Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
             



SỰ THAM GIA CỦA
TIẾNG KHMER VÀO TIẾNG VIỆT
QUA CA DAO Ở MIỀN TÂY NAM BỘ




- Mở đầu

Miền Tây Nam Bộ chủ yếu là vùng đồng bằng, xen với các vùng trũng như Đồng Tháp Mười ở hai bên sông Tiền, tứ giác Long Xuyên ở phía Tây sông Hậu, là những hồ nước thiên nhiên góp phần điều hòa lưu lượng cho sông Cửu Long vào mùa nước nổi tháng 9, tháng 10. Ngoài khơi là vùng biển nông, có nhiều đảo và quần đảo như Côn Sơn, Thổ Chu, Nam Du, Phú Quốc…, cùng một vài dãy núi thấp ở phía Tây An Giang, Kiên Giang.

Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay ước khoảng hơn một triệu người, tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh Sóc Trăng (khoảng gần một phần ba), rồi đến Trà Vinh (khoảng 300 ngàn), Kiên Giang (khoảng 200 ngàn), An Giang (khoảng 80 ngàn), Bạc Liêu (khoảng 60 ngàn), Cần Thơ (khoảng 40 ngàn), Cà Mau (khoảng 25 ngàn), Vĩnh Long (khoảng 20 ngàn).

Người Khmer đã sinh sống lâu đời ở đồng bằng sông Cửu Long có tiếng nói và chữ viết riêng. Đồng bào Khmer sống xen kẽ với đồng bào Kinh, Hoa trong các phum, sóc, ấp. Chính trong đời sống cộng cư ấy, sự ảnh hưởng qua lại giữa tiếng Khmer và tiếng Việt diễn ra như một quy luật tất yếu trong giao tiếp.

- 1. Tiếng Việt gốc Khmer qua ca dao Tây Nam Bộ

Người Việt đã ghi những chữ này bằng cách dùng mẫu tự tiếng Việt. Chúng ta đã dùng những chữ loại nầy vài thế kỷ nay, đến nỗi chúng ta không biết nó từ đâu mà có, chỉ cần hiểu nghĩa và dùng chúng như những chữ Việt thông dụng khác.

Ví dụ câu ca dao sau đây:

Chiều chiều lấy cái xneng
Lên đồng xúc cá hái sen một mình

Xneng là dụng cụ đan bằng nan tre, hay là trúc của người Khmer, có hình như cái xuồng. Người dân dùng để xúc cá, tép ở những nơi có nước cạn. Ở một câu khác:

Cút cụt đuôi ai nuôi mày lớn
Dạ thưa thầy con lớn mình ên

Khmer có  êng: một mình, chuyển sang Việt ngữ mất chữ g thành ên cũng mang ý nghĩa một mình.

Hay:

Xa em nhớ vị sim lo
Xa em nhớ khứa cá kho quê nghèo

Sim lo (hay sum lo) là món canh của người Khmer nấu bằng bầu, hay lá bình bát dây(?), đặc biệt nó được nêm bằng mắm bò hóc từ chữ prahok mà ra. Tiếp theo là câu:

Vai mang cái nóp tay xách cái lọp cái lờ
Về miền đồng chua nước mặn đặng nhờ miếng ăn

Cái nóp cũng vậy. Nóp cũng là tiếng Khmer còn giữ lại nguyên gốc, nó chuyển sang tiếng Việt bằng phiên âm mà thôi. Cái lộp theo tiếng Khmer là dụng cụ đan bằng tre, dùng để bắt cá tôm.

- 2. Những từ ngữ Khmer được Việt hóa

Từ ngữ Khmer khi đi vào tiếng Việt, được Việt hóa thành từ ngữ tiếng Việt, lâu dần người ta quên đi nguồn gốc của nó.

2.1.Những từ chỉ địa danh.

Trong số 13 tỉnh thành ở đồng bằng sông Cửu Long thì có đến hơn nửa trong số các danh từ riêng ấy hoặc là có từ gốc Khmer hoặc còn nghi ngờ về gốc Khmer của nó. Có thể kể như: Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, Cần Thơ, Cà Mau,… Trước hết là Cà Mau:

Cà Mau khỉ khọt trên bưng
Dưới sông sấu lội, trong rừng cọp um

Cà Mau là từ được Việt hóa từ tiếng Khmer là Tuk Khmau, nghĩa là nước đen mà thành. Nguyên do là vùng rừng U Minh gồm các địa danh như Cán Gáo, Tân Bằng, Trèm Trẹm, Cái Tàu và phía bên hữu ngạn sông Ông Đốc,…, nước ngập quanh năm, nước tích tụ lâu ngày chảy ngang qua rừng đầy lá mục của dừa nước, tràm, gừa, ráng, choại, dớn, lát, sậy, năn, cỏ nước mặn,… nên nước màu vàng đậm như nước trà, nhiều khi đen, có mùi hôi và vị phèn chua, mặn,…

Về Sóc Trăng nghe câu hát:

Chợ Sóc Trăng chà gạo lộn trấu càng,
Anh thương em là thương lời ăn tiếng nói dịu dàng,
Chớ không phải anh vì bạc vì vàng mà thương.

Sóc Trăng là do tiếng Khmer đọc trại ra từ chữ Srok Tréang có nghĩa là bãi sậy vì ngày xưa đất Sóc Trăng có nhiều lau sậy hoang vu. Vương Hồng Sển lại cho rằng: Sốc Trăng (Sóc Trăng) là tên dân gian của Nguyệt Giang tỉnh (tỉnh Sông Trăng). Péam  vàm, prêk là sông, sròk là sốc, khlẵn (kh’leang) là kho bạc. Nguyên đời vua Cơ Me (Khmer) có đặt một kho chứa bạc nơi đây. Đến đời vua Minh Mạng, đổi tên chữ ra Nguyệt Giang tỉnh vì triều đình đã ép chữ sốc biến ra chữ sông, chữ kh’leang ra trăng và đổi thành nguyệt. Nhà học giả này còn khẳng định Sóc phải viết có dấu ô, tức Sốc mới đúng!

Qua cầu Rạch Miễu đến xứ dừa:

Bến Tre nhiều gái má hồng
Không tin thì xuống Mỹ Lồng mà coi

Theo cụ Vương Hồng Sển thì Bến Tre vốn là xứ sinh sản và sản xuất nhiều cá tôm, cho nên xưa, người Khmer gọi là Srok treay (đọc là sốc tre), nhưng sau này người Khmer gọi theo người Kinh là bến có nhiều tre để phân biệt với địa danh Cần Thơ, cũng có nhiều tre, người Khmer gọi tre là rusei, nên có hai địa danh rành rẽ: prêk rusei (sông tre) chỉ Cần Thơ / prêk kompong rusei để chỉ Bến Tre. Hội nghiên cứu cổ học Đông Dương, năm 1903 ấn hành quyển khảo cứu đặc biệt về tỉnh Bến Tre trong đó có đoạn (lược dịch): Bến Tre xưa, người Khmer gọi là sốc tre… vì trong xứ, trên các giồng có tre mọc đầy. Cụ Sển cho biết thêm “theo tôi (tức Vương Hồng Sển) đây là dịch sai hai chữ Bến Tre. Tre đây là treay của Khmer, phải dịch là cá (…). Lẽ đáng gọi Bến Tre là Ngư Tân, hoặc Bến Cá: srok kompong treay”.

Mỹ Lồng là địa danh nổi tiếng với nghề làm bánh tráng ở đây (Bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc). Mỹ Lồng có nguồn gốc từ chữ Khmer như âm của nó nghe không được thanh bay, nên người viết xin bỏ qua.

Ngược lên vùng Bảy Núi, có câu:

Anh về xứ Chắc Cà Đao
Bỏ em ở lại như dao cắt lòng

Chắc Cà Đao: tên một con rạch và cũng là tên một chợ nhỏ (nay là thị trấn An Châu) gần thị xã Long Xuyên, tỉnh An Giang. Học giả Vương Hồng Sển, ghi lại hai giải thích là:

Chắc Cà Đao có thể do chữ Khmer chắp kdam (bắt cua) mà ra vì vùng nầy xưa kia có nhiều cua. Theo nhà văn Sơn Nam, Chắc Cà Đao do chữ Prek Pedao; Prek=rạch; pédao=loại dây mây; rạch có nhiều dây mây.

Trở lại Tiền Giang với thành phố Mỹ Tho:

Đèn Sài Gòn ngọn xanh ngọn đỏ
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ ngọn lu
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi mười thu em chờ

Theo di cảo Trương Vĩnh Ký trong Le Cisbassac, người Khmer thời trước gọi vùng đất Mỹ Tho là srock mé sa, mi so. Nghĩa là xứ (srock) có nàng con gái (mé) có nước da trắng (sa, so). Khi sang Việt ngữ, dân gian gọi là Mỹ Tho, đã bỏ đi chữ srock, chỉ còn giữ lại mi so và đọc trại lại thành Mỹ Tho.

Bây giờ vượt cầu Cần Thơ về lại Phong Điền:

Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Phong Điền
Anh có thương em thì cho bạc cho tiền
Đừng cho lúa gạo xóm giềng cười chê

Vương Hồng Sển khẳng định chắc chắn rằng: Rạch Cái Răng lấy từ tiếng Khmer là krêk karan (hay kran), rạch có bán cà ràng. Tại con rạch này ngày trước có nhiều ghe của người Khmer chở cà ràng đi bán. Cà ràng là ông lò bằng đất nung theo hình số 8 có đáy cách nhiệt với sàn nhà, có hai phần, phần vòng tròn phía trên là lò lửa, trên miệng có gắn 3 cái chấu (ông táo) để bắc nồi ơ. Phần vòng tròn phía sau chỗ chứa củi đang chụm, vừa là nơi chứa tro và than đỏ để làm thành cái bếp nướng. Cà ràng thông dụng trong vùng Tân Châu, Châu Đốc…, ở nhà sàn, đáy của cà ràng giữ vai trò bảo vệ cái sàn chống hỏa hoạn. Tương tự, cà ràng cũng rất được dân chài lưới, hoặc những ghe có người sống như nhà lưu động ưa dùng vì tiện lợi. Chính từ cà ràng được các bản đồ thời Pháp phiên âm thành caran và biến âm dần thành Cái Răng như ngày nay.

Vàm có nguồn gốc từ tiếng Khmer: péam = cửa sông, nơi một con sông nhỏ (rạch) chảy vào con sông lớn. Ở đồng bằng miền Tây Nam Bộ có nhiều sông rạch, do đó có rất nhiều địa danh bắt đầu bằng chữ vàm như: Vàm Cống (thuộc Đồng Tháp), Vàm Nước Trong (Kiến Hòa), Vàm Sông Thượng (Cần Thơ), Vàm Nao (An Giang), Vàm Tấn ở Sóc Trăng.

Anh qua Vàm Tấn anh đến Cù Lao
Cho anh xin chút má đào của em

Vàm Đại Ngãi còn được gọi là Vàm Tấn (péam senn), là một bến cảng quan trọng tiếp nhận các thuyền đi biển từ Trung Quốc, Tân Gia Ba, Xiêm La, Cam Bốt… tụ tập rất náo nhiệt để trao đổi, mua chác lúa gạo, tơ lụa, hàng vải, cá mắm, mắm muối, đồ gốm, chén bát, sừng trâu, ngà voi, lông chim, sáp, mật ong… Đại Ngãi là từ Hán Việt của địa danh này.

Ở một câu ca khác:

Nước Ba Thắc chảy cắt như dao
Con cá đao bổ nhào vô lưới
Biết chừng nào anh mới cưới đặng em

Theo di cảo của Trương Vĩnh Ký, Ba Thắc Păm prek Bàsàk. Đây là tên gọi tiếng Khmer của một vị thần của người Khmer, có miếu thờ ở Bãi Xàu cũ. Địa danh Ba Thắc bên Campuchia cũng có. Tương truyền ôngBa Thắc là một vị hoàng tử người Lào đến sống vùng đất trên đường đi Tham Đôn, Mỹ Xuyên ngày nay. Khi ông chết người dân quanh vùng lập miếu thờ. Di tích này đến nay vẫn còn. Còn rất nhiều địa danh trong các câu ca dao miệt này, như:

- Bạc Liêu có nguồn gốc từ tiếng Khmer là Pooeu, nghĩa là cây lâm vồ (cây bồ đề - cây linh thiêng của đồng bào Khmer bởi họ cho rằng dưới gốc cây này Đức Thích Ca hóa Phật), người Triều Châu là chuyển âm thành Pô Léo có nghĩa lính Lèo, lính Lào, (Ai Lao);

- Vĩnh Long, đất này người cố cựu còn gọi là đất Vãng gần với Vũng. Từ địa danh Vũng Luông – Kompong Luông; biến dần ra Vũng Luông, rồi Vãng Luông. Tên Vĩnh Long có từ năm 1832 khi vua Minh Mạng đổi ra Hán tự);

- Châu Đốc (người Khmer gọi là srôk (xóm, xứ) méât (miệng mồm) cruk (heo): xứ miệng heo;

- Kế Sách, một huyện của Sóc Trăng, nằm ở gần cửa Ba Thắc (một cửa của sông Cửu Long), phần lớn đất đai là cát do phù sa sông Hậu, rất thích hợp cho việc trồng dừa và mía. Cát tiếng Khmer là K’sach, như vậy chuyển sang tiếng Việt thành Kế Sách.

- Sa Đéc, thị xã của tỉnh Đồng Tháp xuất phát từ Phsar Dek, phsar là chợ, dek là sắt);

- Trà Vang hoặc Trà Vinh xuất phát từ âm Khmer: Préah trapéang, Trapéang được Việt hóa thành âm Trà Bang, rồi Trà Vang, sau bị nói trại thành Trà Vinh.

2.2.Những danh từ chỉ động,thực vật, đồ vật.

Ngoài những địa danh có nguồn gốc từ tiếng Khmer đã được Việt hóa còn có những từ gốc Khmer khác chỉ các loài động, thực vật hay đồ vật cũng đi vào ngôn ngữ tiếng Việt.

Bạc Liêu nước chảy lờ đờ
Dưới sông cá chốt trên bờ Triều Châu

Cá chốt, tiếng Khmer là trey kanchos, khi đi vào ngôn ngữ phổ thông nó đã được Việt hóa thành chốt.

Tương tự là từ cá lóc trong câu ca:

Trời mưa mát đất, con cá lóc nó thoát khỏi nò
Cả tiếng kêu người nghĩa trên bờ
Vậy chớ mùng ai có rộng cho tôi ngủ nhờ một đêm

Tiếng Khmer có trêy rot chỉ một loại cá nước ngọt, người miền Nam gọi là cá lóc,có rất nhiều ở vùng đồng bằng Cửu Long. Ở Bắc, Trung bộ gọi là cá chuối, cá quả, cá tràu,… Đến câu ca dao sau đây:

Con quạ nó đứng đầu cầu
Nó kêu bớ má ghe bầu vô chưa?

Ghe bầu dùng chỉ một loại ghe lớn. Tiếng Khmer gọi xòm pầu tức ghe bầu; nói chi xòm pầu nghĩa là đi ghe bầu. Ca dao còn có câu:

Chú tôi trồng mía trồng khoai
Bớ thím ghe chài lấy chú tôi không?

Một loại ghe khác là ghe chài, danh từ ấy cũng được kết hợp hết sức độc đáo: Thím ghe chài chỉ người đàn bà đi trên ghe. Ghe chài là loại ghe có trọng tải lớn. Khmer có từ tuk pokchay. Tuk là tiếng Khmer nghĩa là ghe; còn pokchay nghĩa là chở đủ thứ, đó là tiếng Triều Châu đã được Khmer dùng như là tiếng Khmer. Người Việt dịch chữ tuk ra chữ ghe, nhưng lại mượn chữ pokchay đọc thành chài.

Tiếp với câu ca dao:

Trắng da vì bởi má cưng
Đen da vì bởi em lội bưng vớt bèo

Bưng được Việt hóa từ chữ trapéang: vũng, ao; lúc đọc là trà bang, trà vang, sau rút lại còn bang rồi biến âm thành bưng. Bưng lại kết hợp với từ Hán Việt biên (bờ phía ngoài) rồi đọc thành bưng biền,…

3. Những từ ngữ không xác định được nguồn gốc

Đây là những từ vừa đồng âm vừa đồng nghĩa với tiếng Việt, nhưng chưa thể xác định được bên nào vay mượn bên nào… Xin nêu một số ví dụ tiêu biểu sau đây:

Chuối non vú ép chát ngầm
Trai tơ đòi vợ khóc thầm ban đêm

Ép của tiếng Việt là đẩy dính sát vào nhau, làm áp lực, trong khi người Khmer có tiếng ép, bòng-ep, cùng nghĩa.

Canh chua điên điển cá linh
Ăn chỉ một mình nên chẳng biết ngon

Cá linh trong tiếng Việt trùng khớp với từ linh chỉ loài cá trong ngôn ngữ Khmer.

Xuống lên lên xuống đã quen
Bông tai hai chiếc tòn ten anh mua tặng mình

Trong ngôn ngữ Khmer có tòn tenh oi cham, tức lặp đi lặp lại nhiều lần cho dễ nhớ, chuyển sang chữ tòn ten của Việt ngữ có nghĩa là lủng lẳng. Không biết ngôn ngữ nào vay mượn của ngôn ngữ nào?

Một số câu hát quen thuộc khác:

Bình Đông là xứ quê mùa
Đi thăm cháu ngoại một vùa cà na

Tiếng Khmer kêu cà na là kana. Cà na là loại cây có loại màu đen, có loại màu xanh lợt, có loại màu trắng. Cà na trong tiếng Việt còn được gọi là tráp (Bắc Bộ). Cà na là từ ngữ trở thành tên gọi của một chi trong khoa học thảo mộc (canarium), bắt nguồn từ tiếng Nam Dương (Indonesia), Khmer hoặc Việt?

Thấy anh lên xuống xuống lên
Theo anh, em biết xui hên thế nào?

Hên: may mắn. Khmer có hêng, vừa đồng âm vừa đồng nghĩa.

Tiếng Khmer có ak hay k-ak là con diều. Người Việt gọi chim ác là là một loại chim săn như ó, diều, có lông trắng, thân hình nhỏ, có giọng la nhức tai mỗi khi chúng chạm trán với nhau.

Ngó lên con ác lăng xăng
Có đôi chim sẻ đang quần với nhau

Người Việt nói ém: dấu mất, Khmer cũng nói ém cùng nghĩa. Chúng ta hãy xem câu ca mang chức năng hài hước sau đây:

Anh như du kích ém quân
Chờ khi trăng lặn mới… mần với em!

Kết luận: Trên đây là một số từ ngữ Việt trong ca dao được truyền tụng ở dân gian chịu ảnh hưởng từ tiếng Khmer và một số từ ngữ tiếng Việt đồng âm, đồng nghĩa với tiếng Khmer, chưa xác định được bên nào chịu ảnh hưởng bên nào. Điều này cho thấy những cộng đồng dân cư chung sống với nhau rất dễ dàng phát sinh sự giao lưu văn hóa mà nhanh chóng nhất là về mặt ngôn ngữ.

* TỨ GIÁC LONG XUYÊN

Tứ giác Long Xuyên là một vùng đất hình tứ giác thuộc Vùng đồng bằng sông Cửu Long trên địa phận của ba tỉnh thành Kiên Giang, An Giang và Cần Thơ. Bốn cạnh của tứ giác này là biên giới Việt Nam-Campuchia, vịnh Thái Lan, kênh Cái Sắn và sông Bassac (sông Hậu).

Vùng Tứ giác Long Xuyên có diện tích tự nhiên khoảng 489.000 hecta. Địa hình trũng, tương đối bằng phẳng với độ cao tuyệt đối từ 0,4 đến 2 mét.

Mùa lũ (từ tháng Bảy đến tháng Mười Hai), vùng này thường ngập trong nước với độ sâu từ 0,5 đến 2,5 mét. Mùa khô, vùng này thường khô hạn và bị nước mặn thâm nhập. Chương trình thủy lợi thoát lũ qua biển Tây của Chính phủ Việt Nam đã phần nào giải quyết tình trạng ngập lũ và đất bị nhiễm mặn của vùng này.

Những năm 1988-1989, các tỉnh đã mở bước đột phá khai thác tiềm năng vùng đất hoang hóa, nhiễm phèn nặng, ít người lui tới này.

Nhiều người là nông dân, cán bộ, đảng viên đã “xâm mình” quyết dấn thân với mảnh đất “muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh”. Nhiều người khác đã cùng làm theo, góp phần xây dựng nên diện mạo mới của vùng tứ giác Long Xuyên ngày nay.




VVM.09.11.2023-NVA1593.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .