngâm khúc - nguyên tác thuộc loại nhạc phủ bằng Hán
văn do Đặng Trần Côn (1710 - 1745) sáng tác và được Đoàn
Thị Điểm (1705 - 1746) diễn dịch ra tiếng Việt (diễn
Nôm) là một thi phẩm nổi tiếng từ thời Hậu Lê đầu
thế kỷ thứ 18, chẳng những ở trong nước mà còn phổ
biến ra các tỉnh lân cận của Trung Quốc. Cho tới nay tác
phẩm thi ca nổi tiếng này vẫn được nhiều người biết
đến và đưa vào giảng dạy trong trường học như các
truyện thơ nổi tiếng khác: Kim Vân Kiều của Cụ Nguyễn
Du, Lục vân Tiên của Cụ Đồ Chiểu...
Hầu như
toàn bộ các áng thi ca nổi tiếng nói trên đều được
tác giả vay mượn cốt truyện và ý tứ của văn học Trung
Quốc để gởi gấm tâm sự của mình hoặc nói đến hoàn
cảnh đau thương của đất nước. Riêng ca khúc Chinh phụ
ngâm có cái đặc biệt hết sức riêng lẻ là cốt truyện
không vay mượn, là một sáng tác phẩm hoàn toàn mới do
chính tác giả hun đúc nên, được khơi dậy từ tâm trạng
của một viên quan chức thời phong kiến xót xa trước cảnh
chia ly và đau khổ của những cặp vợ chồng son trẻ trong
chinh chiến (thời Trịnh Nguyễn phân tranh) mặc dù vẫn
không tránh khỏi việc sử dụng nhiều thành ngữ, điển
tích và bối cảnh theo lối "tầm chương trích cú"
của văn học phương bắc. Tuy nhiên, lối vay mượn này
đều có dụng ý và vùng địa lý mà nhà sáng tác đề
cập tới lại có liên quan tới vùng sinh tụ thuở ban đầu
của người Việt dân tộc Kinh.
Nói một
cách khác, đó là vùng địa lý của Cổ Việt Nam được
thể hiện trong Chinh phụ ngâm khúc. Qua một thời gian nghiên
cứu và đối chiếu, chúng tôi phát hiện ra câu chuyện
chia ly của anh lính chiến và người vợ trẻ xảy ra ở
vùng đất thuộc tỉnh Thiểm Tây của Trung Quốc ngày nay
- nơi dân tộc Hán chiếm ngụ và đóng đô lúc ban đầu
của các triều đại phong kiến từ đời Tây Chu (1134 -
770) tới đời Đông Chu (770-221) đã từng diễn ra các cuộc
chiến ác liệt và lâu dài hàng mấy trăm năm mà Khổng
Tử gọi là thời kỳ Xuân thu - Chiến quốc.
Trước khi
xảy ra cuộc chiến đẫm máu và dài ngày này là thời kỳ
thanh bình của cả ngàn bộ tộc đang bắt đầu chấm dứt
các cuộc sống du mục, di cư khắp miền đất nước Trung
Quốc hay nói theo Mác - Ăng ghen, thời kỳ chế độ thị
tộc chuyển sang thời kỳ chế độ chiếm hữu nô lệ.
Tác giả Chinh phụ ngâm khúc ca ngợi tình hình đất nước
lúc đó, đã viết:
Nước thanh
bình ba trăm năm cũ
Và chiến
tranh xảy ra đột ngột là do người Hoa Bắc vốn sinh sống
lâu đời ở vùng Trung - Hạ du sông Hoàng Hà cách đây trên
bốn ngàn năm khởi sự "bành trướng" về hướng
Đông để diệt Đông Di, về hướng Tây dẹp rợ Nhục
Chi, Khuyển Nhung (rợ Khương) và vượt sông Hoàng Hà xuống
phía nam đánh đuổi Man Di để lập ra Trung Nguyên. Đó là
thảm cảnh được miêu tả mở đầu khúc Chinh phụ ngâm
và được lồng vào thân phận của người phụ nữ để
giới thiệu nhân vật chính mà ca khúc mang tên:
Thuở trời
đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Ngòi viết
của nhà thơ Đặng Trần Côn đã miêu tả thảm cảnh và
tội ác của chiến tranh dưới chế độ phong kiến bắt
đầu bằng hai câu thơ miêu tả cảnh quan và địa điểm
xảy ra chiến tranh:
Trống Trường
thành lung lay bóng nguyệt
Khói Cam tuyền mờ mịt thức mây!
Thảm cảnh
trên làm cho ta liên tưởng tới sau này, lúc giặc Pháp đánh
chiếm và gây tang tóc cho đồng bào vô tội ở đất Đồng
Nai - Gia Định, cụ Đồ Chiểu đã đau đớn than thở:
Bến Nghé
của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây!
Trường
thành là những đoạn thành dài của nước Yên, Triệu,
Tần xây lên nằm dọc theo phía Bắc của vùng lãnh thổ
của người Hoa Bắc hay Hoa Hạ để chống Hung Nô (tổ tiên
của người Mông Cổ nay) thường xâm nhập từ phía Bắc
mà về sau Tần Thỉ Hoàng (246 - 207 trước Tây lịch) thống
nhất đất nước Trung Quốc mới liên kết những đoạn
ấy thành Vạn lý Trường thành dài 6.500 km. Cam Tuyền
hay Cam Toàn là ngọn núi nằm phía dưới Trường thành
bên bờ sông Lạc Thuỷ (phụ lưu sông Vị Thủy và chi nhánh
của sông Hoàng Hà) thuộc tỉnh Thiểm Tây ngày nay, cách
thành Diên An 40 km và Hàm Dương 120 km. Đây là khu vực ra
quân của các chiến sĩ để đi chinh chiến miền xa theo
lệnh hoàng đế khi có lửa khói báo hiệu trên núi Cam và
tiếng trống khua vang trên vọng lâu trường thành. Đây
là hiệu lệnh được báo động khi có giặc xâm phạm biên
cương từ thời Thương, Chu:
Người chiến
sĩ hay chinh phu từ giã người vợ hiền hăng hái lên ngựa
băng qua cầu sông Vị trong cảnh trời đầy gió thu buồn:
Giã nhà
đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Hình ảnh
đó cho thấy đoàn quân của nhà Tiền Hán thời ấy lên
đường chinh chiến. Lớp theo ngã Lũng Tây do tướng Phó
Giới Tử chỉ huy để tiêu diệt bộ tộc Lâu Lan (rợ Nhục
Chi hay Tokhares, tổ tiên người Hoa hợp chủng với Mông
cổ mang tên Bắc Mongolic tới thời Hán thì bị tiêu diệt)
ở đất phía Tây Vực (Tân Cương ngày nay) giáp với Turkestan
gốc người Nga. Lớp xuống phía nam vùng đất Kinh nằm
ở mạn trên và mạn dưới sông Dương Tử (thuộc tỉnh
Hồ Bắc, Hồ Nam ngày nay) do Phục Ba tướng quân Mã Viện
nhằm đánh đuổi Man Di. Cũng chính tướng này khi đã lão
thành 62 tuổi lại tiếp tục đưa quân đánh Giao Chỉ do
Hai Bà Trưng giành độc lập được ba năm.
Đặng Trần
Côn đã khéo léo dùng các điển tích thời nhà Chu, Tần,
Hán để khơi lại một vùng địa lý thuộc cương vực
cổ của người Việt mang tộc Kinh mà các triều đại phong
kiến phương Bắc cổ đặt tên là đất Kinh Man ở khu vực
Thiểm Tây (Trung Nguyên) mà Sở, Tần, Hán lần lượt đánh
chiếm khiến người Việt gốc Kinh phải đi xuống phía
Nam.
Theo nhiều
nguồn tư liệu cổ của Trung Quốc và thông qua khoa Tiền
sử học và Khảo cổ học của phương tây mà nhiều nhà
bác học Pháp đã dày công thực hiện các cuộc khai quật
các di chỉ từ Hoa Bắc xuống Hoa Nam và Đông Nam Á cho biết
cách nay hơn bốn ngàn năm, chủng Hoa đã có mặt tại miền
Bắc và Đông Bắc Trung Quốc (vùng đất Hoàng Thổ của
khu vực đất vàng thuộc châu thổ sông Hoàng Hà), chủ
yếu là khu vực tỉnh Sơn Tây và Sơn Đông (gốc người
vượn Bắc Kinh ở Chu Khải Điếm) phía trên sông Hoàng
Hà. Đây là thời kỳ tương ứng với các triều đại Tam
Hoàng, Ngũ Đế và Hạ, Thương, Chu. Trong khi đó chủng Mã
lai - Indonésiens - Mongoloid (chủng chính của các dân tộc
Đông Nam Á) di cư từ vùng thuộc thung lũng Hi-malaya (có
nghĩa là vùng núi của dân tộc Malaysia) đã vượt qua miền
Tây Tạng và Tân Cương tới định cư ở bờ nam sông Hoàng
Hà, chủ yếu bên bờ sông Lạc Thủy và Vị Thủy. Chủng
tộc này định cư chưa bao lâu thì người Hoa Bắc vượt
sông Hoàng Hà để đánh chiếm và đuổi đi. Cổ sử Trung
Quốc gọi là cuộc chiến giữa thủ lĩnh Hiên Viên (tộc
Hoa) và Xuy Vưu (tộc Việt). Vua Thuấn lại tiếp tục sai
tướng Vũ (sẽ là một trong ba vua hiền đức) đánh đuổi
tộc Miêu, Lê ở bờ nam Hoàng Hà (theo sách Kinh Thi). Bách
Việt được hình thành, trong đó có Lạc Việt với dụng
cụ cầm tay là lưỡi rìu Quốc Oai (phát hiện ở di chỉ
nằm giữa Hà Đông và Sơn Tây nước ta) hay còn gọi "búa
mặt nguyệt" khi chạy về phương nam (cái việt = lưỡi
rìu bằng đồng hình cong có cán gỗ nằm ngang thành hình
chữ Việt mà người Hán viết theo tượng hình này để
gọi bộ tộc ở đất Kinh: dân tộc Kinh liên tục về phương
Nam. Lưỡi rìu này về sau ta cải tiến thành cái liềm hái).
Tác giả
"Việt Nam sử lược", cụ Trần Trọng Kim gọi thị
tộc của thời kỳ này là Họ Hồng Bàng không phải là
không có cơ sở nhưng lại không giải thích cụ thể theo
khoa học. Đất Kinh Man có Kinh Việt và Dương Việt rộng
từ Hoa Trung đến Hoa Nam tương ứng với tỉnh Hồ Bắc
và Hồ Nam nằm khắp các khu vực bắc và nam sông Dương
Tử, trong đó có hồ lớn Động Đình. Hai sông Tiêu và
sông Tương chảy vào hồ này. Tác giả khúc Chinh phụ ngâm
tha thiết viết nỗi lòng của chinh phụ:
Chốn Hàm
Dương chàng còn ngoảnh lại
(chỉ phía Bắc lúc phát tích và còn luyến tiếc khi phải
rời bỏ chiếc nôi cũ).
Bến Tiêu,
Tương thiếp hãy trông sang
(chỉ phía Nam sau khi di cư mà các dân tộc vẫn còn chia
ly, sinh sống còn cách xa nhau).
Khói Tiêu
Tương cách Hàm Dương (liên tưởng hai phương trời cũ).
Cây Hàm Dương cách Tiêu, Tương mấy trùng
(hồi tưởng cảnh vật xưa).
Vua của đất
Kinh Việt và Dương Việt được đặt tên là Kinh Dương
vương và có tên nước là Xích Quỷ. Tác giả Trần Trọng
Kim viết: "Bờ cõi nước Xích Quỷ bấy giờ phía Bắc
giáp Động Đình hồ (Hồ Nam), phía nam giáp nước Hồ Tôn
(Chiêm Thành), phía tây giáp Ba Thục (Tứ Xuyên), phía đông
giáp bể Nam Hải" (Sđd trang 23). Chữ Hán ở cổ thư
gọi phương nam là "quỷ", "xích" là vùng
đất có màu đỏ hay vùng có khi hậu nắng nóng (giống
như Xích đạo) có khí hậu hoàn toàn khác lạ với miền
Hoa Bắc giá lạnh và xám xịt.
Chuyện vua
Thần Nông tuần thú phương Nam theo ngành khảo cổ đó là
thời đại dân Việt tộc Kinh phát minh trồng lúc nước
trên đường di tản xuống phương Nam.
18 đời vua
Hùng có lẽ sau đó đã xảy ra từ hồ Động Đình cho tới
đất Văn Lang. Lạc Long Quân phong cho người con trai trưởng
làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương vào năm 2.879 trước
CN. Sự tích Phù Đổng Tiên vương vào thời Hùng Vương
thứ 6 đánh giặc Ân là có thật. Nhà Ân thời ấy nằm
ở khu vực sông Hoàng Hà thuộc tỉnh Hà Nam và Thiểm Tây
đã trực tiếp đánh chiếm nước Việt cổ của Hùng Vương.
Biến cố lịch sử này được dân tộc Kinh ghi nhớ từ
lâu đời nhưng con cháu sau này khi định cư ở vùng sông
Hồng mới nhớ lại để lập đền thờ và lịch sử truyền
miệng trở thành huyền thoại mà tới lúc ấy mới kể
như cổ tích. Thời Tần, Sở tiếp tục đánh đuổi Bách
Việt lấn chiếm dần dần xuống phía nam nên 9 chi Lạc
(Cửu Lê) đã tách ra làm hai chi Âu và Lạc với truyền
thuyết Âu Cơ chia tay với Lạc Long Quân (cũng có sách cho
đó là cuộc tách ra của người Mường (có Thái) và người
Việt để hình thành nên nước Văn Lang và Tây Âu. Vị
trí Tây Âu nằm phía Bắc của Văn Lang, khoảng giữa Quảng
Đông và Quảng Tây và phía Bắc có Quý Châu. Văn Lang là
miền đất còn lại sau cùng của vua Hùng dân tộc Kinh hay
Lạc nằm trên địa phận Bắc Bộ ngày nay, từ Lào Cai
- Vĩnh Phú tới Thanh Hoá - Nghệ An. Nếu kinh đô Phong Châu
- Bạch Hạc là trung tâm đất nước Văn Lang thì cương
vực của Văn Lang phải rộng và kéo dài lên phía Bắc rất
xa ở lúc ban đầu.
Và còn nhiều
điển tích lẫn tên các địa phương trong suốt khúc Chinh
phụ ngâm mà tác giả Đặng Trần Côn cố ý đưa vào thi
phẩm của mình để cho thấy vùng đất cũ của dân tộc
Việt Nam khá rộng lớn lúc phát tích nhưng tới sau này
đã bị các triều đại phương Bắc lấn chiếm gần hết,
chỉ còn lại một miền viễn xứ nhỏ ở phương nam nhưng
cũng không yên ổn để an cư lạc nghiệp và thường xuyên
bị đe dọa, xâm lược tiếp một ngàn năm nữa và sau này
vẫn cứ lấn chiếm… Đó là từ thời nhà Hán tới nhà
Đường với suốt trên một ngàn năm Bắc thuộc. Nhưng
người Việt dân tộc Kinh đã cùng với đông đảo dân
tộc thiểu số khác lần lượt di cư tới lánh nạn rồi
lập nghiệp lâu dài trên dải đất Việt Nam qua nhiều thời
kỳ từ thời Hùng Vương cho tới hai cuộc kháng chiến thần
thánh chống Pháp đánh Mỹ.
Dân tộc
Kinh người Việt đã dẫn đầu mở cuộc Nam tiến để
sinh tồn suốt hơn bốn ngàn năm lịch sử được tính từ
thời mới di cư tới miền nam Hoàng Hà đã biết nông nghiệp
với lưỡi rìu (cái việt) cầm tay và trống đồng vác
vai. Tộc Việt (Lạc, không phải chim Lạc là vật tổ) đã
biết đồng pha thau từ lúc còn ở miền Thiểm Tây. Trống
đồng đã theo chân các tộc Lê khác đi khắp Đông nam Á.
Còn người Hoa Hán chính thống không biết chế tạo trống
đồng. Trái lại, Hoa Nam có là của Bách Việt.
Có nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng Đặng Trần Côn, một trí thức
Bắc Hà đã sáng tác Chinh phụ ngâm khúc bằng Hán văn vào
thời buổi Trịnh Nguyễn phân tranh cả trăm năm gây tang
tóc đau thương cho nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ có gắn
kết với hình ảnh cuộc đánh đuổi, chém giết cả ngàn
năm của phong kiến phương Bắc đối với Bách Việt. Tác
giả Chinh phụ ngâm khúc đã từng đi sứ Trung Quốc nên
bỏ ra nhiều công sức để nghiên cứu sử sách cổ và
vùng đất cố cựu của Cổ Việt Nam. Hôm nay, đặt lại
vấn đề này âu cũng là dịp để chúng ta suy ngẫm về
một miền viễn xứ xa xăm cố cựu của một dân tộc có
hơn bốn ngàn năm văn hiến.
Theo nhà nghiên
cứu Bình Nguyên Lộc, tất cả các sắc dân nằm trên vùng
Đông Nam Châu Á, kể cả Ấn Độ đều có cùng phát tích
ở Malaysia hay Indonesia, đợt thứ nhất đã rời khỏi địa
bàn từ thời đồ đá di cư lên phía Bắc, chủ yếu qua
vùng Đông Dương, có nhóm lên tận vùng Hi-Malaya, Ấn Độ
và Hoa Bắc cách dây trên 5.000 năm, trong đó có tộc Việt
Nam sau này. (Chính vì lẽ đó mà ta tự hào với 4-5 ngàn
năm văn hiến). Đợt thứ hai di chuyển sau lối 2.000 năm
chỉ tới vùng Hoa Trung mà thôi. Khi tộc Việt bị người
Hoa Bắc đánh đuổi chạy về phương Nam trước thì đã
có nền văn minh Sông Hồng, Đông Sơn… Còn các tộc cùng
chủng chạy theo sau. Khi Văn Lăng mở nước thì họ tới
cư ngụ ở biên giới phía Bắc nước ta như ngày nay cho
thấy có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống đoàn kết
với nhau như anh em. -./.
VVM.11.5.2024.
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Khói Cam tuyền mờ mịt thức mây!
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây!
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Cây Hàm Dương cách Tiêu, Tương mấy trùng (hồi tưởng cảnh vật xưa).