Tổ
Chức Thờ Mẫu
Mang tính chất bình
dân, những nơi có thờ Thánh Mẫu không giống nhau. Có
nơi được xây dựng lên như một loại đền phủ tráng
lệ; đólà trường hợp đền Phủ Giầy, Phủ Sòng, Phủ
Tây Hồ. Nhưng có khi chỉ là một am nhỏ bên cạnh một
ngôi chùa hay ngôi đình. Cũng có khi được thờ trong Chùa
theo kiểu "tiền Phật, hậu Mẫu". Thành thử,
trong việc nghiên cứu tính cách thờ phượng tại một
đền Mẫu, không thể nhìn hời hợt những cách thiết
chế bên ngoài, mà cần phải được tiếp cận bên trong,
đồng thời cũng hiểu được sự tổ chức cúng bái.
Chẳng
hạn một đền thờ Mẫu thường xuyên tổ chức đồng
bóng, thì lại được trang hoàng đủ nghi môn, trướng
liễn, bát vật, ngũ sự. Tại Sài Gòn, những điện thờ
Mẫu được tổ chức trong những ngôi nhà hẻo lánh trong
những đường kiệt, nhưng bên trong thì trang hoàng bày
biện muôn màu sắc.
Theo thống kê năm
1997, có đến 102 căn nhà thờ Mẫu khắp các quận huyện
nội ngoại thành Sài Gòn. Cách thiết kế: Một ngôi đền
thờ Thánh Mẫu bao giờ cũng chú trọng đến vấn đề
phong thủy. Vì mang yếu tính "nữ", cho nên việc
kiến thiết bên cạnh các giòng nước thường được đề
cập đến. Hầu hết điện Mẫu đều được xây dựng
bên cạnh một con sông (như điện Hòn Chén xây dựng trên
núi Ngọc trản,cạnh con sông Hương) bên cạnh cửa biển
(như đền Cờn dựng lên ở cửa Càn Hải - Nghệ An) bên
cạnh một con suối (như đền Bắc Lệ - Lạng Sơn) cạnh
một hồ lớn (như Phủ Tây Hồ ở cạnh Hồ Tây – Hà
Nội).
Nếu trong trường hợp
không thể chọn một địa điểm nào có "sơn triều,
thủy tụ" bên ngoài, thì có thể tạo nên cảnh trí
bên trong khuôn viên. Chẳng hạn như xây thêm hồ, ao,
giếng để chứa nước. Các cửa của nơi thờ Thánh Mẫu
bao giờ cũng được hướng vềphía có nguồn nước. Phải
là nơi thủy tụ, thì giá trị và ý nghĩa tăng lên. Điều
nầy thấy rõ tại điện Vân Cát ở Phủ Giầy hay đền
Tiên Hương.
Trang hoàng đền Mẫu:
Đi vào một đền thờ Mẫu, dù quy mô lớn hay nhỏ, có
thể nhận biết được ngay với những tính chất đặc
thù của nó. Điều nhận được đầu tiên là vô số
những thể loại đồ vàng mã bày biện cao ngất; tuy
nhiên tất cả đều theo lớp lang và mỗi loại đều nói
lên được những giá trị riêng của nó, mà không thể
thiếu được. Vì trong một đền thờ Mẫu, có đủ thể
loại Mẫu và những nhân vật truyền thuyết khác như quan
lớn Tuần Tranh, bà chúa Thượng Ngàn, tà thần, yêu
thần,mà mỗi vị đều đòi hỏi những lối cúng tế
khác nhau.
Quan trọng nhất trong
việc trang trí là những chiếc nón, hài, thuyền rồng,đèn
lồng, với kích cỡ và thể loại khác nhau dùng lúc
thượng đồng. Tất cả đều dùng nhiều màu sắc sặc
sỡ, hấp dẫn. Trong đạo thờ Mẫu,từ vị Thánh Mẫu
cho đến hàng quan đều mang những gốc tích khác nhau của
nhiều miền trong nước và lịch sử của mỗi vị cũng
khác nhau.
Ngoại
trừ những nơi thờ Mẫu chung với điện Phật, còn những
điện thờ riêng biệt đều tuân thủ theo thể thức
trình bày giống nhau theo ba tầng: tầng thượng, tầng
trung và tầng hạ. Tầng thượng có đôi mãng xà, biểu
hiện cho quan lớn Tuần Tranh (gốc rắn), một con màu
trắng và một con màu sẫm. Tầng trung là nơi thờ Mẫu
chính thức. Tầng dưới là nơi thờ Ngũ hổ. Rắn và hổ
là những loài vật thiêng có chức năng bảo vệ cho vị
Mẫu. Về mãng xà, nhiều nơi được thờ riêng, tức là
đền thờ quan lớn Tuần Tranh. Đây là danh từ dùng để
gọi một cách kính cẩn vị thần trông coi con sông Tranh
ở Ninh Giang.
Giải thích về việc
thờ cúng những động vật nầy, những nhà nghiên cứu
nêu lên các giả thuyết khác nhau: (a) Có người cho rằng
đó là những con vật biểu trưng cho cuộc sống thời hồng
hoang. (b) Thuyết khác cho rằng: rắn và hổ đều là
những con vật hung dữ có thể trấn áp những kẻ ác độc
âm mưu hãm hại vị thần Mẫu (c) Ngoài ra, trong hình
tượng Ngũ Hổ có năm màu sắc khác nhau được giải
thích là biểu hiện về 5 phương vị: kim, mộc, thủy,
hoả, thổ.
Đồng
Bóng
Những điện thờ
Mẫu thường được cúng tế theo định kỳ. Mỗi năm
trong những ngày lễ vía lớn đều được cử hành đại
lễ. Ngoài ra, những trường hợp tín đồ cần xin lễ
đặc biệt để cầu khẩn cho gia đạo của mình cũng đến
điều đình để lập lễ riêng. Mỗi đền Mẫu đều có
ban điều hành. Ban nầy quy định các lễ lượt và người
phụ trách. Việc tuyển chọn các thành viên rất khó khăn
vì phải am tường nghi lễ. Họ cũng qua một kỳ tập
dượt. Tất cả đều phải ăn khớp. Những người phụ
trách hành lễ phải hiểu tường tận mọi nghi thức, mà
trong đó việchầu bóng không thể thiếu.
Một nghi lễ thờ
cúng Mẫu được phối hợp nghệ thuật diễn xướng, âm
nhạc, hát văn và múa linh. Cung văn là người điều hành
toàn buổi lễ. Những người lên đồng phải được tập
luyện, hiểu được ý nghĩa những bài hát chầu để
bắt nhịp, chuyển nhịp. Gọi nghi lễ nầy là thể loại
"sân khấu thần tích" cũng là cách diễn tả thích
hợp. Nghi lễ của từng buổi lễ rất phức tạp. Tuy
nhiên một số lễ chính không thể nào thiếu sót là hầu
bóng, lễ tôn nhang và lễ trình đồng.
Loại tín ngưỡng
bình dân nầy ảnh hưởng khắp nơi trong nước,và những
loại hát thờ nầy rất thịnh hành; ở miền Bắc thì
gọi là hát chầu văn (hầu văn) ở miền Trung và miền
Nam thì gọi là hát lên đồng bóng.
Nghi
thức của một buổi lễ chầu văn rất phức tạp, và
thường phải theo quy trình sau đây:
Trước
hết, người hầu bóng và cô đồng, cậu đồng,ông đồng,
thành đồng... phải chuẩn bị cho đủ mọi thứ nghi lễ,
thầy cúng,âm nhạc, người lên đồng, người phụ việc.
Sau đó thì bắt đầu vào công việc Phụng thỉnh Chư
Thánh nhập đàn. Mỗi lễ theo một nghi lễ Phụng thỉnh
khác nhau. Người chủ lễ sau khi cúng nhập đàn, thì đọc
dâng sớ. Nội dung lá sớ là nhân dân ý nguyện của đức
Ngọc Hoàng Thượng Đế đứng ra xin triệu tập những
vị thần linh về chứng giám.
Thể điệu lúc nầy
được trình bày theo loại Sai quan tướng như ý nghĩa của
phần nhập lễ. Sai tướng rất khó khăn và phải do
những cung văn hát theo nhịp đàn, trống phụ họa. Cung
văn cất cao tiếng hát chiêu hồn nhập xác: "Thầy
sai Đại Thánh Tề Thiên, Huyền công, dùng phép dẹp yên
loài tà".
Đến
khi những cô đồng,bà cốt đã bắt đầu chuyển thân để
nhập hồn, biến đổi bộ điệu có những du hiệu bắt
hồn thì cung văn đổi giọng ngay: "Cô
rằng: cô đẹp nhất đời,Dáng đi, điệu múa, miệng
cười có duyên. Rằng hồn ở chống Thiên Tiên,Siêu sanh
Tịnh Độ, xuống miền trần gian...".
Khi
cung văn hát theo những giọng Dâng Hương và Thét Nhạc
thì bắt buộc phải đứng dậy để đàn và hát; cho đến
khi đã được chuyển sang Hát Giải thì mới được ngồi
xuống chiếu. Cứ mỗi lần chuyển thế ngồi, thì
giọng đàn, tiếng hát cũng biến đổi theo ngay.
Hát
bóng rỗi: Tổ chức hát bóng rỗi
đúng theo nghi thức khá phức tạp; thông thường, phải
qua nhiều phần. Phần đầu là Lễ Khai Tràng. Lễ nầy do
dàn nhạc bóng rỗ diễn tấu qua 3 khúc nhạc và hát chính
thức. Phần 2: lễ Chầu Mời và lễ Thỉnh Tổ. Những
bài "chầu mời" gồm: Bài Bà, Bài Ông, Bài Cô,
Bài Cậu. Những bài chầu mời chỉ cần theo đúng âm
giai. Nội dung thì tùy theo linh vị chính và người tổ
chức, tham gia để ứng biến theo cho thích hợp. 3 điều
kiện căn bản trong bài chầu mời là: hợp với nơi diễn
xướng, hợp với chủ miếu, hợp với từng người trong
Hội. Giọng hát phải truyền cảm, ăn khớp nhạc điệu.
Lễ Thức Đồng Bóng
Đền Thờ Mẫu
Hầu
hết những đền thờ Mẫu được tổ chức vào
khoảng thượng tuần đến trung tuần tháng ba âm lịch,
như tại những miễu thờ miền Bắc và miền Trung. Chọn
lựa thời điểm nầy, một phần theo những nghi lễ
truyền thống của các Mẫu khác nhau; phần khác thì theo
thời vụ của những nông dân chuẩn bị trước khi
bướcvào vụ cày cấy mới. Điều nầy thường được
giải thích như chu kỳ của vòng quay thiên nhiên, và cầu
khẩn cho một mùa bội thu tương lai. Tuy nhiên, tại những
đền miếu có sự phối tự giữa việc thờ Phật và thờ
Mẫu, thì thời điểm cúng tế không theo hạn kỳ nhất
định. Chẳng hạn những ngày lễ chính trong năm vẫn là
lễ Nguyên đán, vía Di Lặc, ngày lễ Phật đản, lễ Xá
Tội Vong Nhân. Sự phối hợp thờ cúng nầy đã lôi cuốn
nhiều tín đồ tin tưởng khác nhau và trở nên đa dạng.
Có
trường hợp khác biệt theo định kỳ hàng tháng; chẳng
hạn như tại chùa Nam Nhã (Cần Thơ), đền thờ Mẫu tổ
chức cúng tế mỗi tháng ba lần: ngày mồng 1, ngày 11 và
ngày 21 âm lịch. Nhưng tại những chùa người Hoa, có
thờ bà Thiên Hậu, thì ngày lễ vía lớn nhất trong năm
nhằm ngày 23 tháng 3 âm lịch. Ở những đền miếu
khác,như ở Dinh Cô (Long Hải, Bà Rịa), ngày hành lễ
chính thức trong năm kéo dài từ 10 đến 12 tháng hai âm
lịch. Cũng như cách thờ cúng khác nhau của mỗi chùa,
trình tự tổ chức các buổi lễ cũng không giống nhau
hoàn toàn.
Tại nhiều đền thờ
ở Bến Tre, những nghi thức lễ lượt không khác gì với
những lễ cúng khác, nhưng bao giờ cũng có hát bóng rỗi
kế tiếp theo. Tại Long An, thông thường những lễ cúng
đền miếu có thờ Mẫu (chính hay phụ) hay tại nhà
riêng, sau nghi lễ chính thức, thường kèm theo hai lễ
tục khác: hát bóng rỗi và diễn "chặp Địa Nàng".
Tại tỉnh Định Tường, lễ tục tiếp theo là đồng
bóng. (Theo Đại Nam Nhất Thống Chí). Nhìn chung lại, nếu
thờ Mẫu ở một đền miếu riêng biệt, bao giờ cũng
có hát bóng rỗi. Còn nếu thờ Mẫu chung với Phật hay
Thần khác, không có hát bóng rỗi.Nhạc cụ: Những loại
nhạc cụ được dùng trong việc hát bóng rỗi là:
chiêng, trống cái, trống con, đàn nhị, kèn thau, sánh
cái.
Theo tài
lịêu được ghi chép trong cuốn "Địa chí tỉnh Long
An" (in lại năm 1988) thì: Những nhạc cụ thông
thường là: đàn kìm, đàn nhị, trống cái và trống
cơm.Diễn Xướng Mời Tiên: Sau những nghi thức về Thỉnh
Tổ và về Chầu Mời, nghi lễ kế tiếp là Diễn Xướng
Mời Tiên.
Lễ
nầy giống hệt như nghi thức "Xây chầu đại bội"
trong lễ Kỳ Yên. Những nghi thức gồm có: Khai chiếu
gió, nhật nguyệt, tam hiền, gia quan, Ông Đông, Thanh Đường
hạ san,Hội Năm Bà, Bá Trạo nghinh bà. Nghi thức đầu
là lễ Kỳ Yên. Kể từ Ông Đông trở đi là lễ Cúng
Miễu. Ông Đông là người chủ trì cuộc lễ. Thanh Đường
Hạ San là cung thỉnh vị Thanh Đường xuống chứng minh
cho buổi lễ. Hội NămBà là nghi lễ mời chư Bà hiễn
linh trong buổi lễ. Bã Trạo là nghi lễ của người dân
làm nghề ngư phủ, theo triều nước lên, nước xuống, để
nghinh đón Mẫu hiện ra (thường tổ chức vùng duyên
hải). Những lễ tiết trong hầu bóng là căn bản để
thờ cúng Mẫu. Cung văn và những người lên đồng (đồng
ông, đồng bà, đồng cô, đồng cậu) phải là những
người "nhà Thánh" sống trong nghề cúng lễ nầy
và được tập luyện khá công phu. Thiếu đi, buổi lễ
không giữ đượcý nghĩa linh thiêng của nó được.
Nhập
đồng: Theo những truyền thuyết
trong giới "phụ đồng" thì trong những lần lên
đồng bóng, Thần Mẫu nhập vào thân xác của những bà
đồng, ông đồng, cô đồng hay cậu đồng để đưa ra
những chỉ dẫn, khuyến cáo hay phương thức giải trừ
những tai ương. Có người hợp bóng vía thì nhập dễ
dàng; số người nghịch bóng vía, thì không thể nào
nhập được. Thậm chí có người ở xa đến, có thể
nhập hồn mà không phải qua một nghi lễ nào để "dẫn
xác đồng".
Nhập thánh: Trong đền
thờ Mẫu thường thờ thêm các đấng thần thánh khác.
Những nhân vật hay thần vật nầy thường có liên quan
đến lịch sử của Thần Mẫu; cũng có thể là các vị
thần được tôn thờ của địa phương; có khi được
rước từ các đền khác đến. Thành thử, lễ lượt
càng nhiều và đền thờ tấp nập thường xuyên. Trong
các đền Thần Mẫu đều có thần phả. Các thần phả
ghi đầy đủ ý nghĩa của từng Thần Mẫu và các thánh
khác. Cung văn dựa vào đó để viết sớ tấu và đặt
bài hát, bài vè.
D- Nghi Thức
Cúng Mẫu:
1- Lễ
tôn nhang: Tôn nhang là lễ bốc và
đặt bát nhang thờ những vị thần mẫu trong trường
hợp những người bị ốm đau đến cầu khẩn. Lễ nầy
được cử hành ngày lối cửa chính vào đền thờ. Sau
khi bốc, bát nhang được đặt tại cửa đền Mẫu vào
những ngày rằm, mồng một với mục đích là ngăn ngừa
và đẩy lui mọi bệnh tật cho thân chủ. Lễ tôn nhang
được tổ chức như sau: trong trường hợp tín đồ đồng
bóng thấy mình gặp nhiều điều không may hay đau ốm
liên miên, làm ăn thất bại, bị lường gạt, tai ương
trùng trùng, thất cơ lỡ vận,vợ chồng ly tán, con cái
phá phách... thì phải "ra đầu" các quan mới
khỏi.
Trước
hết, tổ chức lễ đội bát nhang, dâng sớ, nêu rõ căn
cơ, phủ nào, quan cai đồng là ai... nói chung trình bày
mọi việc liên quan đến thân chủ và người chủ lễ.
Vị chủ lễ đọc sớ, trình lễ, cầu khẩn và mong được
Mẫu chiếu cố. Người đội bát nhang ngồi xếp bằng
trước giá hầu; hai tay ngữa lên bắp vế, mắt nhắm,
đội khăn phủ diện màu đỏ. Trên đầu dùng chân nhang
tròn để đỡ bát nhang. Những người phụ thì giữ bát
nhang cho khỏi đổ xuống. Cho đến khi nào, cung văn đàn
hát và người đội bát nhang bắt đầu đảo tức là
ứng nghiệm. Khi đảo nhanh tức là ứng nghiệm. Lễ
xong, bát nhang được mang về nhà đặt trên bàn giữa
nhà trong vòng một tháng.
Lễ
trình đồng:
Trình
đồng tức là trình diện con đồng với chư Mẫu.Cuộc
lễ tổ chức trong vòng ba hôm, gồm có lễ mở đàn, lễ
trình Mẫu và lễ tiễn đàn. Trong mỗi buổi lễ đều có
hầu bóng, cung văn đọc sớ tâu, đồng nhập và phán xét.
3-
Hát dẫn đồng: Một trong những
loại tôn giáo hay hát thờ quan trọng nhất của người
Việt là hát chầu văn. Những loại hát tôn giáo ở khắp
ba miền đều có những tính chất khác nhau tùy theo phong
tục thờ cúng, nhân vật thờ phụng và giai điệu của
từng vùng. Hát chầu văn cũng như những lối hát tôn
giáo khác là một nghi lễ quan trọng dùng trong tế tự.
Hát chầu văn mang
nhiều tính chất bình dân hơn là hát cung đình. Tại
những đền thờ trong nước như Điện Hòn Chén tại Huế,
đền Phủ Giày tại Nam Định, điện Linh Sơn Thánh Mẫu
tại Tây Ninh, đền Bà Chúa Xứ tại Châu Đốc, đền thờ
Man Nương tại chùa Dâu, đền Cửu Thiên Huyền Nữ, đền
Công Chúa Thượng Ngàn, hằng năm đều tổ chức ngày
cúng bái, lên đồng bóng.
Theo những nhà phân
tách nhạc học thì đây là một thể loại ca nhạc
phù pháp (lamaism), bùa chú (tantrism) của nhiều dân tộc
khác thường dùng; mà ý nghĩa chính là tham gia công cuộc
biểu dương, tôn thờ thần thánh, nhưng lại có giá trị
thôi miên những người đóng vai chính trong việc đồng
bóng, bằng ba nguyên tố căn bản là âm điệu bài hát,
nhịp điệu điều hoà và nhất lànội dung của lời ca.
Thái Lan, Ấn Độ, Tây Tạng, Kampuchia, những sắc tộc
ít người miền núi Việt Nam cũng có những loại hát
tôn giáo này.
Những
nhà dân tộc học cho rằng: theo những tập tục tín
ngưỡng của người bình dân Việt Nam, nhất là phụ nữ
thôn quê cũng như thành thị, ngày trước họ thường tin
tưởng và lo sợ trước sự hiện diện vô hình của
những vị thần tiên, chư thánh, những vong hồn uổng tử
thường hay lảng vảng chung quanh mình; những nhân vật
huyền thoại nầy, theo họ thường hầu hạ chung quanh
một đấng thần linh nào đó, đồng thời cũng có sức
mạnh vạn năng chi phối tất cả những sinh hoạt của
con người. Đó là đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, như
thường thấy trong những trung tâm lên đồng bóng.
Điệu
kể hạnh: Trong những thể điệu
hát tôn giáo còn có lối kể hạnh cũng mang tính chất
tương tự như thế. Kể hạnh tức là kể lại sự
nghiệp, công năng, pháp thuật của những cao tăng thiền
đức. Chẳng hạn như sự tích Ngài Pháp Loa, Trúc Lâm
Tam Tổ, Từ Đạo Hạnh... Tại những ngôi chùa thuộc
thiền phái Trúc Lâm, trong những ngày giỗ tổ, thường
có tổ chức kể hạnh.
Văn
kể hạnh là lối văn khá phổ biến trong những chùa
chiền Việt Nam. Trong lúc kể hạnh, nhóm biểu dương
phân chia ra làm hai phần: phần rước tổ giành cho những
vị cao niên lên tiếng chiêu hồn; phần tán dương công
đức thuộc về những cô gái có giọng hát trong trẻo.
Bên cạnh đó thì có những thấy căn cứ trên những bản
Khoá Hư Lục và Tam Tổ Thực Lục để sửa chữa hay bổ
sung lại.
Một
trong những áng văn Kể hạnh nổi tiếng nhất có nhan đề
An Tử Sơn Trúc Lâm Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh.
Nếu so sánh thì lối kể hạnh chú trọng về nội dung
giáo lý trong khi đó thì chầu văn lại chú trọng đến
giai điệu quyến rủ, biến chuyển không ngừng tùy theo
người lên đồng đang ở trong tư thế nào. Những người
tin theo đồng bóng cho rằng: trong thế gian nầy có ba
cảnh giới khác nhau mà hồn phách của con người lần
lượt phải trải qua: thiên đình, âm phủ và thủy phủ.
Những vị thần linh trên thủ trong ba cảnh giới nầy có
nhiều quyền hành vô thượng, mang những danh hiệu là Tứ
Đại Thiên Vương, Nhị Thập Bát Tú, Thập Tam Hoàng Thái
Tử, Ngũ Vị Vương Quan.
Chẳng
hạn như tại điện Hòn Chén ở ngoại ô kinh thành Huế
thì chầu văn thường gọi hồn của bà Thiên Y A Na, gốc
Chiêm Thành; sau đó thì lại chuyển sang Phật Bà Nam Hải
theo sự tích Việt Nam. Những cung văn phải sành nhiều
loại nhạc khác nhau, sành về đàn,có giọng quyến rủ
và biết tùy theo lúc để chuyển điệu không ngừng.
Những cô Đồng, bà Đồng hay ông Đồng đều sành những
lối múa kiếm, chèo thuyền, nhập xác thần linh khá
nhanh chóng, Họ trở thành những người hầu bóng khá
điêu luyện, và có thể nhanh chóng nhập xác vào các Ông
Hoàng, Bà Chúa, đồng Cô, đồng Cậu.
Hát
Chầu Văn
Hát
văn: Hát văn là một hình thức
diễn xướng dân gian, thường diễn xướng trong tín
ngưỡng Tứ Phủ. Hát văn được phân chia ra làm hai loại:
loại hát thờ và lọai hát thi. Hát thờ là loại hát
nghi lễ, thường diễn ra khi lên đồng. Nội dung kể về
sự tích của các nhân vật thần linh thờ phượng. Hát
thi chỉ tổ chức vào tiệc mẫu đền Sòng hay tiệc Phủ
Giày.
Mỗi
khi hát văn và trình diễn minh họa vị thần, gọi là giá
đồng. Hát văn được quy định chặt chẻ về làn điệu,
nội dung và hình thức. Tuy nhiên hát văn lại không gò bó
trong cách ứng đối Một bài hát chầu văn bao giờ cũng
được phân chia ra những đoạn chính như sau: Phần nhập
đề khi dâng hương và chiêu hồn mau chóng trở về để
nhập xác.
Đọc
lời phán của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phần chuyển đề
trình bày tâm thành, ý nguyện, xưng tán công đức. Phần
chính ca ngợi những nét đặc thù của ông Hoàng, bà
Chúa, Thượng Ngàn, Thủy Cung, Thiên Đình, công đức vô
lượng của đức Ngọc Hoàng Thượng Đế. Phần khuyến
lễ hướng dẫn những con công đệ tử hết lòng cầu
nguyện để con đồng chóng nhập. Qua những bài chầu
văn đó thì các vị thần linh nầy, theo họ, có khả năng
che chở, bảo vệ cho con người (những người cúng tế),
để chống lại những loài yêu tinh, ác quỷ thường hay
quấy phá.
Tuy
nhiên, trong trường hợp muốn dễ dàng tiếp cận với
những vị thần linh nầy, thì phải cần qua một nhân vật
trung gian giữa thần và người: đó là những vị thuật
sĩ, đạo sĩ, thầy phù thủy (cao tay ấn) những ông đồng,
bà cốt có nhiều khả năng đặc biệt. Từ việc nhờ
đến những người trung gian để thay mặt mình cầu xin
những vị thần ban ân đức cho mình, đồng thời cũng tự
nhận vai trò của mình là con công, đệ tử (tức là
người hầu bóng) của thần linh, họ thường theo những
nghi lễ, cúng bái, lập điện thờ uy nghi, lên đồng
bóng, cúng cô hồn, và trong những thứ lễ nghi phức tạp,
thì nhạc hầu văn đã đóng vai trò chiêu hồn rất quan
trọng.
Thể
điệu: Sáu điệu chính trong hát văn là: Bỉ: tiết tấu,
trường độ không rõ ràng, mang tính ngâm ngợi, dùng làm
phần mở đầu của các văn bản hát thờ. Dọc: nhạc
khúc chiết, kết cấu rõ ràng. Cờn: chia hai loại: Cờn
xuân và cờn oán. Cờn
xuân là giòng nhạc trữ tình; cờn oán có tính buồn thảm.
Phú:
nhạc chậm rãi, ngâm ngợi, nhịp điệu tự do,nhả chữ
rõ ràng. Xá: nhạc có tiết tấu nhanh, vui, trữ tình,
thường dùng để miêu tả các động tác múa trong hầu
đồng, như múa mồi, hái hoa, múa quạt. Trong khi chầu
văn chuyển sang giai đoạn nhập bóng, thì người cung văn
đã bắt đầu chuyển thể điệu, từ hát dọc chuyển
sang hát giọng cờn, rồi từ giọng cờn chuyển sang
giọng phú, giọng dựng.
Theo
những nguyên tắc chuyển điệu thì giọng cờn có nghĩa
là tán dương công đức; giọng phú là trình bày những
tài năng khác thường; giọng dựng là mô tả các khả
năng siêu phàm để có thể giao cảm với con công, đệ
tử đang cầu đảo. Những cách chuyển hệ nầy khá
linh hoạt và người chầu văn dựa theo trình tự và cách
ứng đồng để thay đổi. Những người vào đồng theo
bóng cậu hay bóng ông thì chuyên về giọng phú hơn là
giọng cờn và giọng dọc. Trên nguyên tắc căn bản thì
lên đồng là cách biến thân hay hóa thân. Biến thân là
đổi thân phận của mình, từ người bình thường ra kẻ
thoát tục.
Hoá thân là chỉ vay
mượn trong chốc lát một thân phận rồi sau đó chuyển
sang thân phận khác. Chẳng hạn như chuyển từ Thánh Mẫu
Thiên Y A Na sang bà Chúa Thượng Ngàn, bà Mẫu Thỏa, bà
Chúa Xứ, Man Nương, Liễu Hạnh Công Chúa hay Kim Sơn
Thánh Mẫu. Những thể điệu biến thân hay hóa thân đều
dựa theotinh thần của người ngồi đồng, khi vui cũng
như khi buồn. Mới nhập đồngthì giọng vui, khi tả tâm
trạng cứu nhân độ thế thì chuyển sang giọng buồn.
Nhạc cũng chuyển theo; khi giọng vui thì dùng đến giọng
Bắc như: phú bình và phú dựng.
Phú
chênh là phần chuyển tiếp từ vui
sang buồn.Giọng buồn thì hát theo loại phú sầu và phú
ai theo giọng Nam. Những thể điệu khác trong chầu văn
tại Huế, Thừa Thiên thì gồm có: thể thỉnh nguyện,
thể dâng hương, thể đổi nhịp, thể đảo và thể oán.
Thể Thỉnh Nguyện dùng khi mới vào cuộc lễ đồng; thể
Dâng Hương khi những con đồng đã nhận lễ vật; thể
nhịp trình bày lời cầu nguyện, mong ước; thể Đảo
là mong đạt được những giải đáp cần thiết cho người
xin bóng;thể Oán trình bày sự tiếc nuối chưa dâng đủ
lễ nghi để chóng lành bệnh. Cứ mỗi thể như vậy có
hàng chục bài hát khác nhau. Theo nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba
trong tài liệu "Hát chầu văn Huế", tính
ra có trên 200 bài hát chầu văn được tìm thấy. Mỗi bài
được đặt tên theo những chữ trong câu đầu của bài.
Nhịp điệu chầu văn cũng phải thuận theo thể điệu;
có khi là nhịp hai chữ chồng tréo có khi là ba nhịp hoà
ca có khi là bảy nhịp trải đều (Tạp Chí Sông Hương).
Trong
chầu văn, vai trò người cung văn vô cùng quan trọng trong
việc dẫn nhập toàn bộ phiên chầu đồng bóng. Trong
Việt Nam Phong Tục, Phan Kế Bính cho biết tình trạng như
sau: Bọn Cung văn đàn ngọt hát hay, thì đồng ban thưởng
cho tiền, cho lộc; Nịnh hót khéo nữa thì cókhi đồng
cởi cả ruột ban cho. Khung cảnh hầu đồng của con công,
đệ tử(hầu đồng) khá phức tạp khi chầu chực nghe
lời phán của con đồng: đồng phán ra những tiếng ỏn
a ỏn ẹo mà truyền bảo người có bệnh; có khi đồng
làm ra mặt giận hờn vì nhà chủ không thành, thì các
người hầu bóng bên cạnh lại kêu kêu, khấn khấn, van
van, lạy lạy, tâu trình cho được lòng đồng thì đồng
lại hả hê truyền phán. Khung cảnh cứ thế mà thay đổi
không ngừng.Tại những đền miếu có sự phối tự giữa
việc thờ Phật và thờ Mẫu, thì thời điểm cúng tế
không theo hạn kỳ nhất định.
Chẳng
hạn
: những ngày lễ chính trong năm
vẫn là lễ Nguyên đán, vía DiLặc, ngày lễ Phật đản,
lễ Xá tội vong nhân. Sự phối hợp thờ cúng nầy đã
lôi cuốn nhiều tín đồ tin tưởng khác nhau và trở nên
đa dạng. Có trường hợp khác biệt theo định kỳ hàng
tháng; chẳng hạn như tại chùa Nam Nhã (Cần Thơ), đền
thờ Mẫu tổ chức cúng tế mỗi tháng ba lần: ngày mồng
1, ngày 11 và ngày 21 âm lịch. Nhưng tại những chùa
người Hoa, có thờ bà Thiên Hậu, thì ngày lễ vía lớn
nhất trong năm nhằm ngày 23 tháng 3 âm lịch.
Ở những đền miếu
khác,như ở Dinh Cô (Long hải, Bà Rịa), ngày hành lễ
chính thức trong năm kéo dài từ 10 đến 12 tháng hai âm
lịch.Trình tự tổ chức: Cũng như cách thờ cúng khác
nhau của mỗi chùa, trình tự tổ chức các buổi lễ cũng
không giống nhau. Tại nhiều đền thờ ởBến Tre, những
nghi thức lễ lượt không khác gì với những lễ
cúng khác, nhưng bao giờ cũng có hát bóng rỗi kế tiếp.
Tại Long An, thông thường những lễ cúng đền miếu có
thờ Mẫu (chính hay phụ) hay tại nhà riêng, sau nghi lễ
chính thức, thường kèm theo hai lễ tục khác: hát bóng
rỗi và diễn chặp Địa Nàng. Tại tỉnh Định Tường,
lễ tục tiếp theo là đồng bóng. (Theo Đại Nam Nhất
Thống Chí).
Múa
Đồng Bóng
Trên
bình diện chung thì có lẽ múa tôn giáo của người Việt
không thể không có những tính chất chung của múa tôn
giáo ở các nền văn minh nông nghiệp phương Đông. Tín
ngưỡng dân gian là một trong những hình thức sơ khai của
cáctôn giáo, cho nên trong số những loại múa tôn giáo
trong thời cổ của một số địa phương, trước hết
phải kể đến: múa ma thuật, múa lên đồng.
Trong
Đạo Giáo có những yếu tố trong nền tín ngưỡng dân
gian. Khi tôn giáo phát triển từ đa thần đến độc thần
và các tôn giáo được du nhập từ nước ngoài vào Việt
Nam như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo đã dần dần chiếm
địa vị quan trọng trong tâm linh của người Việt. Cũng
như Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo cũng có
những nghi thức cần thiết và những thể điệu trong
khi hành lễ. Những thể điệu và nghi thức nầy trong
Đạo Giáo cũng mang ý nghĩa là những tín hiệu thông tin
giữa người và thàn linh trong Đạo Giáo. Theo một số
quan niệm của người xưa, thì những phù thủy hay những
ông đồng, bà cốt là những người giữ chức năng về
tín hiệu thông tin đó. Những điệu muá: Tất cả
được phân chia ra làm 8 loại múa lên đồng bóng:
(a)
Múa kiếm
: được dùng khi những
quan lớn nhập vào con đồng. Những quan lớn được phân
chia ra làm 4 loại: Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ
tứ. Khi múa kiếm thì phải có hai nhạc cụ phụ theo: đó
là trống và beng beng. Quan trọng nhất trong múa kiếm là
những động tác về tay. Chẳng hạn gác hai kiếm lên hai
vai; chéo kiếm trước mặt, vừa múa vừa nhảy; dắt
kiếm trở vào thắt lưng.
(b)
Múa mồi
: dùng những nhang đèn
trong khi múa. Múa Mồi chỉ dùng trong trường hợp hồn
nhập là mẫu Đệ Nhất Thiên hay trong trường hợp múa
Chầu Bà. Mồi thường làm bằng giấy có tẩm thêm nến
để bắt lửa, rồi sau đó xoắn theo kiểu dây thường,
dài khoảng 2 tấc tây là vừa. Múa mồi cũng là loại múa
đơn và không có kết cấu nào cố định cả.Những động
tác chính trong loại múa nầy là: chéo tay trước ngực,hoa
tay cầm mồi, uộn bàn tay trong các thế (tay thấp, tay
cao; hai tay dang ngang hình cữ V...) đồng thời cũng kết
hợp với những động tác nhảy từng bước ngắn; tất
cả đều theo nhịp phách và trống.
(c)
Múa chèo đò thường thể hiện
trong khi con đồng thế thân cho cơ "Bơ Thoải".
Văn chèo đò thường theo một thể điệu đặc biệt.
Danhtừ "Bơ Thoải" là tiếng đọc trại ra và gọi
tắt của Ba Thủy. Theo cách múa nầy, thì hai tay của con
đồng cầm hai mái chèo, bên trên có buộc hai sợi chỉ
màu đỏ. Cô đồng Bơ Thoải chống vào máichèo để múa.
Những động tác chủ đạo bao gồm có: hai mái chèo
rời;hai mái chèo nhập một. Những bước múa là: bước
nhún tới, bước lùi lui, bước khoả chân,bước đá lùi.
Loại nầy cũng thường là múa đơn nữ và không có kết
cấu theo quy định sẵn
(d)
Múa quạt thường thực hiện khi
chầu đồng Đệ Tứ Khâm Sai Thượng Thiên. Đây cũng là
loại múa đơn nữ, không theo một kết cấu nhất định
nào cả. Loại nầy là điệu múa tôn giáo thuần túy của
dân tộcViệt Nam. Quan trọng hơn hết là sự kết hợp
những động tác của quạt với động tác nhảy chéo
chân. Động tác của quạt thì gồm có: guộn quạt lại,
giật quạt lên xuống, quay quạt theo vòng tròn hay bán
nguyệt.
(e) Múa cung thường
thể hiện khi xác động nhập là ông Hoàng Mười, ông
Hoàng Bảy hay ông Hoàng Ba. Một tay thì cầm cung, đồng
thời chân nhảy theo một vòng tròn. Khi vừa quay cung thì
mắt cũng hướng về phiá trước như tìm mục tiêu. Khi
phát hiện được mục tiêu rồi, thì rút một que nhang
lắp vào cung và quỳ xuống để bắn ra. (f) Múa thanh
long chỉ dùng khi xác đồng là Quan Lớn Tuần Tranh (tức
là Đệ Ngũ Long Vương) Múa thanh long thường có các loại
trống to nhỏ đệm theo.
(g)
Múa hèo thường có trống đệm theo qua những khúc múa.
Những người múa thường phải theo một thế võ. Mỗi
ông Hoàng đều phải dùng thế võ khác nhau.
Múa lân là phần sau cùng cũng là phần ngắn nhất trước
khi chấm dứt buổi lễ. Bà đồng ngồi xuống chiếu
trong khi đó thì những côhầu mời trà nước, bánh trái.
Nhiều nơi giản lược tùy hoàn cảnh và phạm vi tổ
chức.
Phân
Loại
Những
vị Mẫu nhân thần được phân chia ra làm hai biệt loại:
Những vị Mẫu vốn là những nhân vật lịch sử có
thực như Y Lan Hoàng thái hậu (đời Lý), bà Phạm Thị
Ngọc Trần hoàng hậu (đời Lê). Loại thứ hai là những
vị có gốc gác là những nhân vật huyền thoại như:
công chúa Liễu Hạnh, bà mẹ của Phù Đổng Thiên Vương,
bà Âu Cơ... Cũng có thể phân chia theo tước hiệu, theo
ba loại khác nhau:Vương Mẫu, Quốc Mẫu và Thánh Mẫu.
a- Vương Mẫu
Vương Mẫu là vị
Mẫu có liên quan đến vua chúa trong triều đình, dù là
thực chất hay là huyền thoại. Chẳng hạn như bà mẹ
của thánh Gióng, được tôn thờ là Đổng Xung Thiên
Thần Vương Mẫu. Hiện nay đền thờ của bà được tổ
chức, xây dựng rất hoành tráng tại xã Thị Cầu, thị
xã Bắc Ninh. Căn cứ theo thần phả còn được bảo lưu
tại ngôi đền thờ nầy thì bà là người nghèo khổ ở
làng Phù Đổng (nay thuộc Gia Lâm, Hà Nội).
b- Quốc Mẫu
Những
vị Thần Mẫu được dân chúng xưng tụng là Quốc Mẫu,
thậm chí một số được triều đình trước kia sắc
phong nổi tiếng là: Bà mẹ trong huyền thoại Âu Cơ. Căn
cứ theo truyền thuyết ghi lại thì mà là "mẹ của
tất cả con dân nước Việt", được ca tụng là
Mẫu của cả nước nên được gọi tên là Quốc Mẫu.
Nhiều sách sử khác lại gọi Âu Cơ là mẹ của giống
giòng. Tương truyền bà là vợ của Lạc Long Quân, đẻ ra
bọc trăm trứng (thần Bách Noãn) ở vùng rừng núi Cố
Tích (trong khu vực đền Hùng ngày nay).
Bọc nở ra một
trăm người con; trong số 50 người theo Lạc Long Quân về
miền duyên hải; trong khi đó thì 49 (hay 50) người con
khác thì theo bà Âu Cơ lên núi. Người con trưởng nhận
nhiệm vụ dựng lên nước Văn lang, tức là vua Hùng
Vương thứ nhất. Khi nhận thấy phong cảnh trong vùng
đất Hiền Lương tươi đẹp, cây cối sum suê, cuộc sống
có thể đảm bảo, Mẹ dừng chân, cho đẵn gỗ chò để
dựng nên nhà cửa,lập cơ nghiệp tại đây. Những đoạn
sử thi chép về giai đoạn nầy trình bày như sau "Mẹ
gọi nước Ghềnh Hạc dội về. Mẹ gọi gió Chằm Lâm
thổi ngược trở lại. Mẹ uốn sông Cái chảy đằng
trước, xếp núi non trùng điệp ở đằng sau. Mẹ bảo
con cháu khơi thêm ngòi Văn Thủy bên trái, khơi ngòi Đại
Lương bên phải.
Mẹ bảo dân đào thêm Ao Muội và Móng
Muội để thả cá. Mẹ dạy dân đắp những gò trồngcây;
như Gò Cám, Gò Thị, Gò Xung. Mẹ tìm ra hạt lúa. Mẹ dạy
dâncấy cày. Mẹ dệt vải che thân. Mẹ dạy nhồi bột
với nước mía làm bánh voi..."
Đoạn
trên đây được ghi trong thần phả. Cũng là đề tài
trong những khúc hát dân gian. Như vậy, mẹ Âu Cơ và cha
Lạc Long Quân đã trở thành thủy tổ của Bách Việt.
Tuy nhiên, bà Âu Cơ thì được thờ phụng ở nhiều
nơi,trong khi đó thì đền thờ Lạc Long Quân chỉ được
thờ duy nhất tại là Thuỷ Xá, vùng duyên hải Thái Bình.
Theo những tục lệ thờ cúng,thì việc thờ bà Âu Cơ
giống như thờ cúng tổ tiên trong tập tục,chứ không
theo một dòng tín ngưỡng nào như phong tục thờ các vị
thần gốc của nhiều dân tộc khác ở Đông Nam Á. Khi
thờ cúng mẹ Âu Cơ được đặt tại đền, thì gọi là
đền Quốc Mẫu. Tính ra có 12 đền thờ theo hệ thống
nầy. Ngoài ra, một viện dẫn thứ hai nữa, khiến cho mẹ
Âu Cơ trở thành Quốc Mẫu vì bà là mẹ của vua Hùng
Vươngthứ nhất trong lịch sử. Theo quan niệm cổ truyền
thì bà Âu Cơ là vị Mẫu nghi trong thiên hạ. Việc nhận
định nầy nầy đã mấy nghìn năm đến nay trong tín
ngưỡng vẫn không thay đổi.
-
Một vị Quốc Mẫu khác cũng được thờ cúng nhiều
nơi là Huyền Thánh Mẫu, tức là bà Phạm Thị Ngọc Trần.
Bà là người vợ cả của vua Lý Thái Tổ (Lê Lợi). Thần
phả viết: Bà là người ở xã Quần Đội, huyện Lôi
Dương, tỉnh Thanh Hoá, làm vợ Lê Lợi ngay khi chưa có
cuộc khởi nghĩa đất Lam Sơn. Trong thời kỳ chống lại
quân nhà Minh, bà phải di chuyển không ngừng, lặn lội
hầu chồng, phải trải qua không biết bao nhiêu cảnh gian
truân. Năm Ất Tỵ (1425) Lê Lợi đem quân vào đánh lấy
đất Nghệ An, khi nghỉ đêm tại xã triều Khẩu, nằm
mộng thấy thần nhân đền Phổ Hộ (Lam Sơn) đến xin
một người tỳ thiếp, hứa giúp đánh thắng quân giặc.
Sáng sớm ra Lê Lợi đem câu chuyện ứng mộng hỏi các bà
vợ, thì mọi người đều lo ngại. Riêng bà Trần thì vui
vẽ nhận lời. Trong lần ấy, quả nhiên bà chết tại trận,
nhưng Lê Lợi thì chiến thắng vẽ vang trong những
biến chuyển trận địa không thể ngờ tới được, mà
nhiều người cho là có thần giúp đỡ. Linh cữu của bà
được đưa về, tới xã Thịnh Mỹ thì nghỉ lại qua
một đêm, kiến đùn lên phủ lấy áo quan thành một đống
trông như ngôimộ. Lê Lợi nghĩ đến chuyện nằm mộng
trước đây, liền cho dựng đền thờ, sắc phong mỹ tự
là Hiếu Nhân. Đến năm 1434, vua Lê Thái Tông lên ngôi,
truy tôn mẹ là Cung Từ Quốc Thái Mẫu. Năm Thiệu Bình thứ
tư (1437) lại truy tôn thụy hiệu là Cung Từ Quang Mục
Thái Mẫu, lập đền thờ Cung Từ hoàng hậu ở xã Thịnh
Mỹ, huyện Lôi Dương, tỉnh Thanh Hoá.
Một
trường hợp đặc biệt: một vị nữ lưu Trung Hoa được
thờ cúngvà trở thành Quốc Mẫu: đó là hoàng hậu vua
Tống Độ Tông được triều đình tôn phong là Quốc Mẫu,
cũng nằm trong trường hợp tương tự. Thần tích chép:
vào cuối niên hiệu Trùng Hưng (1278 - 1279) quân Tống bị
quân Mông đánh tan ở Nhai Sơn; vua Tống Bính phải đem
gia quyến và bề tôi gồm hơn 800 người lên thuyền trốn
ra biển. Trong khi thế cùng, lực tận, lại bị quân giặc
đuổi theo gấp, vua tôi đã nhảy xuống sông tự tử. Tử
thi thái hậu họ Dương và ba nàng công chúa trôi dạt vào
cửa Cờn ở huyện Quỳnh Lưu; sắc mặt của họ vẫn hồng
hào như khi còn sống. Dân chài lưới ở đây cho là linh
dị,chôn cất tử tế và lập am để thờ phụng. Phàm
những người vào lộng ra khơi, dân chài lưới hay những
người làm nghề đi biển thường đến cầu khấn ở đền.
Họ đều được độ trì bình yên.Khi vua Trần Anh Tông
đem quân đi đánh Chiêm Thành, qua cửa Cờn,đêm nằm mộng
thấy một nữ thần đến khóc lóc, tâu với nhà vua rằng:
"Thiếp là cung phi nhà Triệu Tống, bị giặc bức
bách, lại gặp sóng gió nên trôi dạt đến đây. Bấy lâu
thần thiếp được Thượng Đế cho làm Thần Biển. Nay bệ
hạ đem quân đi chinh phạt phương Nam thì thần xin được
lập công". Khi tỉnh dậy nhà vua ngạc nhiên,liền cho
gọi những vị bô lão trong vùng đến hỏi ngọn ngành
vềtrường hợp nầy, rồi sau đó đã làm lễ kính tế.
Khi lên đường, mặc dù trong mùa giông bão không ngừng,
nhưng lại được sóng yên biển lặng, và sau đó chiến
thắng vẽ vang tại thành Đồ Bàn.Đến lúc trở về, nhà
vua lại sai quan Hữu ty lập đền thờ, sắc phong là Thượng
đẳng Quốc Mẫu Vương bà, tứ vị Thánh nương. Về sau,
vua Lê Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành (1469) qua cửa
Cờn cũng đã vào đền thờ nầy để cầu đảo. Đến
khi trở về, thuyền ngự đi qua cửa Biện, bỗng nhiên gió
đông nổi lên, khiến cho thuyền bè đều phải theo chiều
gió cuối cùng quay lại trước cửa đền. Nhà vua hạ lệnh
làm lễ tế, lại sai quan lại địa phương tu sửa đền
miếu,gia phong thêm phẩm trật cho Thần; nhân đó, gọi
chỗ thuyền quay lại là xã Hồi Chu.
Trong
hệ thống thờ những vị thần Quốc Mẫu, cũng có trường
hợp đặc biệt: có vị không phải là mẹ vua, vợ vua,
nhưng cũng được gia phong; đó là Diệp Phu nhân được
suy tôn làm Quốc Mẫu Thánh ân.Đền thờ của bà lập ra
ở xã Bách Lãm, huyện Trấn Yên, tỉnh Yên Bái. Thần phả
không ghi rõ công đức của vị Quốc Mẫu nầy.Trong
trường hợp đa số những vị được tôn phong làm Quốc
Mẫu - dù trong thực tế hay trong huyền thoại đều là
những phụ nữ có chồng,có con, tuy nhiên trường hợp
của ba nàng công chúa con vua Tống Bính chưa hề làm vợ,
làm mẹ, nhưng liên hệ với bà thái hậu họ Dương cũng
vẫn được phong là Quốc Mẫu. Hàng năm, dù là dân
sống bằng nghề ngư phủ, đi thuyền buôn hay không, cũng
đều tôn kính, lễ bái và ái mộ những vị nầy.
Về
Quốc Mẫu còn nhiều biệt lệ khác nữa; chẳng hạn như
vị Thần Núi cũng được tôn phong làm Quốc Mẫu; đó là
trường hợp thần núi Tam Đảo. Theo thần phả ghi lại
tại đây thì vị Sơn nữ Thần linh Tam Đảo đã đem 3,000
quân xuống ngã ba Bạch Hạc tử chiến với quân giặc
phương bắc xâm lược, giải nguy cho nước Văn Lang đời
vua Hùng. Khi đã chiến thắng quân giặc, vị nữ thần núi
nầy đã không chịu hưởng bỗng lộc của triều đình,
từ chối mọi chức tước, trở lại với vùng núi thiêng.
Vị thần nầy được sắc phong là Tam Đảo Sơn trụ Quốc
Mẫu Thái phu nhân. Đền Tây Thiên được dựng lên
trên đỉnh Tam Đảo. Nhiều huyền thoại chung quanh vị
thần nầy; chẳng hạn như câu chuyện vua Hùng Vương thứ
17 đã đến vùng núi nầy, gặp nữ thần, lấy làm vợ.
Dĩ nhiên chỉ là thoại, nhưng dân chúng vẫn tôn thờ và
ghi trong thần phả.
Quốc
Mẫu không hầu toàn là người trong đẳng cấp cao sang.
Nhiều trường hợp đã thoát hẳn. Vào đời Lê Lợi, có
đến năm bà Quốc Mẫu xuất thân là hạng nghèo nàn: bà
mẹ bán dầu được thờ làm Quốc Mẫu trên núi Dầu,
Thanh Hoá; bà lão bán nước vối làng Vàng (nơi thờ bà
mang tên là đền Quốc Mẫu tại Hoằng Hoá, tỉnh Thanh
Hoá); bà mẹ xé giải yếm (có đền thờ và một cánh
đồng rộng mang tên là cánh đồng Mẫu Hậu ở Thọ Xuân,
Thanh Hoá); bà mẹ bán rau (hiện còn có Bến Rau Quỳ ở xã
Hoằng Quỳ, huyện Hoằng Hoá, Thanh Hoá, do vua Lê Thái Tổ
đặt ra); bà Tân Thị Thắm ở làng Sặt, Tiên Sơn, tỉnh
Hà Bắc.
Tuy
nhiên, dù trong giai tầng xã hội nào, địa vị nào, nhưng
đã được tôn thờ là Quốc Mẫu (do triều đình ban
phong), là đều mang những tính chất chung như sau: (a) Có
những công trình cứu nhân độ thế. (b) Được dân chúng
sùng bái, cầu khẩn hay triều đình sắc phong. (c) Dù trải
qua bao nhiêu biến động xã hội, nhưng dân chúng vẫn
dựng đền thờ và tu bổ không ngừng. (d) Hằng năm đều
có những hội lễ lớn.Trong những cuộc gia phong Quốc
Mẫu, có khi được tôn phong ngaytừ khi còn sống, nhưng
khi chết đi, lại không được dân chúng lập đền thờ.
Đó là trường hợp
của những người trong hoàng tộc, không được dân chúng
quan tâm đến và cũng không liên hệ gì với dân gian cả
như bà Trần Thị Dung, mẹ của Lý Chiêu Hoàng (tức là
mẹ vợ của Trần Cảnh, vị vua đầu tiên trong triều
nhà Trần; và cũng là mẹ vợ của Trần Liễu, thân phụ
đức Trần Hưng Đạo. Trong Đại Việt sử ký toàn thư có
chép: Trần Thị xưng tán là Quốc Mẫu, vốn tước hiệu
của Ngô phu nhân, tức là Hoàng hậu. Thái Tôn thấy
Linh Tư đã từng làm Hoàng hậu của Lý Huệ Tôn, không nỡ
gọi công chúa,cho nên phong làm Quốc Mẫu, cũng là tên
gọi riêng của Hoàng hậu.
c- Thánh Mẫu
Ngoài
Vương Mẫu, Quốc Mẫu ra, một số còn được tôn phong
làm Thánh Mẫu, với ý nghĩa của bậc thần thánh. Sau đây
là những trường hợp của Thánh Mẫu: Bà Y Lan, nguyên phi
của vua Lê Thánh Tông, mẹ vua Lý Nhân Tông.
Bà
có tài tham gia quốc sự. Đương thời, khi vua Lý Nhân Tông
mới 7 tuổi, bà đã cùng với Dương thái hậu buông rèm
nhiếp chính, xét các công việc cùng với thái sư Lý Đạo
Thành. Trong giai đoạn nhiếp chánh, bà từng thi hành chính
sách giúp đỡ cho dân nghèo, khuyến khích dân chúng chăm
lo phát triển nghề nông,nghề trồng dâu, chăn tằm. Sử
chép: vào năm Long Phù thứ 3 (1103),thái hậu đã phát tiền
trong kho nội phủ để chuộc những người con gái đã
phải bán đi, đem gã cho những người goá vợ. Bà từng
khuyên vua Lý Nhân Tông xuống chiếu định việc cấm giết
trâu bò một cách bừa bãi, để dùng trong việc cày bừa.
Thành thử, bà được dân chúng khắp mọi nơi ngưỡng mộ.
Khi bà qua đời, nhiều địa phương trong nước đã lập
đền thờ, để tỏ lòng biết ơn đức độ của bà. Tại
đền thờ Yên Thái, vốn xưa là cung cũ của bà, có trên
bức hoàng phi,đề từ "Lý Đại Mẫu Nghi".
Công
chúa Liễu Hạnh mà sự tích và huyền thoại đã được
nhiều người biết đến. Theo phần nhiều sách sử chép
lại thì bà là con gái của Ngọc Hoàng, vì phạm lỗi, bị
đày xuống trần gian, thác sinh vào nhà họ Lê từ đời
Thiên Hiệu (1557). Bố mẹ đặt tên cho nàng là Giáng Tiên,
gả chồng năm 18 tuổi. Ba năm sau, khi nợ trần đã dứt,bà
được gọi trở về trời, nhưng vẫn nhớ chồng con;
thành thử Ngọc Hoàng lại phải cho nàng trở lại miền
hạ giới. Nàng trở về thăm và sắp đặt lại gia đình,
nhưng không lưu lại. Sẵn có phép nhiệm mầu khi hiễn
thánh, bà thường vân du khắp nơi. Bà cũng thường ban
nhiều ân đức cho nhiều người nghèo khổ khi cần đến
bà.Nhưng rồi thời gian gia hạn cũng đã qua, bà lại xin
Ngọc hoàng gia hạn thêm nữa. Nàng đã giáng sinh về vùng
Phố Cát - Thanh Hoá,rồi sau đó ở vùng núi Sòng. Tại
đây, triều đình cho quân lính đến tiễu trừ, vì cho bà
là giống yêu quái. Nàng đã dùng phép thuật để chống
lại, khiến cho quan quân triều đình thất bại. Về
sau,nhà vua phải cầu viện vị đạo sĩ là Tiền Quân
Thánh mới chinh phục được Nhưng đức Phật đã hiện ra
để cứu bà. Thành thử, triều đình phải lập đền thờ,
tôn là Mã Hoàng Công chúa, rồi sau đó được tônphong
thêm là Chế Thắng Đại Vương. Vị nữ thần nầy rất
linh thiêng, thường ban ân đức cho dân chúng,cho nên được
mọi người tôn là Thánh Mẫu.Cũng theo những đoạn ghi
chép trong thần phả thì vị Thánh Mẫu nầy cũngđã góp
công đánh giặc ngoại xâm, cũng như đã giúp nhà vua
trừng phạt một số người phản nghịch. Ở Vụ Bản
(Phủ Giầy) Thạch Thành(Phố Cát), Hà Trung (Đền Sòng),
dân chúng địa phương đã góp công của dựng lên những
ngôi đền thờ lớn. Hằng năm đều mở hội phụng thờ
vị Thánh Mẫu nầy. Những dịp lễ thường có tổ chức
hội hè, rước kiệu, đồng bóng, phóng sinh, phóng đăng
trong suốt một tuần lễ.Rất nhiều nơi khác trong cả
nước đều xây điện thờ Liễu Hạnh CôngChúa.
Nhiều
ngôi chùa lớn, được thiết kế theo kiểu "tiền
Phật,hậu Mẫu" thì Liễu Hạnh Công Chúa được tổ
chức cúng bái nhiều nhất. Theo giáo sư Trần Lâm Biền,
trong giai đoạn suy thoái của Phật Giáo, nhiều ngôi chùa
lại thờ thêm Liễu Hạnh Công Chúa, để thu hút tín
đồ.Trường hợp Thánh Mẫu Ngọc Chi cũng được thờ
phụng không kém. Bà tên là Diệp Thị Ngọc Chi, vợ của
viên quan huyện, dưới thời cai trị của viên thái thú Tô
Định.
Tên thái thú nầy đã
sát hại chồng của bà, cho nên bà cùng với hai người
con đã trốn đến vùng đấtYên Canh - Nhân Vũ (trong địa
phận Vĩnh Phú ngày nay) tập hợp dân chúng lên đến hàng
ngàn người, tham gia cuộc khởi nghĩa sát cánh với Hai bà
Trưng. Sau khi chiến thắng vẽ vang, bà Ngọc Chi được
phong là công chúa, người con cả được phong làm Tham tán,
người con thứ được phong làm Điều vát tướng quân. Cả
ba mẹ con về vùng Yên Canh -Nhân Vũ lập cung quán, đồn
quân. Cả vùng đất rộng lớn, màu mỡ được khai phá,
trồng trọt. Dân chúng được sống ấm no trong một thời.
Thời gian sau đó bà và người con cả qua đời, dân
chúng trong vùng thương xót lập đền thờ ngay tại chốn
cung cũ. Khi Mã Viện kéo quân sang, người con thứ của bà
chỉ huy quân lên biên ải, đã chiến đấu anh dũng và ngã
xuống ở trận tiền. Để tưởng nhớ công ơn của ba mẹ
con bà, từ 2,000 năm nay, bà được tôn phong làm Thánh Mẫu,
dân trong làng và những vùng lân cận thường hương khói
thờ phụng. Từ các triều Đinh, Lê, Lý... bà được nhiều
vị vua sắc phong tước vị và ban nhiều lời đẹp đẽ
để biểu dương công đức của người Mẫu với non sông.
Người con cả được các triều đình tôn là Hoàng Cả và
phong tặng là Đại Vương Minh Láng Vũ ứng; người con thứ
đượ tôn là Hoàng Mai, phong tặng là Đại Vương An
Nghĩa. Cả ba vị đều được lập ba đền thờ, quanh năm
dân chúng hương khói tưởng niệm.
Qua
những chứng liệu kể trên cho thấy: những vị được
tôn phong Thánh Mẫu dù xuất xứ nguồn gốc khác nhau, tuy
nhiên, họ đều có điểm chung là những người phụ nữ
giàu lòng từ bi, nghĩa hiệp,được dân chúng kính trọng
và thờ phượng. Ngoài ra, sự hiễn linh của những vị
Mẫu nầy cũng được mọi người xác nhận.Cũng có một
số trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn như Thiên Hậu
Thánh Mẫu. Nàng nguyên là con gái họ Ôn, người Phúc Kiến
- Trung Hoa.Khi lên tám tuổi, nàng được phép học tiên;
năng 12 tuổi thì luyện được kim đan, có biệt tài hô
phong hoán vũ. Vị Thánh Mẫu nầy cũng từng bay ra ngoài
biển khơi để cứu giúp cho những thuyền bè gặp hoạn
nạn. Vào đời nhà Tống và nhà Minh được phong tước
Luân Mẫu;đời nhà Thanh thì được phong là Thánh Mẫu.
Những người Hoa chống lại triều Mãn Thanh, vượt biển
ra đi đều thờ Thánh Mẫu Thiên Hậu.Họ tin là Thánh Mẫu
sẽ hộ trì những chuyến đi thành công.
Đền Phủ Giày ở
tại làng Vân Cát, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định là
nơi thờ bà Liễu Hạnh Công Chúa.
Theo tục
lệ trong vùng nầy thì hằng năm cứ đến ngày mồng một
cho đến ngày mười tháng ba âm lịch tại đây thường
tổ chức lễ hội Phủ Giày. Dân chúng trong vùng cũng như
những nơi xa từ các tỉnh Ninh Bình, Thái Bình, Thanh Hoá
đến dự lễ lên đến hàng trăm ngàn người. Một trong
những nghi lễ thu hút nhất trong Hội Phủ Giày là chầu văn
lên đồng bóng.Ở những truyện tích liên quan đến Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, chúng ta thường gặp nhân vật nầy dưới
nhiều dạng thức: môt người yêu, một người vợ, một
người mẹ. Tất cả đều gần gủi với cuộc sống
bình thường của mọi người. Thánh Mẫu Liễu hạnh hiện
ra, khi là môt cô con gái, khi thì là môt nàng tiên (Giáng
Tiên), khi là môt nữ sĩ(trong việc đối đáp văn chương
với Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan),khi là môt nữ tướng
(giúp cho hai con đánh giặc) khi là môt vị Thần thưởng
Thiện, phạt Ác (như việc chống lại quân binh chúa Trịnh
quyết tiêu diệt đền thờ của Bà). Liễu Hạnh có hiếu
theo Nho Giáo, có pháp thuật theo lão Giáo, lại có lòng từ
bị hỹ xã, quy y theo Phật Giáo. Tuy nhiên, không môt tôn
giáo nào có thể kìm hãm được những hành động của
nàng được cả.
Nguyên
nhân là vì: nàng là tiên nữ từ Thiên Cung. nàng vẫn
cứ tồn tại, bất chấp tất cả mọi uy lực, luât lệ
của vua Lê. Kể cả những lúc phải đánh nhau với những
Thần Thánh nào đó, nàng cũng có trường hợp bị thua,
nhưng kết quả vẫn là được tôn vinh, chứ không bị
trừng phạt.
Tích:Theo
Ngọc Phả được bảo lưu tại Phủ Giày thì tiểu sử
của Liễu Hạnh Thánh mẫu được ghi chép đều đúng sự
thực hoàn toàn, không pha trộn những huyền thoại như một
số những nhân vật trong tục thờ Đạo Nội Tràng khác.
Sự tích Liễu Hạnh Công Chúa được truyền miệng theo
những nội dung khác nhau.Ngài sinh năm 1557 (triều vua Lê
Anh Tông tức là Lê Thiên hựu đệ nhất), tháng Thìn, ngày
Dần, giờ Dần. Tên thật của bà là Giáng Tiên, ái nữ
của ông Lê Thái Công (Lê Công Chính) thân mẫu là Trần
Thị Phúc, ở thôn An Thái, xã Vân Cát.Lê Công nguyên l7
dòng dõi họ Trần, nhưng vì hồi ấy nước Việt Nam ở
trong tình trạng nhiễu nhương, nhà Hồ làm sự thoán
nghịch, kế đến giặc Minh giả danh nghĩa "Phù Trần,
diệt Hồ" đem quân sang xâm chiếm nước ta, cho nên
những con chái họ Trần phần bị tàn sát, phần bị hành
hạ rất nhiều. Gia đình ngài cũng như nhiều gia đình
khác trong vùng phải đổi họ Trần ra họ Lê để tránh
khỏi tai họa đó. Từ khi đổi họ Trần ra họ Lê, đến
đời Lê Công tính ra được ba đời. Ông Thái Công vốn
là người nhân hậu, thích làm việc thiện. Ông bà đã
cao niên nhưng vẫn chưa con cái; về sau qua nhiều lần khấn
đảo thì sinh được một trai. Năm sau đó thì bà Thái
Công có thai đến 11 tháng vẫn chưa sanh ra. Bà đau ốm
thường xuyên, ít ăn uống mà chỉ thích ngửi hương hoa.
Người nhà nghi là bà bị tà ma ám ảnh, đi cầu khẩn
nhiều nơi,nhưng sức khoẻ cứ suy nhược dần. Cho đến
một hôm kia, vào tiết trung thu trong khi mọi người xem
hoa,thưởng nguyệt, bỗng có một người ăn mặc rách
rưới từ ngoài vào nhà ông Thái Công, tự xưng là có
pháp thuật cao cường, có thể trị được chứng bệnh của
bà Thái Công. Người nhà không tin, nhưng ông ta vẫn ân
cần tiếp đón.Người lạ mặt nầy tiến vào giữa sân
nhà, thò tay vào trong áo, rút ra một chiếc búa, nhảy lên
trên đàn tràng, hò hét, ngữa mặt lên trời lâm râm
tụng niệm. Trong khi mọi người đang phân vân hồ nghi,
thì bỗng trông thấy người nầy hét to lên một tiếng,
rồi ném mạnh chiếc búa vào chỗ Thái Công ngồi.Ông ta
hoảng sợ, bất tỉnh nhân sự. Một lúc sau thì ông tỉnh
lại dậy, và cũng ngay khi đó có tiếng trẻ khóc trong
phòng của bà: bà ta sinh được một gái. Hương thơm bay
ngào ngạt khắp nhà. Khi ngoảnh lại thì người lạ mặt
cũng không còn thấy được nữa. Ông Thái Công cho biết:
Trong khi mê man bất tỉnh thì thấy mình được dẫn đến
một cung điện nguy nga của bà Vương Mẫu. Khi đó, một
tiên nữ áo hồng sơ ý, đánh rơi chén ngọc, bị Vương
Mẫu quở mắng. Tiên nữ bị giáng xuống trần và đầu
thai vào gia đình của ông.Lê Công đặt tên người con
gái nầy là Lê Thị Thắng. Tên riêng của nàng được dân
chúng mệnh danh là Giáng Tiên, vì nàng có môt dung nhan kiều
diễn, phảng phất tiên cách, đẹp như nàng tiên
giáng trần. Giáng Tiên lớn lên, nhan sắc vô cùng kiềm
diễm, học hành thông minh, có tài âm nhạc, soạn nhiều
khúc từ phổ. Sống trong môt gia đình nền nếp, nho
phong, sung túc, cho nên nàng đủ phương tiện theo đòi việc
bút nghiên, thi thơ, kinh sử và nữ công: may vá, thêu
thùa.Hồi bấy giờ Giáng Tiên thật là một thiếu nữ
hoàn toàn nết na,duyên dáng, thông minh, lại có thiên tư
về thơ phú và âm nhạc.Những khi rảnh việc trong nhà,
Giáng Tiên thường dạo chơi quanh vườn nhà để ngâm thơ,
vịnh phú và hoà nhạc. (Hiện nay vườn di tích ất vẫn
còn ở phía sau phủ thờ mẫu tại xã Tiên Hương bây giờ).
Về sau Giáng Tiên kết duyên với một thanh niên họ Trần,
người ở thôn Vân đình, cũng thuộc xã Tiên hương, tên
là Trần Đào Lang.Tục truyền rằng: Trần Đào Lang là môt
cậu bé khi sơ sinh, không biết ai đem bỏ gốc cây đa đầu
làng. Mưu hưu quan đã cao niên họ Trần không có con, người
xã Tiên Hương, nhân đi dạo cảnh, bắt được,đem về
nhà nuôi nấng và nhận làm nghĩa tử, lớn lên được sự
rèn luyện của Trần Công, Trần Đào lang cũng có môt căn
bản văn chương lỗi lạc hồi bấy giờ.Sau khi thành hôn,
Đào Lang ra ý quyến luyến nơi phòng the, lộ vẽ trễ nãi
việc học hành. Nhân lúc canh khuya dệt vải, Giáng Tiên làm
mốt bài thơ 28 vị tinh tú, để khuyên chồng nên gắng
sức trong việc kinh sử:"Nữ" nhan thùy vị viễn
thư "phòng""Tất" bả "nguy" "tâm"
định chủ "chương"Lân chẩn thất hư phân tích
diệm,"Nguyệt" "đô" "mão" đốc
tá "lầu" quang."Liễu" văn "tinh"
bỉnh tu "tham" cứu"Cơ" truyền "ngưu"
vĩ yếu tinh tường"Trủy" khoá "khuê" hàn
tranh "quỷ" "đẩu"Võ môn "dực"
vỹ sấn dương "cang".Sau khi nghe xong thì Đào Lang
cũng đã họa lại môt bài thơ Đường luật có tên 28 vì
sao để thông cảm với ý của vợ:Thôn "ngưu"
quật "tỉnh" chí phương "cang""Cơ"
thụ "sấm" truyền dĩ "tất" tường."Đẩu"
"thất" "bích" đề kinh "qủy"
đảm,"Nguy" "lâu" "khuê" vịnh
động "tinh" quang."Dốc" tài thủy "vị"
"đê" dương "liễu""Mão "dực' đa
"tâm" "vỹ" bán "trương"Tố nhữ
"thanh" "hư" ưng "chẩn" ngã,Quế
chi "Nguyệt" "trủy" tuyển văn "phòng".
Ngay
sau khi ấy, chàng Trần Đào lang trở nên chuyên cần với
việc đèn sách như xưa.Giáng Tiên từ khi về nhà chồng,
mọi cách đối xử với mọi người trên dưới rất thuân
hoà, khiêm cung, nổi tiếng là người vợ hiền,dâu thảo;
được môt năm sau sinh được một trai đặt tên là
Trần Nhâm.Giữa lúc gia đình đang sống trong cảnh an vui,
đầm ấm, thì Giáng Tiên tự nhiên lâm bệnh trong môt thời
gian ngắn rồi qua đời. Năm ấy là năm 1578, ngày Mồng ba
tháng Ba, thọ 21 tuổi. Mộ táng của nàng tại xứ cây đa
Tiên Hương; hiện nay vẫn còn mô thời Giáng Tiên.
Năm 1938, những người
trong họ Đào cũng với thiện nam, tín nữ thập phương đã
góp công cửa để trùng tu lại thành môt ngôi lăng nguy
nga tráng lệ như còn thấy hiện nay khi đến lễ bái.Người
trong làng nghe câu chuyện nầy, nên lập đền thờ và gọi
là Tiên Chúa.Hồn Tiên Chúa có lần về gặp chồng mình
và cho biết hết mọi chuyện. Tiên Chúa rất linh thiêng và
cứu giúp nhiều người. Tiên Chúa thường xuất hiện nhiều
nơi.
Hội
Phủ Giầy
Nếu
muốn biết rõ nghi lễ thờ cúng Liễu Hạnh Công Chúa,
tốt hơn hết là trở về với Hội Phủ Giầy. Đây là
nơi quê hương của Công Chúa, mà những tín đồ qua nhiều
đời đã xây dựng và trùng tu không ngừng để trở thành
một quần thể kiến trúc rất nguy nga. Một hội đồng
quản trị được luân phiên bầu ra để tổ chức cúng
bái, trùngtu và phát triển. Hội Phủ Giầy có nhiều
điện thờ. Điện chính là Phủ Tiên Hương là nơi thờ
chính thức. Ngoài ra, Phủ Vân Cát (hay Phủ Vân) được
gọi là Đền Trình. Lý do là trước khi đến hành lễ ở
Phủ Chính, thì phải lễ tại Đền Trình, như để xin
được phép cúng bái và cần khẩn.
Một hệ thống những
đền thờ khác được dựng lên trong quần thể kiếntrúc
nầy: đó là Đền Công đồng (thờ các quan Hoàng) Đình
Ông Khổng(tương truyền là thờ ông Khổng Minh Không, tức
là Nguyễn Minh Không, vị quốc sư đời Lý) Đền Vua, Phủ
Nội (thờ những nhân vật bên nội của bà Chúa Liễu)
Phủ Tổ (nơi cúng tế tổ tiên), Đền Thượng (thờ công
chúa Thượng Ngàn) Đền Giếng (thờ Công chúa ThủyCung)
Đền Cây Đa, Đền bà Chánh (do người vợ của một viên
quan chánh án bỏ tiền ra xây), chùa Tiên Hương, chùa Long
Sơn. Xem như vậy, việc tổ chức thờ cúng nơi đây khá
phức tạp, nhằm mục đích để thoả mãn nhu cầu cúng tế
của thập phương. Nhưng dù bất cứ đền thờ hay đình
viện nào, thì việc tổ chức đồng bóng trong những
ngày đại lễ vẫn là chủ yếu.
Phủ
Chính là nơi trang trọng hơn cả. Phủ nầy có hướng
chính nhìn ra dãy núi Tiên Hương, phía sau là núi Lập Sơn,
đứng theo thế tiền án, hậu chẫm. Tất cả có ba toà
đền xây theo kiểu trùng thiềm trùng ốc.Từ ngoài vào
trong được gọi là đệ nhất toà, đệ nhị toà và
đệtam toà. Trong số nầy, quy mô nhất là đệ tam toà,
còn được gọi là hậu cung (hay chính cung), vì là nơi ngự
của đức Thánh Mẫu. Những điệu thức kiến trúc chung
quan toà nhà nầy gồm có: long, lân,quy, phụng, hình sóng
nước. Nhiều bức phù điêu chạm khắc những hành trạng
của Thánh Mẫu qua những lần giáng trần và hiễn
thánh.Bên cạnh, có ba toà nhà phụ, xây theo hàng ngang:
toà phương du(giành cho khách thập phương chuẩn bị trước
khi vào hành lễ) nhà bia trống và nhà bia chiêng.
Mỗi toà
nhà đều xây mái đôi, có tám mái, hai tầng. Để điều
hoà phong thủy, trước sân có lập hồ bán nguyệt.Trong
chánh điện, có ba hình tượng khác nhau của Thánh Mẫu:
hình tượng thứ nhất của Liễu Hạnh khi còn là con gái
của ông Lê Thái Công(tên là Giáng Tiên) với những đường
nét yểu điệu thướt tha; hình tượng thứ nhì là hình
của tiên nữ thoát tục; hình tượng thứ ba khoác áo cà
sa quy y Phật. Những tượng nầy được ghi chú đầy
đủtrong thần phải của Hội Phủ Giầy. Trong huyền tích
của Liễu Hạnh Công Chúa cũng ghi rõ ba giai đoạn nầy
trong hai câu: "Nào Tiên,nào Phật, nào ta; Sinh sinh, hoá
hoá, cũng là Bà đây".Từ ba pho tượng nầy, những
sách sử biên soạn về Liễu Hạnh CôngChúa có những
kiến giải khác nhau, mà chủ đích là khai triển cuộc đời
của Thánh Mẫu.
Trong
cuốn "Bà Chúa Liễu" của tác giả Hoàng Tuấn
Phổ giải thích thêm rằng: "Tam vị nhưng là nhất
thể; ba là một, một là ba. tương tự như thuyết Tam thế
của đức Phật. Tam tôn của đạo Lão Tam tài của đạo
Nho, Chúa Ba Ngôi của Đại Thiên Chúa..."Cũng hình ảnh
ba tượng nầy được diễn lại trong những kỳ hội.
Hàng năm,
cứ đến ngày mồng một tháng ba (âm lịch), hội lễ Phủ
Giầy khai kinh; lễ kéo dài trong suốt mười ngày đến
ngày mười tháng ba mới hoàn mãn. Hội Thánh Vân Hương
mỗi năm, dù thời chiến hay thời bình đã thu hút hàng
chục vạn người trong chín tỉnh chung quanh vùng đến hành
hương, cầu khẩn, lên đồng bóng. Trong suốt thời gian
nầy, ba lễ trong mỗi ngày, người tham dự vô cùng đông
đảo.Đây là một trong những ngày hội lễ lớn nhất
trên đất Bắc. Bên cạnh lễ lượt, còn vô số những
gian hàng dựng lên suốt một cây số:bán nhang đèn, bán
ảnh tượng Thánh Mẫu, bán hương hoa, bán nước Thánh,
nơi nghỉ chân, nơi giải khát...Suốt trong những ngày lễ,
nghi thức tổ chức gồm có: Khai kinh,mộc dục, rước
kiệu Thánh Mẫu, lập đàn chẩn tế, phóng sanh, phóng đăng,
tế thập loại chúng sinh.Trong quy định của Hội Phủ
Giầy, sinh hoạt nghi lễ theo chế định được ghi chép
trong chánh lễ như sau:
Ngày
thứ nhất: tổ chức Lễ Nhập Hội. Lễ nầy tổ chức
theo nghi thức của lễ Mở Cửa Phủ như những đền lớn
khác. Phủ Chính được quét dọn sửa sang, thiết trí rất
trang nghiêm. Thoạt đầu, ba hồi chiêng trống bát nhã
gióng lên. Những vị dự tế tiến vào Phủ dâng
hương.Những tiên nữ trong đội múa lục cúng sắp thành
4 hàng vừa dâng lễ vừa hát xướng theo tiếng nhạc, tam
thanh la và trống cơm. Sau đó là lễ tạ Thánh.Hồn chiêng
trống thứ nhì lại gióng lên báo hiệu Thánh Mẫu đã chứng
minh lễ vật. Pháo nổi vang lên và những giá đồng biểu
diễn 43 vũ khúc mừng Thánh đản. Ngoài ra còn có những
trò vui chơi khác, như múa lân, thi bơi trãi, ca nhạc với
hàng trăm đoàn ca múa khắp nơi hội tụ về. Buổi chiều
hôm đó, khắp 12 cửa điện trong đền Phủ Giầy đều có
lên đồng. Khó tả hết tiếng nhạc, tiếng chầu văn,
tiếng thét của đồng.
Ngày
thứ nhì: Tổ chức lễ mộc dục. Mộc dục là tắm gội
các pho tượng Thánh Mẫu. Bắt đầu là lễ rước nước.
Nước nầy được rước từ đền Giếng ở Vân Giang đến.
Đoàn rước nước gồm tám thanh nữ đồng trinh trong y
phục tiên đồng, cùng khiêng kiệu nước về đến Phủ
Chính. Lễmộc dục do bốn thanh nữ đồng trinh khác đảm
trách, do sự điều hành của viên Chánh Bái. Tất cả phải
được tập luyện từ nhiều ngày trước vànhững thanh
nữ phải ăn chay trường từ 15 ngày trước đó.
Khi
vào lễ, một bức màn hoa được căng trước của của đệ
tam cung, nơi ngự của Thánh Mẫu. Những cô gái đồng
trinh nầy dùng những tấm khăn đỏ nhúng vào nước giếng
để lau mình tượng. Sau đó thì đến lễ ướp hương.
Hương thơm được nấu bằng 5 thứ lá: trạch lan, trầm
hương,uất kim cương, an tức và nhân long. Mỗi thứ lá
có một màu khác nhau, trở thành màu nâu sẫm.Theo truyền
thuyết, nước tắm và khăn lau mình mẫy của Thánh Mẫu trị
bá bệnh. Hàng chục ngàn người sắp hàng để kiếm cho
nước vài giọt nước "ngũ hương" hay lụa đỏ.
Đi dự hội mà không xin được một chút nước hay chút
khăn vải đỏ trong lễ mộc dục là thiếu sót lớn.Nhiều
người rước lễ ra rồi bán lại, với giá rất cao.
Ngày
thứ ba: Giỗ Mẫu bắt đầu. Lễ nầy được tổ chức
theo đúng nghi thức của triều đình ngày trước, thuộc
về quốc lễ. Quốc lễ đây tức là thập cúng. Chủ lễ
là quan Khâm sai đại thần. Nếu không, triều đình đặc
phong quan Tổng đốc tỉnh Nam Định làm chánh lễ.Thập
cúng gồm có 10 cỗ lễ vật. Mỗi cỗ gồm: bánh dầy,
chuối ngự,lợn suông (chọc tiết, cạo sạch lông, nhưng
không luộc hay quay).Những cỗ cúng đều được quan Tổng
đốc giám định. Tổn phí do ruộng kỵ thuộc loại nhất
đẳng điền. Lễ giỗ nầy được tổ chức rất
trang nghiêm. Trang hoàng đủ theo nghi thức triều đình quy
định, gồm:cờ tiết mao, lọng xanh lọng vàng, chiêng
trống, bát bảo, lộ bộ.Nếu thiếu phải báo lên quan
Tổng đốc để trưng triệu.Ngày thứ ba quan trọng hơn
hết. Những ngày kế tiếp (từ ngày 4 đến ngày 10) chỉ
để lên đồng bóng và xin xăm.
Thỉnh
kinh: Trong những ngày hội Phủ Giầy có tổ chức nhiều
cuộc rước mà trong đó quan trọng nhất là đám rước
Thỉnh Kinh. Trong huyền thoại Công Chúa Liễu Hạnh được
đức Phật hộ trì, cho nên nhiều chùa chiền trong vùng
đều có thờ Tam Toà Thánh Mẫu là Mẫu Liễu vào hàng
đầu.Lễ rước tổ chức vào những ngày 5, 6 và 7 tháng
ba trong dịp lễ.Ngày đầu tiên đám rước thỉnh kinh đi
từ phủ Giáp Ba sang chùa Thông;ngày hôm sau thì đám rước
từ phủ Vân Cát sang chùa Dần. Cuối cùng ngày thứ ba thì
đám rước từ phủ Chính Tiên Hương đến chuà Gôi.
Lễ xong thì rước trở về lại. Đám rước sau cùng được
xem là lớn nhất.Việc tổ chức đám rước đều tuân
thủ theo một số quy định: đi đầu đám là những bà,
những cô trong hội Phủ Giầy, áo quần sặc sỡ,
cầm phướn; tiếp theo là những người đi cà khêu cao
lênh khênh. Rồi đến những đoàn múa rồng, múa lân nổi
tiếng từ nhiều xã kế cận đến tham dự. Những đoàn
người kể trên mở đầu để khai lộ.Phần chính của
đám rước tiếp theo. Trên một chiếc kiệu, vị hoàthượng
chùa Tiên Hương khoác y vàng, tay cầm trượng dẫn đầu.
Những vị thượng toạ theo sau cùng tụng kinh, gõ chuông
khánh. Bốn chiếc kiệu rước Thành Mẫu cùng chư thánh
thần khác tiếp theo, có lọng vàng, tán quạt theo hầu.
Trên những chiếc kiệu có sắc phong và bát nhang thờ bà
Chúa Liễu. Kiệu nầy do những trai tân (gọi là giai tế)
họ Trần Lê khiêng mà thôi. Ba kiệu sau là loại kiệu
võng rước cáctiên nữ khác, do những cô gái đồng trinh
khiêng đi. Những cô gái nầy áo dài màu, mặc váy, quấn
khăn, thắt lưng nhiều màu. Họ đi đứng nghiêm chỉnh và
được tập luyện từ trước. Đi sau bốn kiệu thờ là
các đồ lộ bộ, bát bảo và phường bát âm. Nhạc hoà
âm những khúc Lưu Thủy, Hành Vân rất ăn nhịp. Theo sau
là đoàn ca múa điệu lục cúng và điệu ngũ âm.Theo hầu
các kiệu có các chức sắc trong tỉnh, trong huyện
trong xã. Có khi, triều đình cắt cử một vị quan đại
thần đến để hầu Mẫu. Tùy theo chức tước và tuổi
tác, những viên chức đi theo hàng đôi, hai tay khoanh lại.
Tất cả đều mặc lễ phục rất trang nghiêm.Sau cùng là
những người trong phường đồng bóng, chầu văn và
tín hữu thập phương đi theo hàng lối. Cung văn sắp theo
hàng, mặc áothâm, thắt lưng màu đỏ (cao niên) hay màu
xanh (thanh niên). Một số người còn mang lình.
Lình
là những chiếc dùi bằng sắt, nhọn hoắc, đâm thủng
qua má, qua thái dương. Trong số những tín hữu theo hầu,
có người đã nhập đồng, hò hét vang lên và nhảy
theo điệu đàn; trong trường hợp nầy, cung văn lại dẫn
đàn và hát chầu văn theo. Có khi 20, 30 người cùng lên
đồng một loạt.Hai bên đường dân chúng đón xem, miệng
khấn niệm khi kiệu Mẫu Liễu ngang qua.
Đám
rước kéo dài trên ba cây số và dân chúng dừng chân
bên ngoài của chùa Gôi trong khi viên chức và sư sãi vào
chùa cử hành lễ thỉnh kinh.Trên đây là những nét chính
của một lễ rước trước đây. Ngày nay,hình ảnh đó
đã thay đổi nhiều và chỉ còn hình thức của một
đám rước đơn giản. Ở những địa phương khác có thờ
Mẫu Liễu, tổ chức ngày hội lễ Liễu Hạnh Công Chúa
tập trung vào ba lễ chính: lễ nhập hội, lễ mộc dục và
lễ giỗ Mẫu. Nghi thức cũng được giảm thiểu.Trong
suốt những ngày hội Phủ Giầy, đồng bóng đóng vai trò
quantrọng nhất. Cung văn, con đồng sinh hoạt từ phủ nầy
sang phủ kia tưởng như không bao giờ dứt. Trong bất cứ
buổi đồng bóng nào, việc đầu tiên là ca ngợi công đức
và uy nghi của Liễu Hạnh Công Chúa. Bài chầu văn đó
được khao mào như sau:Cảnh địa linh Nam sơn, phủ
Ngãi,Giữa huyện Thiên, An Thái xã danh.Họ Lê nổi dấu
trâm anh,Cài về Trần thị phúc lành thư hương.Nguyệt
tròn gương gió vàng hiu hắtQuế đưa hương ngào ngạt
gần xa.Mãn tuần bên tỏ Hằng Nga Đã cam đức trọng sinh
ra trưởng thành.Tóc mây xanh mày ngài, mặt ngọc,Tựa da
ngà chân chuốt hài hoa.Hình dong: cá lặn, nhạn saVí so
quốc sắc, ắt là không hai.Chồn Đèo Ngang cùng nơi Phố
Cát,Có môt bầu gió mát, trăng thanh.In đồ bái cảnh rành
rành Lầu Tần há sánh thị thành khôn so.Trúc sáo gió
thông ru đàn suối Chiu líu lo phượng ruỗi loan ca.Bốn
phương danh nức tiếng bà,Cứu linh thiên hạ, ta bà giải
vây.
Thờ
Mẫu ở Miền Nam
Những
người từ Thuận Quảng đến khẩn hoang lập ấp, những
người Hoa chống Mãn Thanh đến tụ cư ở miền Nam đã
kiến tạo những đền thờ Mẫu rất sớm. Gia định Thành
Thông Chí của Trịnh Hoài Đức ghi lại:Những lớp người
nầy đã tin vào đồng bóng, kính trọng những nữ thần
như Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động, quen gọi người phu
nhân tôn quý là "Bà", Bà Hoả Tinh, Bà Thủy Tinh,
cô Hồng, cô hạnh..."Trong Đại Nam Nhất Thống Chí
do Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn khi chép về việc
xây dựng vùng đất Hà Tiên cũng đã viết: Ở châu Hòn
Khoai thuộc huyện Long Xuyên, có thờ Thiên Hậu Linh Thần.
Kiến
trúc và bài trí:Trong cách kiến trúc và bài trí điện
thờ Mẫu, mỗi vùng có những dạng khác nhau. Thông thường,
những điện thờ Mẫu nhiều nôi thường được tổ chức
"phối tự" (thờ chung) cùng với việc thờ Phật,
theo kiểu tiền Phật hậu thần hay ngược lại. Có nơi
lạithờ trong môt miễu riêng, hoăc đứng biệt lập, hoặc
ở sân chùa.Khi chép về sinh họat tín ngưỡng trong vùng
Biên Hoà cũng viết: Núi Bà Rịa phía bắc có ngôi đền
Thần Nữ, núi Thủy Vân ngoài mỏm núi có ngọn Thần Nữ,
tục gọi là mỏm Đinh Cô; núi Thần Mẫu, trong động có
đền Thần Nữ.Những tài lịêu nghiên cứu khác cho biết
nhiều vùng khác cũng nổi tiếng trong việc tôn thờ Mẫu,
như ở Tiền Giang tại thôn Mỹ Đông,tổng Lộc Mỹ có
miếu thờ Trinh Nữ; tại xã Kim Đông, bên bờ sông Thủ
Thừa có miếu thờ Hoả Tinh Nương Nưong, được vua Tự
Đức phong làm Thượng Đẳng Thần. Tại tỉnh Long An, tục
thờ Mẫu cũng khá phổ biến, nhiều gia đình thờ Mẫu
ngay trong nhà mình. Ở huyện Châu thành tỉnh Tây Ninh, xã
Phước Hiệp Thịnh có chùa Thái Lâm nơi chính điện thờ
cốt Phật, phía sau lại thờ Linh Sơn Thánh Mẫu. Ở tỉnh
Sông Bé có nhiều nơi là miếu Bà, lập lên vào thế kỷ
XIX và phát triển nhiều nơi khác. Ở vùng Bà Rịa - Vũng
Tầu, tại thị trấn Long Hà, có miếu thờ Bà Thuỷ (Mẫu
Thoải) thu hút khách hành hương đông đảo trong toàn vùng
vào mùa lễ hội Bà. Ở tỉnh An Giang, có chùa Tây An nổi
tiếng, ngay trong điện thờ Phật, cũng có đặt tượng
Cửu Thiên Huyền Nữ, thờ Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên và Cô
hai hiên. Tại trung tâm thị xã Châu Đốc, tỉnh An Giang,
cũng có nhiều miếu thờ Bảy Bà. Ở tỉnh Cần Thơ, tại
chùa Nam Nhã thờ Tam Thánh: Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử ở
gian chính giữa, hai bên lại thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và
Quan Thánh.
Phía
ngoài trước chùa có miếu thờ Thổ Thần và miếu thờ
Mẫu. Ở tỉnh Bến Tre, chỉ trong 7 xã An Đức,An Bình
Tây, Mỹ Nhơn, Mỹ Chánh, Tân Xuân, Phước Tuy và Phủ
Ngãi của huyện Ba Tri có nhiều miếu thờ Bà trong xã,
thôn hay trong gia đình. Ở huyện Bình Đại thuộc Bến
Tre, mỗi làng đều có một miếu thờ Bà Chúa Xứ và miếu
thờ Bà Thiên Hậu. Ở xã Mỹ Thạch, thị xã Bến Tre, có
miếu thờ Cửu Vị Thánh Nương bên cạnh Tiền Hiền,Hậu
Hiền.
Tại Sài Gòn, ít nhất
là 30 đình miếu có thờ Mẫu. Hai trung tâm thờ Mẫu nổi
tiếng nhất của miền Nam là đền thờ Bà Chúa Xứ ở
núi Sam, Châu Đốc, tỉnh An Giang và điện thờ Linh Sơn
Thánh Mẫu ở núi Bà Đen, Tây Ninh.Nhìn chung, việc thờ
Mẫu rất phổ biến khắp các đình miếu, nếu không thờ
ngay trong chánh điện, thì cũng được thiết lập am
thờriêng ở sân; đó là miếu của Cửu Thiên Huyền Nữ,
Ngũ Hành Nương Nương, Bà Chúa Xứ Nương Nương, Chúa Ngọc
Nương Nương, Chúa Tiên Nương Nương, Linh Sơn Thánh Mẫu,
Kim Hoa Thánh Mẫu, Thiên Hậu Thánh Mẫu, Thủy Long Thần
Nữ, Bà Mẹ Thai Sinh...
Lễ
thức:
Thời
điểm: hầu hết những đền thờ Mẫu được tổ chức
vào khoảng thượng tuần đến trung tuần tháng ba âm lịch,
như lại những miễu thờ tại tỉnh Bến Tre hay tại Sông
Bé. Chọn lựa thời điểm nầy, môt phần theo những nghi
lễ truyền thống của các Mẫu khác nhau; phần khác thì
theo thời vụ của những nông dân chuẩn bị trước khi
bước vào vụ cày cấy mới. Điều nầy thường được
giải thích như chu kỳ của vòng quay thiên nhiên, và cầu
khẩn cho môt mùa bội thu tương lai.Tuy nhiên, tại những
đền miếu có sự phối tự giữa việc thờ Phật và thờ
Mẫu, thì thời điểm cúng tế không theo hạn kỳ nhất
định. Chẳng hạn: những ngày lễ chính trong năm vẫn là
lễ Nguyên đán, vía Di Lặc, ngày lễ Phật đản, lễ Xá
Tội Vong Nhân. Sự phối hợp thờ cúng nầy đã lôi cuốn
nhiều tín đồ tin tưởng khác nhau và trở nên đa dạng.Có
trường hợp khác biệt theo định kỳ hàng tháng; chẳng
hạn như tại chùa Nam Nhã (Cần Thơ), đền thờ Mẫu tổ
chức cúng tế mỗi tháng ba lần: ngày mồng 1, ngày 11 và
ngày 21 âm lịch. Nhưng tại những chùa người Hoa, có thờ
bà Thiên Hậu, thì ngày lễ vía lớn nhất trong năm nhằm
ngày 23 tháng 3 âm lịch. Ở những đền miếu khác,như ở
Dinh Cô (Long hải, Bà Rịa), ngày hành lễ chính thức
trongnăm kéo dài từ 10 đến 12 tháng hai âm lịch.
Trình
Tự Tổ Chức:
Cũng
như cách thờ cúng khác nhau của mỗi chùa, trình tự tổ
chức các buổi lễ cũng không gióng nhau hoàn toàn. tại
nhiều đền thờ ở Bến Tre, những nghi thức lễ lượt
không khác gì với những lễ cúng khác, nhưng bao giờ cũng
có "hát bóng rỗi" kế tiếp thao.Tại Long An,
thông thường những lễ cúng đền miếu có thờ Mẫu(chính
hay phụ) hay tại nhà riêng, sau nghi lễ chính thức,
thường kèm theo hai lễ tục khác: hát bóng rỗi và diễn
chặp Địa Nàng. Tại tỉnh Định Tường, lễ tục tiếp
theo là đồng bóng. (Theo Đại Nam Nhất Thống Chí).Nhìn
chung lại, nếu thờ mẫu ở môt đền miếu riêng biệt,
bao giờ cũng có hát bóng rỗi. Còn nếu thờ Mẫu chung với
Phật hay Thần khác, không có hát bóng rỗi.Nhạc cụ:
Những loại nhạc cụ được dùng trong việc hát bóng rỗi
là:chiêng, trống cái, trống con, đàn nhị, kèn thau, sánh
cái. Theo tài lịêu được ghi chép trong cuốn "Địa
chí tỉnh Long An" (in lại năm 1988) thì: Những nhạc cụ
thông thường là: đàn kìm, đàn nhị,trống cái và trống
cơm.
Hát
bóng rỗi: Tổ chức hát bóng rỗi đúng theo nghi thức khá
phức tạp; thông thường, phải qua nhiều phần. Phần đầu
là Lễ Khai Tràng. lễ nầy do dàn nhạc bóng rỗ diễn tấu
qua 3 khúc nhạc và hát chính thức. Phần 2: lễ Chầu Mời
và lễ Thỉnh Tổ. Những bài "chầu mời" gồm:
Bài Bà, Bài Ông, bài Cô, Bài Cậu. Những bài chầu mời chỉ
cần theo đúng âm giai. Nội dùng thì tùy theo linh vị
chính và người tổ chức, tham gia để ứng biến theo cho
thích hợp. 3 điều kiện căn bản trong bài chầu mời là:
hợp với nơi diễn xướng, hợp với chủ miếu, hợp với
từng người trong Hội. Giọng hát phải truyền cảm, ăn
khớp nhạc điệu.Phần mở đầu của chầu mời bao giờ
cũng có những lời chúc tụng.Chúc tụng phục, lộc,
khang, ninh. Chúc tụng quốc tái, dân an.
Lời
ca phổ thông nhất như sau: "Con rước bà về, "Xin
bà chứng lễ: "Bà chứng lễ nầy; phù hộ chủ gia.
"Cầu chúc chủ gia: "Vợ chồng, con cái, "An
cửa, an nhà, "Tài vô, lộc tới, "Con cái giàu
sang. "Bà ban giàu sang chốn nầy, "Bà ban gia chủ
vui vầy (...)"
Lễ
Diễn Xướng Mời Tiên:
Sau
những nghi thức về Thỉnh Tổ và về Chầu Mời, nghi lễ
kế tiếp là Diễn Xướng Mời Tiên. Lễ nầy giống hệt
như nghi thức "Xây chầu đại bội" trong lễ Kỳ
Yên. Những nghi thức gồm có: Khai chiếu gió,nhật nguyệt,
tam hiền, gia quan, Ông Đông, Thanh Đường hạ san,Hội Năm
Bà, Bá Trạo nghinh bà.Bốn nghi thức đầu là lễ Kỳ
Yên. Kể từ Ông Đông trở đi là lễ Cúng Miễu. Ông Đông
là người chủ trì cuộc lễ. Thanh Đường Hạ San là cung
thỉnh vị Thanh Đường xuống chứng minh cho buổi lễ.
Hội Năm Bà là nghi lễ mời chư Bà hiễn linh trong buổi
lễ. Bá Trạo là nghi lễ của người dân làm nghề ngư
phủ, theo triều nước lên, nước xuống, để nghinh đón
Mẫu hiện ra (thường tổ chức vùng duyên hải).
Thiên Y A Na:
Trường hợp Thánh
Mẫu Thiên Y A Na được thờ tại đền Pô Nagar của Chăm
- Pa cũng chứa nhiều huyền thoại không kém. Nội dung
thần phả của bà chứa đựng những giá trị hoà hợp
hai lớp văn hoá Việt Chiêm.
Sự tích của Thánh Mẫu nầy
pha trộn lẫn lộn tính chất thần và người. Thiên Y A Na
vốn là vị Thần Mẫu của người Chăm - Pa PôInư nagar.
Thần phả ghi đại cương: Bà là người được trời
sai xuống trần gian, để tạo ra vạn vật, lúa gạo. Chính
bà đã sinh ra loại hoa Chăm - Pa, có nghĩa là gỗ trầm
hương.
Theo tín ngưỡng của Chăm - Pa thì Thánh Mẫu Thiên
Y A Na là hoá thân của ánh mây trời và cũng là bọt biển
trôi khắp mọi nơi. Bà cai quản tất cả mọi nơi, mọi
trường hợp, được xem là "Mẹ lớn của tất cá các
mẹ". Bà thường hay cưỡi con voi trắng (như phù
điêu tại đền Pô Nagar - Nha Trang) thường đi mây về gió
để ban phước cho mọi người khi niệm đến danh hiệu
của bà. Bà ngự trong những toà tháp cổ của người Chăm
- Pa, được xây dựng từ ngàn năm trước đây, để người
dân trong vùng bất cứ thuộc tộc hệ nào cần đến
bà.Theo truyền thuyết thì nơi khai sinh ra bà là xã Đại
An, gần Cù lao Huân, tỉnh Khánh Hoà. Được nuôi dưỡng
trong một gia đình nghèo khổ, nhưng về sau vì nhớ đến
quê hương cũ của mình, hoá thân vào gỗ trầm hương.
Nàng đã gặp một vị hoàng tử, kết hôn,sinh hạ được
hai người con. Nhưng về sau, bà trở về thăm cha mẹ nuôi,
không trở lại nữa. Bà siêu hoá, trở về trời. Nhà
Nguyễn đã phong cho bà Thiên Y A Na là Hồng nhân Phổ tế
Linh ứng Thượng đẳng thần. Theo bài văn bia của cụ
Phan Thanh Giản ở Tháp Bà Nhatrang có đoạn: Cổ nhân gọi
là là Thiên Y A Na Diễm Phi chúa Ngọc Thánh phi. Tín ngưỡng
dân gian của người Việt gọi bà là Chúa Ngọc. Nhà
Nguyễn cho lập đền thờ tại Hòn Chén; hang năm đều
chocúng tế, coi như Thánh Mẫu...
Linh Sơn Thánh Mẫu:
Linh Sơn Thánh Mẫu
ở núi Bà Đen Tây Ninh cũng do vua nhà Nguyễn tôn phong.
Tương truyền dưới chân núi Bà Đen có hồ nước
rộng;những đem khuya thanh vắng, trên mặt hồ có thuyền
rồng dạo chơi.Từ xa, nghe vẳng trong thuyền có tiếng ca
hát tuyệt vời. Người địa phương cho là linh dị. Họ
lập đền thờ trên núi.
2- Tín ngưỡng
Thần Mẫu
Mang tính chất bình
dân, những nơi có thờ Thánh Mẫu không giống nhau. Có nơi
được xây dựng lên như một loại đền phủ tráng lệ;
đó là trường hợp đền Phủ Giầy, Phủ Sòng, Phủ Tây
Hồ. Nhưng có khi chỉ là một am nhỏ bên cạnh một ngôi
chùa hay ngôi đình. Cũng có khi được thờ trong Chùa theo
kiểu "Tiền Phật, hậu Mẫu".Thành thử, trong
việc nghiên cứu tính cách thờ phượng tại một đền Mẫu,
không thể nhìn hời hợt những cách thiết chế bên
ngoài, mà cần phải được tiếp cận bên trong, đồng
thời cũng hiểu được sự tổ chức cúng bái. Chẳng hạn
một đền thờ Mẫu thường xuyên tổ chức đồng bóng,
thì lại được trang hoàng đủ nghi môn, trướng liễn,
bát vật,ngũ sự. Tại Sài Gòn, những điện thờ Mẫu
được tổ chức trong những ngôi nhà hẻo lánh trong những
đường kiệt, nhưng bên trong thì trang hoàng bày biện muôn
màu sắc.
Theo thống kê năm
1997, có đến 102 căn nhà thờ Mẫu khắp các quận huyện
nội ngoại thành Sài Gòn.Cách thiết kế: Một ngôi đền
thờ Thánh Mẫu bao giờ cũng chú trọng đến vấn đề
phong thủy.Vì mang yếu tính "nữ", cho nên việc
kiến thiết bên cạnh các giòng nước thường được đề
cập đến. Hầu hết điện Mẫu đều được xây dựng
bên cạnh một con sông (như điện Hòn Chén xây dựng trên
núi Ngọc trản,cạnh con sông Hương) bên cạnh cửa biển
(như đền Cờn dựng lên ở cửa Càn Hải - Nghệ An) bên
cạnh một con suối (như đền Bắc Lệ -Lạng Sơn) cạnh
một hồ lớn (như Phủ Tây Hồ ở cạnh Hồ Tây - HàNội).
Nếu trong trường hợp không thể chọn một địa điểm
nào có"sơn triều, thủy tụ" bên ngoài, thì có
thể tạo nên cảnh trí bên trong khuôn viên. Chẳng hạn
như xây thêm hồ, ao, giếng để chứa nước. Các cửa của
nơi thờ Thánh Mẫu bao giờ cũng được hướng về phía
có nguồn nước. Phải là nơi thủy tụ, thì giá trị và
ý nghĩa tăng lên. Điều nầy thấy rõ tại điện Vân Cát
ở Phủ Giầy hay đền Tiên Hương.
Trang
hoàng thờ cúng Mẫu:
Đi
vào một đền thờ Mẫu, dù quy mô lớn hay nhỏ, có thể
nhận biết được ngay với những tính chất đặc thù của
nó. Điều nhận được đầu tiên là vô số những thể
loại đồ vàng mã bày biện cao ngất; tuy nhiên tất cả
đều theo lớp lang và mỗi loại đều nói lên được
những giá trị riêng của nó, mà không thể thiếu được.
Vì trong một đền thờ Mẫu, có đủ thể loại Mẫu và
những nhân vật truyền thuyết khác như quan lớn Tuần
Tranh, bà chuá Thượng ngàn, tà thần, yêu thần,mà mỗi
vị đều đòi hỏi những lối cúng tế khác nhau. Quan
trọng nhất trong việc trang trí là những chiếc nón, hài,
thuyền rồng,đèn lồng, với kích cỡ và thể loại khác
nhau dùng lúc thượng đồng.Tất cả đều dùng nhiều màu
sắc sặc sỡ, hấp dẫn. Trong đạo thờ Mẫu,từ vị
Thánh Mẫu cho đến hàng quan đều mang những gốc tích
khác nhau của nhiều miền trong nước và lịch sử của
mỗi vị cũng khác nhau.Ngoại trừ những nơi thờ Mẫu
chung với điện Phật, còn những điện thờ riêng biệt
đều tuân thủ theo thể thức trình bày giống nhau theo ba
tầng: tầng thượng, tầng trung và tầng hạ.
- Tầng thượng có
đôi mãng xà, biểu hiện cho quan lớn Tuần Tranh (gốc
rắn), một con màu trắng và một con màu sẫm. - Tầng
trung là nơi thờ Mẫu chính thức. - Tầng dưới là nơi
thờ Ngũ hổ. Rắn và hổ là những loài vật thiêng có
chức năng bảo vệ cho vị Mẫu.
Về
mãng xà, nhiều nơi được thờ riêng, tức là đền thờ
quan lớn Tuần Tranh. Đây là danh từ dùng để gọi một
cách kính cẩn vị thần trông coi con sông Tranh ở Ninh
Giang.Giải thích về việc thờ cúng những động vật
nầy, những nhà nghiên cứu nêu lên các giả thuyết khác
nhau (a) Có người cho rằng đó là những con vật biểu
trưng cho cuộc sống thời hồng hoang. (b)Thuyết khác cho
rằng: rắn và hổ đều là những con vật hung dữ có thể
trấn áp những kẻ ác độc âm mưu hãm hại vị thần
Mẫu (c) Ngoàira, trong hình tượng Ngũ Hổ có năm màu sắc
khác nhau được giải thích là biểu hiện về 5phương
vị: kim, mộc, thủy, hoả, thổ.
Nghi Thức Thờ
Cúng:
Những điện thờ
Mẫu thường được cúng tế theo định kỳ. Mỗi năm trong
những ngày lễ vía lớn đều được cử hành đại lễ.
Ngoài ra,những trường hợp tín đồ cần xin lễ đặc
biệt để cầu khẩn cho gia đạo của mình cũng đến điều
đình để lập lễ riêng.Mỗi đền Mẫu đều có ban điều
hành. Ban nầy quy định các lễ lượt và người phụ
trách. Việc tuyển chọn các thành viên rất khó khăn
vì phải am tường nghi lễ. Họ cũng qua một kỳ tập
dượt. Tất cả đều phải ăn khớp. Những người phụ
trách hành lễ phải hiểu tường tận mọi nghi thức, mà
trong đó việc hầu bóng không thể thiếu.
Một
nghi lễ thờ cúng Mẫu được phối hợp nghệ thuật diễn
xướng, âm nhạc, hát văn và múa linh. Cung văn là người
điều hành toàn buổi lễ. Những người lên đồng phải
được tập luyện, hiểu được ý nghĩa những bài hát
chầu để bắt nhịp, chuyển nhịp. Gọi nghi lễ nầy là
thể loại "sân khấu thần tích" cũng là cách diễn
tả thích hợp. Nghi lễ của từng buổi lễ rất phức
tạp. Tuy nhiên một số lễ chính không thể nào thiếu sót
là hầu bóng, lễ tôn nhang và lễ trình đồng.
Hầu Bóng:
Những lễ tiết
trong hầu bóng là căn bản để thờ cúng Mẫu. Cung văn và
những người lên đồng (đồng ông, đồng bà, đồng cô,
đồng cậu) phải là những người "nhà Thánh"
sống trong nghề cúng lễ nầyvà được tập luyện khá
công phu. Thiếu đi, buổi lễ không giữ được ý nghĩa
linh thiêng của nó được.Theo những truyền thuyết trong
giới "phụ đồng" thì trong những lần lên đồng
bóng, Thần Mẫu nhập vào thân xác của những bà đồng,ông
đồng, cô đồng hay cậu đồng để đưa ra những chỉ
dẫn, khuyến cáo hay phương thức giải trừ những tai
ương. Có người hợp bóng vía thì nhập dễ dàng; số
người nghịch bóng vía, thì không thể nào nhập được.
Thậm chí có người ở xa đến, có thể nhập hồn mà
không phải qua một nghi lễ nào để "dẫn xác
đồng".Những cung văn thì lo việc dẫn đàn và hát
xướng, điều hành. Những con công, đệ tử, nam hay nữ
thì chuyên việc "minh họa thể hiện bóng Thánh".
Lại thêm hàng chục người phụ lễ. Đó là chưa kể
đến những người chăm lo việc thủ đền, thủ nhang,
viết sớ, giải quẻ.Thông thường, một tổ chức lễ
Thánh phải đủ những thành phần nầy;thiếu đi, sẽ
thiếu ý nghĩa và lôi cuốn.Trong đền thờ Mẫu thường
thờ thêm các đấng thần thánh khác. Những nhân vật hay
thần vật nầy thường có liên quan đến lịch sử
của Thần Mẫu; cũng có thể là các vị thần được tôn
thờ của địa phương;có khi được rước từ các đền
khác đến. Thành thử, lễ lượt càng nhiều và đền thờ
tấp nập thường xuyên.Trong các đền Thần Mẫu đều có
thần phả. Các thần phả ghi đầy đủ ýnghĩa của từng
Thần Mẫu và các thánh khác. Cung văn dựa vào đó để viết
sớ tấu và đặt bài hát, bài vè. Những nghi thức cúng
tế cũng được ghi theo.
Lễ Tôn Nhang:
Tôn nhang là lễ bốc
và đặt bát nhang thờ những vị thần mẫu trong trường
hợp những người bị ốm đau đến cầu khẩn. Lễ
nầy được cử hành ngày lối cửa chính vào đền thờ.
Sau khi bốc, bát nhang được đặt tại cửa đền Mẫu vào
những ngày rằm, mồng một với mục đích là ngăn ngừa
và đẩy lui mọi bệnh tật cho thân chủ.Lễ tôn nhang
được tổ chức như sau: trong trường hợp tín đồ
đồng bóng thấy mình gặp nhiều điều không may hay đau
ốm liên miên, làm ăn thất bại, bị lường gạt, tai ương
trùng trùng, thất cơ lỡ vận,vợ chồng ly tán, con cái
phá phách...thì phải "ra đầu" các quan mới khỏi.
Trước hết, tổ chức lễ đội bát nhang, dâng sớ, nêu
rõ cơ, phủ nào, quan cai đồng là ai... nói chung trình
bày mọi việc liên quan đến thân chủ và người chủ
lễ.Vị chủ lễ đọc sớ, trình lễ, cầu khẩn và mong
được Mẫu chiếu cố.Người đội bát nhang ngồi xếp
bằng trước giá hầu; hai tay ngữa lên bắp vế, mắt
nhắm,đội khăn phủ diện màu đỏ. Trên đầu dùng chân
nhang tròn để đỡ bát nhang. Những người phụ thì giữ
bát nhang cho khỏi đổ xuống. Cho đến khi nào, cung văn
đàn hát và người đội bát nhang bắt đầu đảo tức là
ứng nghiệm. Khi đảo nhanh tức là ứng nghiệm. Lễ xong,
bát nhang được mang về nhà đặt trên bàn giữa nhà trong
vòng một tháng.
Lễ
Trình Đồng:
Trình đồng tức là
trình diện con đồng với chư Mẫu.Cuộc lễ tổ chức
trong vòng ba hôm, gồm có lễ mở đàn, lễ trình Mẫu và
lễ tiễn đàn. Trong mỗi buổi lễ đều có hầu bóng,
cung văn đọc sớ tâu, đồng nhập và phán xét.
3- Hát Chầu Văn
Một trong những loại
tôn giáo hay hát thờ quan trọng nhất của người Việt là
hát chầu văn (hầu văn). Những loại hát tôn giáo ở
khắp ba miền đều có những tính chất khác nhau tùy theo
phong tục thờ cúng, nhân vật thờ phụng và giai điệu
của từng vùng. Hát chầu văn cũng như những lối hát tôn
giáo khác là một nghi lễ quan trọng dùng trong tế tự.
Hát chầu văn mang nhiều tính chất bình dân hơn là hát
cung đình. Tại những đền thờ trong nước như Điện Hòn
Chén tại Huế, đền Phủ Giày tại Nam Định, điện Linh
Sơn Thánh Mẫu tại Tây Ninh, đền Bà Chúa Xứ tại Châu
Đốc, đền thờ Man Nương tại chùa Dâu, đền Cửu Thiên
Huyền Nữ, đền Công Chúa Thượng Ngàn,hằng năm đều
tổ chức ngày cúng bái, lên đồng bóng. Theo những nhà
phân tách nhạc học thì đây là một thể loại ca nhạc
phù pháp (lamaism), bùa chú (tantrism) của nhiều dân tộc
khác thường dùng; mà ý nghĩa chính là tham gia công cuộc
biểu dương, tôn thờ thần thánh, nhưng lại có giá trị
thôi miên những người đóng vai chính trong việc đồng
bóng,bằng ba nguyên tố căn bản là âm điệu bài hát, nhịp điệu điều hoà và nhất là nội dung của lời ca.
Thái Lan, Ấn Độ Tây Tạng, Kampuchia, những sắc tộc ít
người miền núi Việt Nam cũng có những loại hát tôn
giáo này.Những nhà dân tộc học cho rằng: theo những tập
tục tín ngưỡng của người bình dân Việt Nam, nhất là
phụ nữ thôn quê cũng như thành thị, ngày trước họ
thường tin tưởng và lo sợ trước sự hiện diện vô
hình của những vị thần tiên, chư thánh, những vong hồn
uổng tử thường hay lảng vảng chung quanh mình; những
nhân vật huyền thoại nầy, theo họ thường hầu hạ
chung quanh một đấng thần linh nào đó, đồng thời cũng
có sức mạnh vạn năng chi phối tất cả những sinh hoạt
của con người. Đó là đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, như
thường thấy trong những trung tâm lên đồng bóng.
Văn Kể Hạnh:
Trong những thể điệu
hát tôn giáo còn có lối kể hạnh cũng mang tính chất
tương tự như thế. Kể hạnh tức là kể lại sự
nghiệp, công năng, pháp thuật của những cao tăng thiền
đức. Chẳng hạn như sự tích Ngài Pháp Loa, Trúc Lâm Tam
Tổ, Từ Đạo Hạnh... Tại những ngôi chùa thuộc thiền
phái Trúc Lâm, trong những ngày giỗ tổ, thường có tổ
chức kể hạnh. Văn kể hạnh là lối văn khá phổ biến
trong những chùa chiền Việt Nam. Trong lúc kể hạnh, nhóm
biểu dương phân chia ra làm hai phần:phần rước tổ
giành cho những vị cao niên lên tiếng chiêu hồn; phần
tán dương công đức thuộc về những cô gái có giọng
hát trong trẻo.Bên cạnh đó thì có những thấy căn cứ
trên những bản Khoá Hư Lục và Tam Tổ Thực Lục để
sửa chữa hay bổ sung lại. Một trong những áng văn
Kểhạnh nổi tiếng nhất có nhan đề An Tử Sơn Trúc Lâm
Trần Triều Thiền Tông Bản Hạnh. Nếu so sánh thì lối
kể hạnh chú trọng về nội dung giáo lý trong khi đó thì
chầu văn lại chú trọng đến giai điệu quyến rủ, biến
chuyển không ngừng tùy theo người lên đồng đang ở
trong tư thế nào. Những người tin theo đồng bóng cho
rằng: trong thế gian nầy có ba cảnh giới khác nhau mà hồn
phách của con người lần lượt phải trải qua: thiên
đình, âm phủ và thủy phủ. Những vị thần linh trên thủ
trong ba cảnh giới nầy có nhiều quyền hành vô thượng,
mang những danh hiệu là Tứ Đại Thiên Vương, Nhị Thập
Bát Tú, Thập Tam Hoàng Thái Tử, Ngũ Vị Vương Quan. Chẳng
hạn như tại điện Hòn Chén ở ngoại ô kinh thành Huế
thì chầu văn thường gọi hồn của bà Thiên Y A Na, gốc
Chiêm Thành; sau đó thì lại chuyển sang Phật Bà Nam Hải
theo sự tích Việt Nam. Những cung văn phải sành nhiều
loại nhạc khác nhau, sành về đàn,có giọng quyến rủ
và biết tùy theo lúc để chuyển điệu không ngừng.
Những cô Đồng, bà Đồng hay ông Đồng đều sành những
lối múa kiếm, chèo thuyền,nhập xác thần linh khá nhanh
chóng, Họ trở thành những người hầu bóng khá điêu
luyện, và có thể nhanh chóng nhập xác vào các Ông Hoàng,
Bà Chúa, đồng Cô, đồng Cậu.
Nội Dung Chầu Văn:
Một bài chầu văn
bao giờ cũng được phân chia ra những đoạn chính như
sau: Phần nhập đề: dâng hương và chiêu hồn mau chóng
trở về để nhập xác. Đọc lời phán của Ngọc Hoàng
Thượng Đế. Phần chuyển đề:trình bày tâm thành, ý
nguyện, xưng tán công đức. Phần chính: ca ngợi những
nét đặc thù của ông Hoàng, bà Chúa, Thượng Ngàn, Thủy
Cung, Thiên Đình, công đức vô lượng của đức Ngọc
Hoàng Thượng Đế. Phần khuyến lễ:Hướng dẫn những
con công đệ tử hết lòng cầu nguyện để con đồng
chóng nhập.Phần cầu đảo và lễ bái. Qua những bài
chầu văn đó thì các vị thần linh nầy, theo họ, có khả
năng che chở, bảo vệ cho con người (những người cúng
tế), để chống lại những loài yêu tinh, ác quỷ thường
hay quấy phá. Tuy nhiên, trong trường hợp muốn dễ dàng
tiếp cận với những vị thần linh nầy, thì phải cần
qua một nhân vật trung gian giữa thần và người: đó là
những vị thuật sĩ, đạo sĩ, thầy phù thủy (cao tay ấn)
những ông đồng, bà cốt có nhiều khả năng đặc biệt.
Từ việc nhờ đến những người trung gian để thay mặt
mình cầu xin những vị thần ban ân đức cho mình, và đồng
thời cũng tự nhận vai trò của mình là con công, đệ tử
(tức là người hầu bóng) của thần linh,họ thường
theo những nghi lễ, cúng bái, lập điện thờ uy nghi, lên
đồng bóng, cúng cô hồn, và trong những thứ lễ nghi phức
tạp, thì nhạc hầu văn đã đóng vai trò chiêu hồn rất
quan trọng.
Hát Chầu Văn:
Loại tín ngưỡng
bình dân nầy ảnh hưởng khắp nơi trong nước,và những
loại hát thờ nầy rất thịnh hành; ở miền Bắc thì
gọi là hát chầu văn (hầu văn) ở miền Trung và miền
Nam thì gọi là hát lên đồng bóng.Nghi thức của một
buổi lễ chầu văn rất phức tạp, và thường phải
theo quy trình sau đây: Trước hết, người hầu bóng và
cô đồng, cậu đồng,ông đồng, thành đồng... phải
chuẩn bị cho đủ mọi thứ nghi lễ, thầy cúng,âm nhạc,
người lên đồng, người phụ việc. Sau đó thì bắt đầu
vào công việc Phụng thỉnh Chư Thánh nhập đàn. Mỗi lễ
theo một nghi lễ Phụng Thỉnh khác nhau. Người chủ lễ
sau khi cúng nhập đàn, thì đọc dâng sớ. Nội dung lá sớ
là nhân dân ý nguyện của đức Ngọc Hoàng Thượng Đế
đứng ra xin triệu tập những vị thần linh về chứng
giám. Thể điệu lúc nầy được trình bày theo loại Sai
quan tướng như ý nghĩa của phần nhập lễ. Sai tướng
rất khó khăn và phải do những cung văn hát theo nhịp đàn,
trống phụ họa.Cung văn cất cao tiếng hát chiêu hồn
nhập xác: "Thầy sai Đại Thánh Tề Thiên, Huyền
công, dùng phép dẹp yên loài tà". Đến khi những cô
đồng,bà cốt đã bắt đầu chuyển thân để nhập hồn,
biến đổi bộ điệu có những du hiệu bắt hồn thì cung
văn đổi giọng ngay: "Cô rằng: cô đẹp nhất
đời,Dáng đi, điệu múa, miệng cười có duyên. Rằng
hồn ở chống Thiên tiên,Siêu sanh Tịnh Độ, xuống miền
trần gian..."Khi cung văn hát theo những giọng Dâng
Hương và Thét Nhạc thì bắt buộc phải đứng dậy để
đàn và hát; cho đến khi đã được chuyển sang Hát
Giải thì mới được ngồi xuống chiếu. Cứ mỗi lần
chuyển thế ngồi, thì giọng đàn, tiếng hát cũng biến
đổi theo ngay.
Những Âm Giai:
Trong khi chầu văn
chuyển sang giai đọan nhập bóng,thì người cung văn đã
bắt đầu chuyển thể điệu, từ hát dọc chuyển sang hát
giọng cờn, rồi từ giọng cờn chuyển sang giọng phú,
giọng dựng.Theo những nguyên tắc chuyển điệu thì:
giọng cờn có nghĩa là tán dương công đức; giọng phú
là trình bày những tài năng khác thường; giọng dựng là
mô tả các khả năng siêu phàm để có thể giao cảm với
con công, đệ tử đang cầu đảo. Những cách chuyển hệ
nầy khá linh hoạt và người chầu văn dựa theo trình tự
và cách ứng đồng để thay đổi. Những người vào đồng
theobóng cậu hay bóng ông thì chuyên về giọng phú hơn là
giọng cờn và giọng dọc.Trên nguyên tắc căn bản thì
lên đồng là cách biến thân hay hóa thân. Biến thân là
đổi thân phận của mình, từ người bình thường ra kẻ
thoát tục; Hoá thân là chỉ vay mượn trong chốc lát một
thân phận rồi sau đó chuyển sang thân phận khác. Chẳng
hạn như chuyển từ Thánh Mẫu Thiên Y A Na sang bà Chúa
Thượng Ngàn, bà Mẫu Thỏa, bà Chúa Xứ, Man Nương, Liễu
Hạnh Công Chúa hay Kim Sơn Thánh Mẫu. Những thể điệu
biến thân hay hóa thân đều dựa theo tinh thần của người
ngồi đồng, khi vui cũng như khi buồn. Mới nhập đồng thì
giọng vui, khi tả tâm trạng cứu nhân độ thế thì
chuyển sang giọng buồn. Nhạc cũng chuyển theo; khi giọng
vui thì dùng đến giọng Bắc như:phú bình và phú dựng.
Phú chênh là phần chuyển tiếp từ vui sang buồn.Giọng
buồn thì hát theo loại phú sầu và phú ai theo giọng Nam.
Những thể điệu
khác trong chầu văn tại Huế, Thừa Thiên thì gồm có:
thể thỉnh nguyện, thể dâng hương, thể đổi nhịp, thể
đảo và thể oán. Thể Thỉnh Nguyện dùng khi mới vào
cuộc lễ đồng; Thể Dâng Hương khi những con đồng đã
nhận lễ vật; Thể Đổi Nhịp trình bày lời cầu
nguyện, mong ước; Thể Đảo là mong đạt được những
giải đáp cần thiết cho người xin bóng; Thể Oán trình
bày sự tiếc nuối chưa dâng đủ lễ nghi để chóng lành
bệnh.Cứ mỗi thể như vậy có hàng chục bài hát khác
nhau. Theo nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba trong tài liệu "Hát
Chầu Văn Huế", tính ra có trên 200 bài hát chầuvăn
được tìm thấy. Mỗi bài được đặt tên theo những
chữ trong câu đầu của bài. Nhịp điệu chầu văn cũng
phải thuận theo thể điệu; có khi là nhịp hai chữ chồng
tréo có khi là ba nhịp hoà ca có khi là bảy nhịp trải
đều (Tạp Chí Sông Hương). Trong chầu văn, vai trò người
cung văn vô cùng quan trọng trong việc dẫn nhập toàn bộ
phiên chầu đồng bóng. Trong Việt Nam Phong Tục Phan Kế
Bính cho biết tình trạng như sau: Bọn Cung văn đàn
ngọt hát hay, thì đồng ban thưởng cho tiền, cho lộc;
Nịnh hót khéo nữa thì có khi đồng cởi cả ruột ban
cho. Khung cảnh hầu đồng của con công, đệ tử(hầu
đồng) khá phức tạp khi chầu chực nghe lời phán của
con đồng: Đồng phán ra những tiếng ỏn a ỏn ẹo mà
truyền bảo người có bệnh; có khi đồng làm ra mặt giận
hờn vì nhà chủ không thành, thì các người hầu bóng
bên cạnh lại kêu kêu, khấn khấn, van van, lạy lạy, tâu
đối cho được lòng đồng thì đồng lại hả hê truyền
phán. Khung cảnh cứ thế mà thay đổi không ngừng.Múa
tôn giáo: là một hình thái múa dân tộc, múa tôn giáo
là múa phục vụ cho tôn giáo dưới dạng những lễ nghi
hay mang nội dung tôn giáo, do những người hành nghề tôn
giáo hay những giáo dân tổ chức biểu diễn(Theo Fromaget
và Saurin). Trên bình diện chung thì có lẽ múa tôn giáo
của người Việt không thể không có những tính chất
chung của múa tôn giáo ở các nền văn minh nông nghiệp
phương Đông.Tín ngưỡng dân gian là một trong những hình
thức sơ khai của các tôn giáo, cho nên trong số những
loại múa tôn giáo trong thời cổ của một số địa
phương, trước hết phải kể đến: múa ma thuật, múalên
đồng. Trong Đạo Giáo có những yếu tố trong nền tín
ngưỡng dân gian. Khi tôn giáo phát triển từ đa thần đến
độc thần và các tôn giáo được du nhập từ nước
ngoài vào Việt Nam như Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo đã dần
dần chiếm địa vị quan trọng trong tâm linh của người
Việt. Cũng như Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo, Đạo Giáo
cũng có những nghi thức cần thiết và những thể điệu
trong khi hành lễ. Những thể điệu và nghi thức nầy
trong Đạo Giáo cũng mang ý nghĩa là những tín hiệu thông
tin giữa người và thàn linh trong Đạo Giáo.
Theo
một số quan niệm của người xưa, thì những phù thuỷ
hay những ông đồng, bà cốt là những người giữ chức
năng về tín hiệu thông tin đó.Nhà xã hội học Durkheim
phân tách: theo quan niệm của người xưa,thì những phù
thủy là những kẻ có khả năng thông đạt với tinh linh,
đi vào vũ trụ được. Vũ trụ đây theo nghĩa là lên
trời hay xuống tận âm phủ. Khi tinh linh được triệu về
trong lễ cúng thì được nhập vào thể xác của họ trong
một thời gian nào đó.Với nhận định đó, khi tác động
vũ trụ (chẳng hạn như cầu mưa) thì phù thủy "dùng
những pháp thuật của họ". Điều nầy xuất phát
từ một giả thuyết cho rằng: con người và vũ trụ có
cùng một bản chất, và thường tác động qua lại với
nhau. Vô hình dung, những người sử dụng pháp thuật được
coi là có khả năng tiếp xúc với vũ trụ. Với họ thì
pháp thuật là những phù phép nhắm áp đặt ý chí của một
kẻ có uy lực lớn lên trên ngoại cảnh (ví dụ như
những phù thủy trừ tà ma). Trong những nghi lễ nông
nghiệp tại Nhật Bản, thì những điệu múa cầu mưa đều
là những hành động pháp thuật (theo Maspéro). Những
phù thủy, theo người xưa, có thể làm mưa bằng những
động tác, bằng những tiếng gầm tương tự như tiếng
sấm để tác động vào thiên nhiên. Trong khi đó thì một
số người dự lễ (Nhật Bản) lại đeo mặt nạ như loài
ếch, khi tiến, khi lùi, báo hiệu cho cơn mưa. Căn cứ
trên như di vật thời cổ, những nhà khảo cổ học có
thể giúp ta giả định rằng múa ma thuật là một loại
múa rất cổ, và gần nhưcổ nhất là loại múa săn bắt
của con người thời đồ đá cũ. Động tác múa là động
tác mô phỏng theo sinh hoạt của loài thú tương ứng. Để
cho những cuộc săn bắt thành công, người xưa thường
mô phỏng cảnh được mồi bằng động tác. Để cho con
thú không đi xa khỏi đất săn, người xưa mô phỏng theo
cảnh con thú tha mồi trở về. Một trong những biện pháp
thông quan với thần linh là tạo nên dáng bên ngoài của
thực thể mà họ hiện thân. Thông thường là nhữngphục
trang, nhất là dùng mặt nạ, có khả năng thực hiện mục
đíchấy theo tư duy của họ. Tại Bali, các điệu múa
Barong của phù thủy Rangdar chứng tỏ rằng hiện tượng
đeo mặt nạ có thể tự đặt mình vào một cảnh quan về
phương diện pháp thuật.Theo một số tôn giáo, thì múa
là một tiết mục trong những buổi lễ thường kỳ. Mở
đầu là sự kích động bằng múa hát. Sự kích động
nầycó thể tác động đến thần kinh bản thân của phù
thủy, nhưng không bao giờ đẩy họ đến trạng thái không
tự chủ được. Như vậy thì phù thủy vẫn tỉnh táo
trong khi hành lễ. Những người mê tín tin rằng múa phù
thủy có những tác dụng sau đây:(a) Chữa lành một số
bệnh, bằng cách tìm ra linh hồn của người ốm;vì họ
cho rằng linh hồn đó đi lang thang đâu đó, hay bị một
tinh linh khác làm lạc hướng nên sinh bệnh. Khi phù thủy
múa, làm những động tác như: lay, gọi, giữ chặt, giằng
co, tức là vật lộn với quỷ thần ám ảnh. Theo những
nhà tôn giáo học, muá ma thuật, theo quan niệm cũ,là
hướng tới một thần linh hay một tinh linh lợi hại nào
đó.(b) Tạo cho người nhận pháp thuật (con bệnh) một
khả năng vững mạnh nào đó, có thể chống đỡ lại
những loài ma quỷ quấy phá,tấn công. Những thể điệu
múa ma quỷ chú trọng nhiều nhất là múa tay. độngtác
nầy gồm có ba loại: Động tác thể hiện trạng thái
xuất thần: đảo người, rung người, quay cuồng.Động
tác thể hiện pháp thuât: ấn quyết (tức là những tín
hiệuthông tin giữa người và qủy thần liên hệ). Động
tác minh họa nội dung của những lời cầu khẩn hay ước
nguyện nào đó.Tuy nhiên trong những quang cảnh cúng tế
tại đền thờ, điệu múa thường bị gói trọn trong một
không gian chật hẹp, cho nên đội hình và những động
tác múa cũng thường bị hạn chế.Những đạo cụ thông
thường của phù thủy khi múa gồm: nén nhang (người
Việt) chuông rung (người Dao) chùm quả nhạc (người Tày)
trống cơm (người Chàm). Chuông hay trống dùng để áp
đảo những quỷ thần.
Múa Lên Đồng:
Múa lên đồng cũng
là một biểu hiện của loại múa tôn giáo. nhiều nhà
nghiên cứu tôn giáo học Đông Phương thường bỏ công
nghiên cứu về múa lên đồng. Mỗi năm vào khoảng tháng
ba âm lịch, thì hội Phủ Giầy (Nam Định)chật ních
những loại con hương, đệ tử về cúng lễ. Theo tục lệ
thì "Tháng tám giỗ cha; tháng ba giỗ mẹ"; giỗ
cha là giỗ đức Trần Hưng Đạo ở đền Kiếp Bạc; giỗ
mẹ tức là lễ Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Thành Mẫu được
thờ tại các đền Phủ Giầy. Tại Huế, Liễu Hạnh Công
Chúa được thờ tại điện Hòn Chén. Múa lên đồng được
phân chia ra làm hai loại: loại múa của các bà đồng
chuyên nghiệp và loại múa con hương,đệ tử (con thánh).
Con thánh hiểu theo nghĩa mê tín là những đứa con là bố
mẹ đẻ không thể nuôi sống được, cho nên đã bán
cho Thánh, được thuốc giải, cứu sống được. Bà đồng
là những người làm nghề lên đồng bóng chuyên nghiệp.
bà đồng cũng tương tự như những bà "then"
chuyên cúng bái của dân tộc Tày ở Cao Nguyên.Mọi lễ
lượt đầu chuẩn bị chu đáo. Cuộc lên đồng chính
thức thực hiện bắt đầu khi bà đồng phủ diện. Phủ
diện tức là đắp chiếc khăn màu đỏ lên trên đầu và
mặt. Cô hầu là những người trở giúp cho bà đồng.
Thánh giáng là trạng thái của bà đồng đảo người tức
là đã được hồn nhập. Nhiều hình tượng khác nhau
trong khi lên đồng; như vậy thì y phục của từng nhân
vật cũng khác nhau. Đổi giá tức là chuyển từ nhân vật
nầy sang nhân vật kia. Trước tiên và cao nhất là mẫu
Thượng Thiên. Mẫu nầy đứng hành đầu và trang trọng
nhất; sau đó chuyển sang Mẫu Thoải. Mẫu Thoải có thể
là Liễu Hạnh Công Chúa, bà Thiên Y A Na hay Linh Sơn Thánh
Mẫu. Khi thay đổi thì những điệu múa thích hợp cũng
thay đổi theo từng vị Mẫu hay Quan Hoàng.
Những Điệu Muá:
Tất cả được phân
chia ra làm 8 loại múa lên đồng bóng:
(a)
Múa kiếm: múa kiếm được dùng khi những quan lớn nhập
vào con đồng. Những quan lớn được phân chia ra làm 4
loại: Đệ nhất, đệ nhị, đệ tam và đệ tứ. Khi múa
kiếm thì phải có hai nhạc cụ phụ theo: đó là trống
và beng beng. Quan trọng nhất trong múa kiếm là những động
tác về tay. Chẳng hạn: gác hai kiếm lên hai vai; chéo kiếm
trước mặt, vừa múa vừa nhảy; dắt kiếm trở vào thắt
lưng.
(b)
Múa mồi: múa mồi là dùng những nhang đèn trong khi múa.
Múa Mồi chỉ dùng trong trường hợp hồn nhập là mẫu Đệ
Nhất Thiên hay trong trường hợp múa Chầu Bà. Mồi thường
làm bằng giấy có tẩm thêm nến để bắt lửa, rồi sau
đó xoắn theo kiểu dây thường, dài khoảng 2 tấc tây là
vừa. Múa mồicũng là loại múa đơn và không có kết cấu
nào cố định cả.Những động tác chính trong loại múa
nầy là: chéo tay trước ngực,hoa tay cầm mồi, uộn bàn
tay trong các thế (tay thấp, tay cao;hai tay dang ngang hình cữ
V...) đồng thời cũng kết hợp với những động tác nhảy
từng bước ngắn; tất cả đều theo nhịp phách và trống.
(c)
Múa chèo đò: múa chèo đò thuờng thể hiện trong khi con
đồng thế thân cho cơ "Bơ Thoải". Văn chèo đò
thường theo một thể điệu đặc biệt. Danh từ "Bơ
Thoải" là tiếng đọc trại ra và gọi tắt của Ba
Thủy.Theo cách múa nầy, thì hai tay của con đồng cầm
hai mái chèo, bên trên có buộc hai sợi chỉ màu đỏ. Cô
đờng Bơ Thoải chống vào mái chèo để múa. Những động
tác chủ đạo bao gồm có: hai mái chèo rời;hai mái chèo
nhập một. Những bước múa là: bước nhún tới, bước
lùi lui, bước khoả chân,bước đá lùi. Loại nầy cũng
thường là múa đơn nữ và không có kết cấu theo quy định
sẵn.
(d)
Múa quạt: múa quạt thường thực hiện khi chầu đồng
Đệ Tứ Khâm Sai Thượng Thiên. Đây cũng là loại múa đơn
nữ, không theo một kết cấu nhất định nào cả. Loại
nầy là điệu múa tôn giáo thuần túy của dân tộc Việt
Nam. Quan trọng hơn hết là sự kết hợp những động tác
củaquạt với động tác nhảy chéo chân. Động tác của
quạt thì gồm có: guộn quạt lại, giật quạt lên xuống,
quay quạt theo vòng tròn hay bán nguyệt.
(e) Múa cung: múa cung
thường thể hiện khi xác động nhập là ông Hoàng Mười,
ông Hoàng Bảy hay ông Hoàng Ba. Một tay thì cầm cung, đồng
thời chân nhảy theo một vòng tròn. Khi vừa quay cung thì
mắt cũng hướng về phiá trước như tìm mục tiêu. Khi
phát hiện được mục tiêu rồi, thì rút một que nhang
lắp vào cung và quỳ xuống để bắn ra.
(f) Múa thanh long: múa
thanh long chỉ dùng khi xác đồng là Quan Lớn Tuần Tranh
(tức là Đệ Ngũ Long Vương) Múa thanh long thường có các
loại trống to nhỏ đệm theo.
(g)
Múa hèo: múa hèo thường có trống đệm theo qua những
khúc múa. Những người múa thường phải theo một thế
võ. Mội ông Hoàng đều phải dùng thế võ khác nhau.
(h) Múa lân: múa lân
là phần sau cùng cũng là phần ngắn nhất trước khi
chấm dứt buổi lễ. Bà đồng ngồi xuống chiếu trong khi
đó thì những cô hầu mời trà nước, bánh trái.
Múa lục cúng:
Phật Giáo du nhập
vào nước ta vào thế kỷ sau Công Nguyên. Vào Việt Nam,
Phật Giáo đã hội nhập với dân tộc tính Việt Nam.
Trở thành quốc giáo vào đời Lý, đến đời Trần, Phật
Giáo hãy còn thịnh, đời Hậu Lê trở đi thì nhường chỗ
cho Nho Giáo, nhưng trong dân gian thì vẫn bành trướng.
Những nghi thức Phật Giáo rất nhiều; hàng năm có nhièu
ngày lễ viá quan trọng. trong những ngày lễ Vu Lan, Phật
Đản, nhiều nơi có tổ chức múa lễ tiết. Trong những
múa lễ tiết thì múa lục cúng là quan trọng và thịnh
hành nhất. Theo truyền thuyết thì muá lục cúng do Bồ
tát Mã Minh và Long Thọ sáng ác ra, được du nhập từ Ấn
Độ sang Việt Nam. Cũng có ý kiến cho rằng: điệu múa
lục cúng do những thiền sư Trung Hoa đưa sang Việt Nam vào
Đàng Trong vào thế kỷ thứ XVII.Những giả thuyết trên
đây một phần nào đã dựa vào những đặc điểm sau
đây: dấu vết của điệu Mudra trong các thế tay của múa
lục cúng.Hình tượng lục hoa tiên nữ. Tất nhiên là
những thể điệu ngoại nhập phải hoà hợp với văn
hoá Phật Giáo bản địa để thành một hình thức múa
tôn giáo dân tộc.
Từ những thế kỷ
trước, hàng năm tại những chùa trong địa hạt Thuận
Thành, Văn Lâm, Mỹ Hào, Yên Mỹ, Thường Tín, cứ đến
ngày lễ Phật Đản thường có múa cúng dường Phật, mà
trong nghi thức có dâng lên sáu vật cúng. Về sáu vật
nầy, những giải thích đã không đồng nhất. Theo nhà
nghiên cứu tôn giáo Lâm Tô Lộc thì sáu vật nầy
là:hương, hoa, trà, đăng, quả thực. Nhưng theo Phan Kế
Bính thì lục cúng gồm: hương, hoa, đăng, đồ, quả,
nhạc. Chỗ khác nhau là "trà"và "đồ",
"thực" và "nhạc". "Đồ" ở đây
là một thứ nước hương thơm để tẩy uế trước khi
hành lễ theo tập tục của Ấn Độ; "thực"
là oản, một thứ vật cúng bằng xôi nén (oản xôi). Về
thể điệu: Lục cúng là điệu múa gồm có sáu người.
Ngày trước,dẫn đầu đội hình múa là hai vị tăng,
chân dàn, tay ấn. tay dâng vật cúng nào thì chân chạy
theo đội hình có nhiệm vụ làm rõ ý nghĩa của từng vật
cúng. Chẳng hạn như khi đăng "hoa", thì chạy theo
hình bông hoa 4 cánh. Bốn cánh đây có nghĩa theo "tứ
đế".Khi múa dâng "trà" thì lại chạy theo
hình chữ "thủy" (là nước).Có nhiều nơi thì
sáu tay ấn phải làm rõ nghĩa của từng chữ hương,hoa,
đăng, trà, quả, thực.Mỗi lần dâng lễ vật cúng nào
thì có một đoạn hát múa đi theo. sau khi chuyển xong đội
hình, người múa dừng lại, xếp thành hìnhtượng. Môt
vị sư vào tụng một đoạn kinh.Nhưng về sau thì những
vị tăng không tham gia múa nữa, mà chỉ có 6 chú tiểu hay
những thiếu nữ trong lứa tuổi 12 đến 13. Cứ như lời
hát trong lục cúng nêu rõ: -"Lục hoa tiên nữ, đồng
lai tiến cúng hoa đăng; đồng lai hiến vũ hoa đăng"Không
giống như ở sơ kỳ của sự phát triển lục cúng, mà
nội dungđược thể hiện ngay trong lời giáo đầu của
lục cúng: - "Nay dâng hương, hoa, đăng, trà, quả,
thực. Sáu mùi đều hương vị ngát lừng.Lòng kính thành
xin Phật chứng minh. Cầu thiên hạ thái bình an lạc".Về
sau thì điệu muá lục cúng đã có phần biến thể; thay
vì lụccúng thì đây lại là điệu múa đèn (hoa đăng).
Những chiếc đèn
chậu hình vuông, có cán cầm tay. Những động tác tay
không còn thể hiện nội dung lục cúng nữa, mà lại tập
trung theo kỹ thuật múa đèn.Đội hình của múa cũng
không theo chữ "thủy", chữ "điền" như
trước kia nữa. Sự hiến cúng đều theo điệu múa và
trong trường hợp nầy chỉ dâng lên ba vật cúng: hương,
hoa và đăng.Khi hiến cúng đọc lên: "La liệt hương,
hoa, kiến bảo đàn. Trùng trùng Phật cảnh, nhất hào
đoan".Đây là một điệu múa dùng đội hình và cỗ
(hình tượng) để diễn đạt nội dung lời hát theo điện
tán trong chùa. Trong điệu múa nầy,động tác về tay chủ
yếu là chao đèn. Người múa theo các đội hình như đường
thẳng, đường số "8", đường đan chéo vào nhau
và hình hoa hồi. Khi chạy quanh một góc nào đó, theo từng
hướng đông,tây, nam, bắc, thì tay trong thấp, tay ngoài
cao. các thế tay cơ bản được kết hợp với các thế
chân, như: ký, cầu, tấn, trung, ngồi,và các động tác
tay chân như giậm chân, đá, tọa, quay. Đội hình chủ yếu
kết hợp với các tuyến múa là: hai hàng chạy đối
xứng; cả tốp 6 người cùng nhau chạy theo hình hoa hồi
có 4 cánh. Thủ pháp biểu hiện khá độc đáo trong lục
cúng là những hình tượng để thể hiện nội dung của
đoạn hát.
Tên của mỗi cỗ
cúng có khi được gọi theo hai chữ đầu của mỗi
bài.Những loại cỗ là: cỗ la liệt, cỗ giác hoàng, cỗ
tướng hảo, lấy tên từ những đọan hát theo lục cúng:
- Cỗ la liệt: đây
là khúc múa theo một loại hình tượng được xếp đặt
bằng cách chồng người. Ba người đứng thành hàng
ngang, gác tay lên vai nhau và dang tay ở hai đầu hàng ngang.
Người đứng giữa dùng làm trụ cho vững chắc, cõng
người thứ tư lên vai. Người thứ năm và người thứ
sáu ngồi trên những cánh tay gác lên vai của những người
đứng dưới. Tất cả đều cầm đèn.
- Cỗ giác hoàng: đây
là khúc múa lục cúng gần giống như điệu cỗ la liệt,
tuy nhiên người thứ tư đứng trên vai người đứng
giữa dùng làm trụ chính.
- Cỗ tướng hảo: đây
là khúc múa chia làm hai phần: ba người đứng dưới theo
hình hàng ngang, ba người kia thì đứng lên trên vai của ba
người trước đó. Tất cả đều cần đèn cả hai tay.
Theo nhận định của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba (tạp chí
Nghệ Thuật7/1987) thì điệu múa lục cúng ở Việt Nam đã
biến điệu rất nhiều nếu so với xuất xứ từ Ấn Độ.
trong khi các nước theo Phật Giáo khác như Kampuchia, Thái
Lan, Sri Lanka thì vẫn nguyên bản của xứ Ấn.
Về
những sinh hoạt tín ngưỡng trong vùng đồng bằng sông
Cửu Long nhiều tài liệu Địa Chí, Văn Hoá cho biết:
-
Núi Bà Rịa phía bắc có ngôi đền Thần Nữ, núi Thủy
Vân ngoài mỏm núi có ngọn Thần Nữ, tục gọi là mỏm
Đinh Cô; núi Thần Mẫu, trong động có đền Thần Nữ.
-
Tại tỉnh Long An, tục thờ Mẫu cũng khá phổ biến,
nhiều gia đình thờ Mẫu ngay trong nhà mình. Ở huyện
Châu thành tỉnh Tây Ninh, xã Phước Hiệp Thịnh có chùa
Thái Lâm nơi chính điện thờ cốt Phật, phía sau lại thờ
Linh Sơn Thánh Mẫu.
- Ở tỉnh Sông Bé có nhiều nơi là
miếu Bà, lập lên vào thế kỷ XIX và phát triển nhiều
nơi khác.
- Ở vùng Vũng Tàu, tại thị trấn Long Hà, có
miếu thờ Bà Thủy (Mẫu Thoải) thu hút khách hành
hương đông đảo trong toàn vùng vào mùa lễ hội Bà. Ở
tỉnh An Giang, có chùa Tây An nổi tiếng, ngay trong điện
thờ Phật, cũng có đặt tượng Cửu Thiên Huyền Nữ, thờ
Bà Chúa Ngọc, Chúa Tiên và Cô hai hiên.
- Tại trung tâm thị
xã Châu Đốc, tỉnh An Giang, cũng có nhiều miếu thờ Bảy
Bà.
- Ở tỉnh Cần Thơ, tại chùa Nam Nhã thờ Tam Thánh:
Thích Ca, Khổng Tử, Lão Tử ở gian chính giữa, hai bên
lại thờ Cửu Thiên Huyền Nữ và Quan Thánh. Phía ngoài
trước chùa có miếu thờ Thổ Thần và miếu thờ Mẫu. Ở
tỉnh Bến Tre, chỉ trong 7 xã An Đức,An Bình Tây, Mỹ
Nhơn, Mỹ Chánh, Tân Xuân, Phước Tuy và Phủ Ngãi của
huyện Ba Tri có nhiều miếu thờ Bà trong xã, thôn hay
trong gia đình.
- Tại làng Hằng Thanh, huyện Bình Đại,
tỉnh Bến Tre, có thờ Ngũ Hành Nương Nương, Tứ Vị
Thánh Nương ngay trong chính tẩm.- Ở huyện Bình Đại
thuộc Bến Tre, mỗi làng đều có một miếu thờ Bà Chúa
Xứ và miếu thờ Bà Thiên Hậu. Ở xã Mỹ Thạnh, thịxã
Bến Tre, có miếu thờ Cửu Vị Thánh Nương bên cạnh
Tiền Hiền,Hậu Hiền.
- Những tài liệu nghiên cứu khác
cho biết nhiều vùng khác cũng nổi tiếng trong việc tôn
thờ Mẫu, như ở Tiền Giang tại thôn Mỹ Đông,tổng Lộc
Mỹ có miếu thờ Trinh Nữ; tại xã Kim Đông, bên bờ
sông Thủ Thừa có miếu thờ Hoả Tinh Nương Nương, được
vua Tự Đức phong làm Thượng Đẳng Thần.
-
Tại Sài Gòn, ít nhất là 30 đình miếu có thờ Mẫu.Con
số thống kê năm 1985 trong số 264 ngôi đình trong thành
phố Sài Gòn có tới 42 ngôi đình còn bàn thờ bà Ngũ
Hành, bà Linh Sơn,bà Thiên Hậu và Tứ Vị Nương Nương.
Tại đình Nhơn Hòa, quận I SàiGòn, bàn thờ Cửu Thiên
Huyền Nữ và Ngũ Hành Nương Nương đặt trong chính điện
rất trang trọng.
- Tại chùa Tây An, Châu Đốc An Giang, bên
trong có bàn thờ Bà Chúa Xứ; hai bên có Chúa Ngọc và
Chúa Tiên đứng hầu. Lại có bàn thờ Cửu Thiên Huyền
Nữ và bàn thờ Cô Hiên, mà dân chúng quen gọi là"Phật
Cô".
- Chùa Ba Chúc (An Giang) thì bên trong thờ theo kiểu
Tiền Phật,hậu Mẫu; bên ngoài chùa thì có miếu thờ
Cửu Thiên Huyền Nữ.
Trong
những trường hợp dựng miếu, dù mang tính chất thờ
thánh mẫu riêng biệt, tuy nhiên vẫn diễn ra tính chất
hỗn dung, hoà hợp trong vấn đề tín ngưỡng.Chẳng hạn
như miếu thờ Bà ở chùa Cao ở thị xã Bến Tre, thời
gian qua, bên cạnh bàn thờ bà chuá Xứ (núi Sam) vẫn còn
trần thiết thêm bàn thờ Thần Tiền Hiền và Thần Hậu
Hiền nữa. Theo những nhà nghiên cứu phong tục thì việc
hỗn dung nầy có hai ý nghĩa: (a) Có thể thoả mãn được
nhu cầu tâm linh của mọi tầng lớp người (b)Trong trường
hợp việc thờ vị Thần Thánh nầy không được cúng tế
đầy đủ thì việc thờ Thần Thánh kia sẽ lôi cuốn thêm
vào. Ngoài ra, việc tập trung thờ cúng tại một địa
điểm thì tính chất hội tụ vẫn cao hơn.Hai trung tâm
thờ Mẫu nổi tiếng nhất của miền Nam là đền thờ Bà
Chúa Xứ ở núi Sam, Châu Đốc, tỉnh An Giang và điện thờ
Linh Sơn Thánh Mẫu ở núi Bà Đen, Tây Ninh. Tại những
vùng có nhiều người Hoa cư trú, như tại Chợ Lớn,
Đồng Nai, Kiên Giang, Cà Mâu, Cần Thơ, Sóc Trăng... trong
nhiều đình miếu thờ Thần, thường có bàn thờ bà Thiên
Hậu; lại có thêm Tứ Vị Nương Nương. Chẳng hạn như
Thất Phủ Miếu của người Hoa tại số 14 đường Nguyễn
Chí Thanh, thị xã Vĩnh Long, trong chính điện thì thờ Quan
Công; bên phải thì thờ bà Thiên Hậu, bà mẹ Thai Sinh
và Tứ Vị Nương nương bên trái. Tất cả đều được
trang hoàng lộng lẫy.Cùng với những ngôi đình miếu,
các ngôi chùa cũng là những không gian có thờ Thánh Mẫu.
Gia định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức ghi
lại:Những lớp người nầy đã tin vào đồng bóng, kính
trọng những nữ thần như Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Động,
quen gọi người phu nhân tônquý là "Bà", Bà Hoả
Tinh, Bà Thủy Tinh, cô Hồng, cô Hạnh..."Trong Đại
Nam Nhất Thống Chí do Quốc Sử Quán triều Nguyễn
biên soạn khi chép về việc xây dựng vùng đất Hà Tiên
cũng đã viết: Ở châu Hòn Khoai thuộc huyện Long Xuyên,
có thờ Thiên Hậu Linh Thần.
1-
Ngũ hành Nương Nương Ngũ hành Nương Nương là năm vị
nữ thần quan trọng trong lễ bái của dân gian Việt Nam,
biểu tượng cho năm chất cấu tạo ra vũ trụ.Theo quan
niệm cổ truyền thì vũ trụ sanh nên biẻu tượng
những nhân vật nữ được gọi là "Năm Mẹ": Thổ
Đức Thánh Phi, Hoả Đức Thánh Phi, Kim Đức Thánh Phi,
Thuỷ Đức Thánh Phi và Môc Đức Thánh Phi. Người bình
dân thường tin rằng: Năm vị nữ thần nói trên có những
quyền năng đối với các nghề liên quan đến đất đai,
củi lửa,kim loại, nước nôi và cây gỗ (Kim, Mộc, Thủy,
Hoả, Thổ). Do đó,được đông đảo quần chúng tôn thờ
dưới mọi hình thức, nhất là những vùng nông thôn và
ven đô.bài vị của Ngũ Hành thường được thờ trong
những am, miếu, điện;gần đây có phong trào thay thế
bài vị của Ngũ hành Nương Nương bằng những loại tượng
đúc bằng xi măng hàng loạt; mỗi vị sơn môt màu riêng,
phù hợp với năm tính chất: vàng, đỏ, xanh, trắng
và tím. Ngoài Ngũ Hành Nương Nương vừa nói trên, có
nhiều nơi lại còn thờ thêm "Nhị Vị Công Tử"
hay là "Nhị Vị Công Nữ", gọi làThánh Cô và
Thánh Cậu. Theo những nghiên cứu của các nhà phong tục
học thì đây là sự ảnh hưởng của cách thiết lập
những điễn thờnữ thần Thiên Y A Na (Bà Chúa Tiên, Bà
Chúa Ngọc), tức là biến tướng của Bà Mệ Xứ Sở Pô
Inưga của người Chăm Pa (Chiêm Thành).Ngũ Hành Nương
Nương đã được những vị vua đầu triều Nguyễn
bantặng mỹ tự là "Tư Hóc Mặc Vận Thuận Thành Hoà
Tự Tư Nguyện Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Thượng Đẳng
Thần. Tại vùng Thừa Thiên Huế có đến 37 đền miếu
thờ Ngũ Hành Nương Nương và được vua Tự Đức truy
tặng mỹ tự đó.
2-
La Sát Thánh Nương Toàn danh hiệu của vị nữ thần nầy
là Phổ Thiên Chi Hạ La sát Thánh Nương, còn được gọi
là "Bà Thánh Anh La Sát". Nguyên gốc từ loài
"chằn" Rashasha của đạo bà La Môn, được hội
nhập vào tín ngưỡng của người Khmer, rồi được dân
gian hoá, thờ phượng trong nhiều đền miến. Theo Phật
Giáo thì quỷ La Sát Ha Ly Đế (Hariti)hay bắt con nít đem
về cho con mình ăn thịt; sau đó, đức Phật (?)cảm
thương, nên đã dùng phép thần thông bắt đức con của
con quỷ ấy tên là Tân Già La (Pingala) nhốt dưới môt
chiếc bát. Qủy La Sát thương con, cho nên đã đến cầu
khẩn xin đức Phật tha tội. Đức Phật khuyên mẹ con
chúng quy y Phật Pháp, cải tà quy chánh, nhưng con qủy nầy
lại ngần ngại, vì lũ con quá đông, nếu bỏ thịt
người thì tất cả những đứa con của mình đều đói
khát. Dức Phật hứa giúp chúng, cho nên, ngày nay mỗi
trưa, trước khiu lên qua đường thọ thực, chư tăng có
tục cúng mẹ con quỷ La Sát và các loài ma qủy khác. Về
sau, quan niệm La Sát Nương Nương (tức Thiết Phiến
Công Chúa), mẹ của Thánh Anh Đại Vương (tức Hồng hài
Nhi) trong truyện tây Du Ký nhập vào trong sự tích nầy.Theo
những truyền thuyết trong dân gian thì La Sát Nương Nương
có 26 người con, thường làm hại trẻ sơ sinh và thiếu
nhi. Như vậy,đây là vị thần vừa mang tính ác, lại vừa
mang tính thiện, cho nên cũng thường được cầu cúng. Bài
vị La sát Thánh Nương thường được thờ trong miếu
trước sân đình, hẫu cần có Chúa Động Tiên Nương(Bà
Chúa Động), Cô Hồng, Cô hạnh.
3-
Thất Thánh Nương Nương Thất Thánh Nương Nương còn
được gọi là Bảy Bà tức là bảy nàng tiên ở cung Diêu
Trì của Tây Vương Mẫu và thường phục vụ cho nhân vật
nầy. Các nàng tiên nầy là nữ thần của giới đồng
cốt ở Trung Quốc, có tên theo màu áo thường mặc của
mỗi người như Hồng Tiên Nương, Thanh Tiên Nương, Tử
Tiên Nương, Bạch Tiên Nương, Hoàng Tiên Nương. Lục Tiên
Nương và Lam Tiên Nương. Trong Tây Du Ký có kể lại những
nhân vật nầy. Môt số nơi khác thì Thất Thánh Nương lại
đồng hoá với Thiên Y A Na cho nên bàn thờ lại còn thêm
môt người con trai và một người con gái. Thất Thánh
Nương Nương thường thờ bằng bài vị, có nơi được
tạc bằng tượng có tô màu theo kiểu áo. Phổ biến về
việc thờ nầy trong vùng Cai Lậy, Cái Bè,Vĩnh Long.
4-
Kim Huê Thánh Mẫu: Nhân vật nầy thường được thờ
cúng trong cộng đồng người Hoa khắp nơi. Kim Huê Thánh
Mẫu thường được ghi trên tranh tượng là Huệ Phước
Phu Nhân tức là vị nữ thần trông coi về việc sinh đẻ
củacon người.
Thông thường, những gia đình nào hiếm
muộn con cái thường lễ bái, cầu đảo vị Nữ thần
nầy, thậm chí trong những khi thượng đồng nữa.Tại
miền Nam Việt Nam, môt số đình làng hay chùa làng cũng
thờ Kim Huê Thánh Mẫu bên hông chánh tẩm. Thành thử có
câu:Phương Hoàng đua, chim sẻ cũng đua,Anh đến chơi,
trước miễu sau chùa.Đụng người buôn bán, quê mùa
thiếu nhi.Lại có nơi dựng ngôi miếu riêng, rộng lớn
để thờ Kim Huê Thánh Mẫu. những nơi thờ nầy thường
thờ bằng cốt tượng gần môt Bà Chúa Thai Sanh và 12 bà
mụ bồng 12 đứa trẻ sơ sinh, trông coi việc sanh tử
trong môt giáp. Có nơi lại còn bày thêm 3 pho tượng
khác(Tiên Sư, Tổ Sư, Thánh Sư các nghề nghiệp trong
vùng), tục gọi là"Ba Đức Thầy", nhưng trong
quần chúng lại thường gọi lầm là "mười hai bà
mụ, mười ba (?) đức thầy".
4-
Vân Hương Thánh Mẫu
Trong
Ô Châu Cận Lục của Dương Văn An có đoạn viết về
việc thờ cúng tại điện Hòn Chén làng Hải cát như
sau:- Đền thờ nầy ở xã Khuất Phố (Hải Cát cũ),
huyện Kim Trà. Tục truyền rằng: Thần là người đàn bà,
cũng rất linh ứng.
Hàng năm,đầu xuân đảo vũ, mở hội
đua thuyền, quan bản hạt thân hành chủ tế; sau đó được
mưa ngay... (trang 176).Điện Hòn Chén được trùng tu vào
đời vua Đồng Khánh.Tương truyền rằng: Thân mẫu của
nhà vua nôn nóng không biết ngày nào con tai của mình được
lên ngai vàng, cho nên đã đưa lễ vật thường xuyên đến
đền nầy để cầu xin. Thần ứng mộng và sau nầy ngày
tháng lên ngôi đều đúng. Cũng vị lẽ đó cho nên nhà
vua sau khi lên ngôi, đã nhận là "đệ tử" của
Thánh mẫu. Điện được xây dựng thêm nhiều và lễ bái
càng đông... tại điện Hòn Chén có ảnh của vua Đồng
Khánh.Nguồn gốc:Qua những cuộc nghiên cứu hiện nay, đạo
Thiên Tiên Thánh Mẫu trở thành môt thứ tín ngưỡng phức
hợp, bao gồm việc thờ cúng mẫu từ bắc, tín ngưỡng
có nguồn gốc địa phương, lại cộng thêm việc
thần thánh hoá ông cha của vua Đồng Khánh và các vua sau.
hàng năm có những ngày lễ "Tháng bảy lễ cha, tháng
ba lễ mẹ".Một số nhà nghiên cứu khác cho rằng;
Thờ Mẫu ở Huế có những hình thức tín ngưỡng của
người Chăm Pa, nhất là việc thờ cúng Thiên YA Na. Hiện
nay, lễ nầy vẫn còn như lối "múa bóng" của
người ChămPa tại Phan Rang, trong hội Chà Căn (Rija Nugar)
hội Chà Rây(Rija Harey) hội Chà Pròong (Rija Prăng) hội
Chà Dậu (Rija Tadau)ở các tỉnh phía Nam.Về tín ngưỡng
đồng bóng tại Huế thì lại thường lấy các thần
thánh được thờ ở điện Hòn Chén và tục "tháng
bảy lễ cha, tháng ba lễ mẹ", trùng hợp với ngày
giỗ đức trần Hưng Đạo ở đền Kiếp Bạc (HảiHưng)
và ngày giỗ Liễu Hạnh Công Chúa thờ ở Phủ Giầy (Núi
Gôi thuộc hà Nam Ninh). Trong những ngày lễ kễ trên tại
điện Hòn Chén, việc lên đồng bóng, đàn hát chầu văn
được coi là nghi lễ chính của đạo Tiên Thiên Thánh
Giáo.-./.