Loạt bài này nhằm mục đích tìm hiểu về những cuộc đấu tranh của người dân
Ukraine trên đường gian nan tìm Độc Lập Tự Do thoát ách nô lệ của
Đế Quốc Thô Bạo Diệt Chủng láng giềng Nga .
Điển hình thật gần đây,
ngày 24 tháng Hai năm 2022 , ngày Vladimir Poutine,
Tổng Thống Nga đã dã tâm xua
quân xâm chiếm Ukraine, mưu đồ lật đổ chính phủ Dân Chủ
của Tổng Thống Volodymyr Zelensky để thành lập một chính quyền tay sai bất chấp
những phản kháng, phẫn nộ của nhân dân yêu chuộng tự do công lý hòa bình khắp nơi trên thế giới.
Từ Vũ
14.3.2022
- PHẦN II
. NHỮNG DỮ LIỆU LỊCH SỬ.
1- Nguồn Gốc Dân Tộc Ukraine
Trước khi có người Slave đến, lãnh thổ Ukraine là nơi sinh sống của các dân tộc Ấn-Iran đến từ phía nam, đầu tiên là người Scythes , sau đó là người Sarmates . Những dân tộc này đã sống trong khu vực vào giữa thế kỷ thứ VII và thứ III trước Công nguyên. Trong khi người Sarmates vẫn cư ngụ ở phía bắc Biển Đen, nơi có nước Ukraine ngày nay, thì người Scythes đã định cư xa về phía đông như Biển Caspienne ở thảo nguyên Á-Âu. Xa hơn, về phía nam là người Parthia, một cường quốc chính trị và văn hóa quan trọng của Iran - Ba Tư cổ đại (nay là các quốc gia Iraq, Iran và Afghanistan). Người Scythes và người Sarmates sau cùng đã bị các dân tộc Đức hấp thụ, đặc biệt là người Alains và người Goths.
Vào thế kỷ thứ I sau Công nguyên, người Slaves đã đi vào lịch sử. Vào thời điểm đó, các nhóm bộ lạc nói một ngôn ngữ tương đối phổ biến là "tiếng Slave chung". Vì không có dấu vết bằng văn bản nào của ngôn ngữ này, nên chúng ta cần phải xây dựng lại nó một cách thuần túy giả thuyết, bằng cách so sánh các ngôn ngữ Slaves hiện tại đang được nói với các văn bản cổ nhất. Từ thế kỷ thứ VI, sự thống nhất của các dân tộc Slaves bị phân tán thành nhiều mảng khi họ thực hiện các phong trào di cư lớn . Thế kỷ tiếp theo, ba nhóm ngôn ngữ Slaves khác nhau bắt đầu hình thành: Nam Slaves, Tây Slaves và Đông Slaves (tiếng Nga, tiếng Biélorusse, tiếng Ukraine và tiếng Ruthène). Do đó, tiếng Ukraina là một phần của Đông Slaves cùng với tiếng Nga và tiếng Biélorusse.
1.1. Nhà Nước Kiévien
Sau các cuộc xâm lược của người Đức vào Đế chế La Mã, khu vực Ukraine ngày nay đã trải qua nhiều làn sóng nhập cư của người Đức cho đến khi người Varèques, một dân tộc Scandinave liên kết với người Viking, định cư ở đây để thành lập công quốc Kiev vào năm 862, Kiev trở thành thủ đô của nhà nước có tổ chức đầu tiên trong khu vực này, ngày nay bao gồm Ukraine, Biélorussie và một phần lãnh thổ Nga.
Từ năm 912, công quốc Kiev bắt đầu tăng cường ảnh hưởng đối với các bộ lạc Slaves mới. Đại công tước của Kiev, Sviatoslav Ier (945-972), đã thành lập một quốc gia hùng mạnh ở phía bắc thảo nguyên Biển Đen; sau năm 972, khu vực ảnh hưởng của nó mở rộng về phía nam và phía đông tới biển Caspienne. Do đó, công quốc là quốc gia Slave đầu tiên định vị chắc chắn trong khu vực, điều này đã khơi dậy sự quan tâm của Đế chế Byzantine nằm xa hơn về phía nam. Và nhà nước Kiévien đã trở thành một đối tác thương mại quan trọng với Byzantium, đồng thời cũng là một đồng minh quân sự vô cùng giá trị.
Thành phố Kiev - "Mẹ Của Tất Cả Các Thành Phố Nga"- vẫn là trung tâm của nhà nước Kiévien trong suốt hai thế kỷ. Dưới triều đại của Vladimir Đại đế (980-1015), quá trình Cơ đốc giáo hóa công quốc đã bắt đầu và giúp thống nhất vương quốc xung quanh bản sắc mới do Cơ đốc giáo Byzantine truyến cho. Sau Cuộc ly giáo năm 1054, đã tạo ra sự tách biệt của Giáo hội Công giáo phương Tây ra khỏi Giáo hội Chính thống Đông phương, Nhà nước Kiévien russe vẫn trung thành với Nghi thức Byzantine và Giáo hội Đông phương.
1.2. Cơ Đốc Giáo Chính Thống
Nhà thờ phương Đông luôn bị ảnh hưởng rất nhiều bởi triết học và văn học Hy Lạp, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi ồ ạt của các dân tộc Slaves sang Cơ đốc giáo chính thống Byzantine. Nhưng ngôn ngữ được sử dụng trong phụng vụ không phải là tiếng Hy Lạp, mà là tiếng Slavon, tùy từng trường hợp có thể được gọi là "tiếng Slavon của Giáo hội" hoặc "tiếng Slavon của Nga", một trong hai ngôn ngữ phụng vụ tiếng Slaves của Chính thống giáo, ra đời cùng với quá trình Kitô giáo hóa quốc gia Kiévien và nay vẫn còn được sử dụng ở một số nhà thờ Nga, Biélorusses và Ukraine.
Slavonic ban đầu là một ngôn ngữ viết chung cho người Slaves chính thống và được thích ứng bằng ngôn từ vào thế kỷ thứ IXe để truyền giảng cho người Slaves bởi hai "sứ đồ Slaves", Cyrille và Methode, người Hy Lạp, đặt trên cơ sở ngôn ngữ Slaves mà 2 vị này biết: ngôn ngữ Slave Macedoine của vùng Salonique (thành phố cảng trên biển Égée), tức là tiếng Bulgaria-Macedonien cũ. Ngôn ngữ viết của các văn bản sớm nhất này được gọi là slave cũ hoặc slave nguyên thủy. Hai vị truyền giáo Cyrille và Methode sử dụng tiếng Slavon làm ngôn ngữ truyền giảng thay vì bằng tiếng hy lạp hoặc tiếng latin, bởi vì tiếng Slavon có lợi thế là hầu hết các người Slaves đều có thể hiểu . Hai vị này cũng đã lập tức điều chỉnh bảng chữ cái Hy Lạp thành Slavon để sau này qua đó đã tạo ra bảng chữ cái được gọi là "Cyrillique".
Trên thực tế, bảng chữ cái do Cyrille và Methode phát minh không phải là bảng chữ cái Cyrillique, mà là bảng chữ cái Glagolitique (từ tiếng Slavon Glagoljati :"nói" hoặc "nói thành lời"), được sử dụng để truyền bá phúc âm cho những người Balkans. Sau đó bảng chữ cái này bị giáo hoàng cấm và đã biến mất gần như hoàn toàn từ thế kỷ thứ Xe .
Do đó, tiếng Slave cổ là ngôn ngữ gốc của các dân tộc Slaves, nhưng ngôn ngữ này đã bị phân chia thành nhiều mảnh từ thế kỷ thứ Xe để tạo ra, vào khoảng thế kỷ thứ XIVe, với tiếng Nga, tiếng Ukraine và tiếng Biélorusse. Do đó, ba ngôn ngữ này, cũng như tiếng Ruthian, ban đầu là một và cùng một ngôn ngữ. Ngày nay cả ba là một phần của nhóm ngôn ngữ gọi là Đông Slave thuộc nhánh ngôn ngữ Slaves. Tiếng Nga, tiếng Ukraine và tiếng Biélorusse có nguồn gốc từ Đông Slave cổ, ngôn ngữ được tổ tiên của những người Nga, người Ukraine và người Biélorusse hiện đại sử dụng.
Vào thế kỷ thứ XIIIe , người Mông Cổ xâm chiếm khu vực này (xem bản đồ), khiến nhà nước Kiévien phải bị chia cắt. Với sự suy giảm của ngôn ngữ thứ hai và sự phân mảnh của nó ở các quốc gia mới, ngôn ngữ Đông Slave bắt đầu phát triển thành các ngôn ngữ riêng biệt, có thể so sánh với những gì đã xảy ra với tiếng Latin và các ngôn ngữ Romanes (tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Catalan, tiếng Pháp, v.v.).
2 - Liên Minh Ba Lan và Lituanie
Vương quốc Galicie-Volhynie (tiếng Ruthène là Галицко-Волинскоє Королѣвство, tiếng Ukraine là Галицько-Волинське князівство hoặc Halytsʹko-Volynsʹke knyazivstvo ; tiếng Ba Lan là Księstwo halicko-wołyńskie và tiếng Nga : Галицко-Волынское княжество) ngày nay nằm ở phía tây Ukraine, đã từng là một quốc gia Đông Âu được thành lập bởi sự hợp nhất của các công quốc Ruthènes Galicie và Volhynie vào cuối thế kỷ thứ XIIᵉ. (tham khảo bản đồ của các khu vực lịch sử: Volhynie, Galicie, Ruthénie, Podolie, Zaporoguie, Méotide, Tauride, Yedisan, Boudjak, Bucovina và Crimée).
2.1. Phân Chia Galicie-Volhynie
Đó là thời điểm , vào thế kỷ XIIIe và XIVe , quốc gia hùng mạnh nhất ở Đông Âu, đặc biệt là với sự xuất hiện của một số lượng lớn thương nhân Do Thái và Armeniens và những thợ thủ công người Đức. Vương quốc mở rộng quyền lực bằng cách chiếm Kiev. Đây là thời đại hoàng kim của ngôn ngữ Ruthène, bắt nguồn cho tiếng Ukraine cổ, tiếng Nga cổ và tiếng Biélorusse cổ. Tiếp đó, vương quốc Galicie-Volhynie đã phải trải qua một thời kỳ vô cùng hỗn loạn, trong đó Ba Lan và Hungarie cố tranh giành quyền kiểm soát lãnh thổ. Vào thế kỷ XIVe, Ba Lan và Lituanie bắt đầu đánh nhau, sau đó chiếm Galicie-Volhynie rồi đạt được một sự thỏa thuận bằng cách phân chia lãnh thổ.
Khi xung đột kết thúc, Ba Lan giành được Galicie và một phần của Volhynie, phần còn lại của vương quốc thuộc về Lituanie. Do đó, Nhà nước Kiévien trước đây (có nguồn gốc từ Kiev), chỉ còn tồn tại trong ký ức vì đã bị xáo trộn và chia cắt bởi một số quốc gia (Ba Lan, Lituanie, Moldavie, v.v.)để chịu ảnh hưởng của cả tiếng Ba Lan và tiếng Lituanie.
Người Ukraine hiện tại coi Galicie và Volhynie là các quốc gia tiền thân của đất nước họ, trong khi người Nga coi đó là các quốc gia "Nga", và các nhà sử học chuyên môn gọi là "Người Slave phương Đông". Cứ cho rằng vào thời điểm này vẫn chưa xuất hiện sự khác biệt giữa người Nga, người Biélorussie và người Ukraine, và người Cosaques có thể vì là người Nga, người Biélorussie và người Ukraine giống nhau bởi hai điểm chung là theo Chính thống giáo và chiến đấu chống lại người Ottomans (Đế quốc Thổ Nhĩ Kỳ).
2.2 . Liên Minh Lublin (1569)
Năm 1569 đã diễn ra Liên minh Lublin — một hiệp ước được ký kết tại Lublin, Ba Lan — hiệp ước thống nhất Vương quốc Ba Lan và Đại công quốc Lituanie để trở thành một quốc gia duy nhất. Tiếp đó, tất cả các lãnh thổ cũ của Galicie-Volhynie đã trở thành Ba Lan, tạo ra quốc gia lớn nhất tại châu Âu vào lúc đó.
Hiệp ước năm 1569 đã tạo dựng nước Cộng hòa của hai quốc gia dưới quyền của một vị vua chung do các bang của hai nước bầu ra. Liên minh tồn tại cho đến cuối thế kỷ thứ XVIIIe , trong khi ba cường quốc láng giềng - Nga, Phổ và Áo - chia sẻ thực thể chính trị. Tất cả các lãnh thổ của Ukraine ngày nay, bao gồm cả Kiev, đều nằm dưới sự giám hộ của Ba Lan, Lituanie hoặc Ottoman (Đế quốc Thổ).
Kể từ năm 1654, Ba Lan, tức là Nước Cộng hòa Của Hai Quốc gia, đã tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại Nga vì lý do các lãnh thổ ngày nay thuộc Biélorussie và Ukraine; nhưng Ba Lan đã không thành công trong việc khuất phục đoàn quân Cosaques Zaporogues , một đồng minh của Nga.
Cuộc chiến tranh Ba Lan-Nga cứ thế kéo dài và chỉ kết thúc bằng Hiệp ước Androussovo năm 1667. Tây Ukraine (phía Tây sông Dniepr) thân Ba Lan, nhưng Đông Âu Ukraine công khai tuyên bố ủng hộ sự gắn bó với Nga .
3- Ba Lan và Nga Phân Chia Ukraine
Hiệp ước Androussovo (1667), còn được gọi là "Thỏa thuận đình chiến Androussovo", được ký kết giữa Cộng hòa Hai Quốc gia (Ba Lan) và Nga, phê chuẩn việc phân chia Ukraine giữa Ba Lan và Nga. Hiệp ước chấm dứt sự chiếm đóng của Nga, nhưng Moscow chiếm lãnh bờ phía Đông của sông Dniepr , bao gồm cả Kiev, trong khi đó thì Ba Lan giữ lại bờ phía Tây. Nói một cách khác, phía Tây Ukraine, còn được gọi là "Ukraine Tả Ngạn", và Biélorussie thuộc về Ba Lan. Tất cả miền Nam Ukraine ngày nay, bao gồm cả bán đảo Crimée , vẫn nằm dưới sự chiếm đóng của Đế quốc Thổ (Ottoman). Thỏa thuận đình chiến năm 1667 được tái gia hạn vào năm 1678 và dẫn đến Hiệp ước Hòa bình vĩnh viễn năm 1686, mười chín năm sau.
Hiệp ước Andrusovo đã mang lại lợi ích rõ rệt cho Nga vì Nga đã chiếm được miền Đông Ukraine (Ukraine Tả Ngạn) cũng như một số vùng lãnh thổ khác, bao gồm cả Kiev, mặc dù thành phố này nằm về phía Tây của dòng Dniepr). Tại Nga, hiệp ước thường được coi là một bước tiến lớn nhằm hướng tới việc thống nhất ba quốc gia lớn Đông Slave: người Ukraine, người Biélorusses và người Russes, trong một "nhà nước Nga". Ngược lại, ở Tây Ukraine, thỏa thuận ngừng bắn được coi là sự chia cắt đất nước Ukraine giữa các quốc gia láng giềng hùng mạnh.
3.1. Tả Ngạn Ukraine và Hữu Ngạn Ukraine
Tả ngạn Ukraine (bên phải trên bản đồ) là tên lịch sử của một phần Ukraine nằm ở bờ Đông sông Dniepr tương ứng với các vùng Tchernihiv, Poltava và Soumy ngày nay, cũng như một phần của Kiev và vùng Tcherkassy. Còn về Hữu Ngạn Ukraine (bên trái trên bản đồ) là tên gọi lịch sử của một phần Ukraine nằm ở bờ Tây sông Dniepr, tương ứng với các khu vực hiện tại là Volhynie, Rivne, Vinnytsia , Zhytomyr, Kirovohrad và Kiev , cũng như một phần của tỉnh Tcherkassy và Ternopil.
Ngay từ năm 1667, dưới triều đại Sa hoàng Nga, Alexis Ier (1645-1676), Ukraine bắt đầu chịu ảnh hưởng của tiếng Nga. Sa hoàng đã áp đặt tại Đế quốc Nga, bao gồm cả ở miền Đông Ukraine, một chế độ cảnh sát trị. Ông ta tiếp tục thuộc địa hóa Siberia cho tới mé biển Thái Bình Dương. Chính vào thời điểm này, người Ukraine ở phương Đông bắt đầu chịu sự Nga hóa, trong khi người Ukraine ở phương Tây, đã trở thành người Ba Lan, giữ ngôn ngữ của họ trong khi "phong phú hoá" nó bằng các từ tiếng Ba Lan. Ba Lan đã dành cho Ukraine tình trạng của một lãnh thổ tự trị, mặc dù vẫn nằm trong sự quản chế của Ba Lan.
Vào giữa thế kỷ thứ XVIIe, đã có những sự khác biệt lớn giữa tiếng Nga và tiếng Ukraine: trong khi tiếng Nga được nói tại xung quanh Moscow, các lãnh thổ của Ukraine bị chia cắt giữa một số quốc gia (chẳng hạn như Đế quốc Áo-Hung và chế độ Rzeczpospolita , tổ tiên của Ba Lan hiện đại).
Tình huống này nhất thiết phải ảnh hưởng đến ngôn ngữ tiếng Nga và tiếng Ukraine, bởi vì ngôn ngữ Ukraine này vẫn giữ được ngữ pháp của nó bằng cách kết hợp các yếu tố từ vựng của tiếng Ba Lan, tiếng Hung Gia Lợi, tiếng Romain và tiếng Đức của Áo (hoặc tiếng Áo-Bavarois). Trong khi đó, tiếng Nga dần dần phát triển thành hình thức "hiện đại" mà chúng ta biết như ngày hôm nay.
3.2. Diệt Ukraine Tận Gốc
Năm 1720, Sa hoàng Peter II, người trị vì từ năm 1727 đến năm 1730, đã ra lệnh viết lại tất cả các sắc lệnh và văn bản pháp luật đã viết bằng tiếng Ukraina qua tiếng Nga. Năm 1763, sắc lệnh của Catherine II (1762-1796) tuyệt đối cấm dạy tiếng Ukraine tại Học viện Kiev-Mohyla.
Năm 1772, chia cắt đầu tiên đã diễn ra sau những chiến thắng liên tiếp của Nga đối với Đế chế Ottoman. Một thỏa thuận ký kết giữa Phổ (Prusse) và Nga, một cuộc phân vùng thứ hai diễn ra vào năm 1793. Các lãnh thổ phía Tây sông Dnier vẫn nằm trong quỹ đạo của Warsaw (Ba Lan) cho đến năm 1793-1795. Những cuộc chiến tranh giữa Nga, Phổ (Prusse) và Áo kết thúc bằng sự chia cắt phần còn lại của nước Ba Lan vào tháng 1 năm 1795. Nga chiếm phía Đông Ba Lan, Phổ (Prusse) chiếm phía Tây và Áo chiếm được Tây Nam (Galicie).
Cho tới lúc nào mà miền Tây Ukraine còn nằm dưới sự cai trị của Habsburg (Áo) thì ở vùng Ukraine đó còn được phép phát triển văn hóa và ngôn ngữ Ukraine , đặc biệt là sau Hiến pháp năm 1867. Ngay từ thế kỷ thứ XVIIIe , người Ukraine đã có thể phát triển trường học của riêng họ dạy bằng tiếng Ukraine.
Việc in báo bằng tiếng Ukraine được cho phép từ năm 1848. Galicie và ở một mức độ thấp hơn là Bukovine theo một cách nào đó đã trở thành mảnh đất màu mỡ cho các yêu sách ngôn ngữ của người Ukraine. Cần phải lưu ý rằng, về phía Đế quốc Áo-Hung, việc sử dụng tiếng Ukraine là một phương tiện để hạn chế tuyên truyền chủ nghĩa Pan-Slaviste của Saint Petersburg. Người Ukraine ở Ba Lan và Đế quốc Áo-Hung theo truyền thống được gọi là "người Ruthènes".
Vào thời điểm này, thuật ngữ "tiếng Ukraina" hay Oukraïna (tiếng Nga) vẫn chưa được sử dụng một cách phổ biến. Người Galicie, những người sinh sống ở Galicie, miền Tây Ukraine ngày nay, tự gọi mình là "người Nga" (dịch theo tiếng Pháp là Ruthènes) để phân biệt họ với người Ba Lan. Tên này được sử dụng cho đến cuối thế kỷ thứ XIXe . Trong lúc đó, những người được gọi là "người Ukraine" vẫn chưa tồn tại, ít nhất là không phải trong vùng Galicie. Đối với các vùng khác xa hơn về phía Đông, người ta nói bằng nhiều ngôn ngữ địa phương Nga.
4- Nga Hóa Ukraine Dưới Thời Sa Hoàng
Vào thế kỷ thứ XIXe , Đế quốc Nga nổi bật qua các chính sách rất bảo thủ cực đoan do các Sa hoàng chuyên quyền áp đặt. Một ngoại lệ cũng xảy ra dưới triều đại gọi là "cải cách" của Alexander II (1855-1881), đặc biệt vào những năm 1860. Tuy nhiên, cùng lúc với một số thay đổi thực hiện, vị Sa hoàng này cũng không quên thực hiện một chính sách đàn áp ngôn ngữ đối với người Ukraine.
Tại Đại hội năm 1815, Nga đã thôn tính được toàn bộ Ukraine bằng cách hấp thụ luôn cả Ba Lan. Không giống như ở Tây Ukraine, miền Đông và miền Nam chịu sự Nga hóa của các Sa hoàng. Trong suốt hai thế kỷ bị chiếm đóng, các sắc lệnh (các oukases) nối tiếp nhau hạn chế và thậm chí cả tới việc cấm sử dụng tiếng Ukraine. Đối với các Sa hoàng, tiếng Ukraine không chỉ được coi là "thổ ngữ thấp kém hơn tiếng Nga", mà còn là "thổ ngữ chuyển tiếp" giữa tiếng Ba Lan và tiếng Nga. Tiếng Ukraine được gọi là "thổ ngữ tiếng Nga nhỏ". Đây là một lý do tại sao các Sa hoàng thực hiện một chính sách Nga hóa mạnh mẽ đối với người Ukraine.
Để thúc đẩy quá trình Nga hóa, chính quyền Nga khuyến khích một số lượng lớn công dân của họ tới định cư ở miền Đông Ukraine, đặc biệt là để khai thác vùng đất phong phú về mỏ than và sắt : một hòn đá nhắm trúng đích được cả hai mục tiêu!.
4.1. Những Sự Ngăn Cấm Tại Ukraine
Dưới thời Sa hoàng Alexander I, việc giảng dạy bằng tiếng Ukraine trong các trường học đã bị cấm chỉ ngay từ năm 1804, điều này đã dẫn đến sự suy thoái đáng kể cho nền văn hóa Ukraine.
Năm 1817, tiếng Ba Lan bắt buộc phải được giảng dạy trong tất cả các trường công lập ở miền Tây Ukraine (Hữu Ngạn), trong khi tiếng Nga được áp đặt ở miền Đông (Tả Ngạn). Chúng ta hãy nhớ lại rằng một phần phía Tây của Ukraine đã từng thuộc quyền cai trị của Ba Lan.
Nếu chính sách cải cách của Alexander II (từ 1855 đến 1881) lấy mục tiêu là xóa bỏ nạn mù chữ ở nông thôn, thì nó đã loại trừ những người Ukraine, trừ khi họ phải hoàn toàn được Nga Hóa!. Trên thực tế, vào cuối thế kỷ 19, người Ukraine đã hình thành một tầng lớp xã hội nông thôn thực chất, tiếng Ukraine được coi là ngôn ngữ của những người nông thôn thất học - đám nhà quê !.Chính sách ngôn ngữ đế quốc của Alexander II đẵ gia tăng khi một số sắc lệnh được ban hành nhằm vào việc cấm chỉ sử dụng tiếng Ukraine, "một loại thổ ngữ tiếng Nga nhỏ" ("малороссийском наречии" > malorossiyskom narechi), theo thuật ngữ vào thời kỳ đó.
Nói khác hơn thì "tiếng Nga nhỏ" hoặc "Nga nhỏ" được đề cập, không phải là tiếng Ukraine. Đối với người Nga, "tiếng Nga nhỏ" chẳng qua chỉ là một thứ "thổ ngữ" được sử dụng bởi những người bình thường và bị coi là "tiếng Nga bị đầu độc hóa bởi Ba Lan". Trong những điều kiện này, việc cấm chỉ "thổ ngữ" tiếng Ukraine trở thành rầt hợp pháp. Điều đó cũng xảy ra với Thông tư Valuev (tiếng Nga: "Valuyevskiy tsirkulyar") năm 1863 và Sắc lệnh Ems (tiếng Nga: "Emskiy ukaz") năm 1876. Ngay cả Thượng hội đồng của Giáo hội Chính thống Nga cuối cùng cũng cấm luôn các linh mục rao giảng bằng tiếng "thổ ngữ Nga nhỏ bé" dù bằng tiếng Ukraine hay tiếng Biélorusse .
- Thông Tư Valuev
Thông tư Valuev ra ngày 18 tháng 7 năm 1863 là một sắc lệnh của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Đế quốc Nga, Pyotr Aleksandrovich Valuyev, theo đó các ấn phẩm bằng tiếng Ukraine đều bị cấm, bao gồm các văn bản tôn giáo, sách giáo khoa, văn học, các tác phẩm văn chương, các bài hát dân gian, các buổi biểu diễn sân khấu, v.v. Đối với ông ta , qua câu nói nổi tiếng của vị bộ trưởng này : "Chưa bao giờ có tiếng Ukraine, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có." Đây là một đoạn trích từ thông tư này (bằng tiếng Nga với bản tạm dịch dưới đây :
Самый вопрос о пользе и возможности употребления в школах этого наречия не только не решен, но даже возбуждение этого вопроса принято большинством малороссиян с негодованием, часто высказывающимся в печати.
Они весьма основательно доказывают, что никакого особенного малороссийского языка не было, нет и быть не может, и что наречие их, употребляемое простонародием, есть тот же русский язык, только испорченный влиянием на него Польши; что общерусский язык так же понятен для малороссов как и для великороссиян, и даже гораздо понятнее, чем теперь сочиняемый для них некоторыми малороссами и в особенности поляками, так называемый, украинский язык. Лиц того кружка, который усиливается доказать противное, большинство самих малороссов упрекает в сепаратистских замыслах, враждебных к России и гибельных для Малороссии.
“Vấn đề về lợi ích và khả năng sử dụng loại thổ ngữ này trong trường học không những không được giải quyết mà ngay cả việc đưa ra vấn đề này ra cũng bị đa số những "người Nga Nhỏ" tiếp nhận bằng một sự phẫn nộ (phản đồi), thường được bày tỏ trên báo chí .
Điều đó chứng tỏ rất rõ ràng rằng không có ngôn ngữ Nga Nhỏ cụ thể nào, không bao giờ có và không thể có, và thứ thổ ngữ của họ được những người bình thường sử dụng cũng ngôn ngữ Nga, nhưng đã bị hư hoại do ảnh hưởng của Ba Lan và rằng tiếng Nga thông thường đối với Người Nga Nhỏ cũng rõ ràng như đối với Người Nga Lớn, thậm chí còn dễ hiểu hơn cái gọi là tiếng Ukraine do một số Người Nga Nhỏ và đặc biệt là người Ba Lan biên soạn cho họ. Bản thân phần lớn những Người Nga Nhỏ chỉ trích nhóm này đã cố gắng chứng minh điều ngược lại với những quan niệm ly khai thù địch với Nga và tạo nguy hiểm cho Nước Nga”.
Trên thực tế thì chính quyền Nga lo sợ rằng những người yêu chuộng ngôn ngữ Ukraine khác với tiếng Nga có thể rao truyền một hệ tư tưởng ly khai không chỉ chống lại tiếng Nga, mà đặc biệt là đối với nước Nga.
- Điều Lệ Cho Các Trường Tiểu Học
Năm sau đó, năm 1864, Điều lệ trường tiểu học công lập được ban hành. Theo điều lệ trường đại học mới, luật mới về trường tiểu học và trung học đã được ban hành dưới thời Alexander II. Đầu tiên những điều lệ này được soạn thảo dưới sự chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Alexander Vasilyevich Golovnin, sau đó được Hội đồng Nhà nước kiểm tra và được Sa hoàng chấp thuận.
Статья 4.
В начальных народных училищах преподавание совершается на русском языке
“Điều 4
Ở các trường tiểu học công lập, việc giảng dạy phải bằng tiếng Nga.”.
- Sắc lệnh Ems
Các biện pháp liên quan đến việc giảng dạy được củng cố thêm qua Nghị định Ems ngày 18 tháng 5 năm 1867, cấm nhập khẩu sách bằng tiếng Ukraine vào Đế quốc Nga cũng như in ấn các văn bản gốc hoặc bản dịch sang tiếng Ukraine, ngoại trừ các tài liệu lịch sử (không áp dụng chính tả tiếng Ukraine hiện đại) và cho một số tiểu thuyết (có thể áp dụng chính tả tiếng Nga). Nhưng chưa chấm dứt ở đó vì ... các buổi biểu diễn sân khấu cũng bị cấm chỉ vào năm 1876, cũng như tất cả các tuyên bố và đọc công khai, chưa kể đến việc xuất bản các bản nhạc bằng tiếng Ukraine. Rồi, chức vị Chủ tịch Khoa Dân tộc học tại Đại học Kiev cũng bị dẹp bỏ.
Sắc lệnh Ems (theo tên thành phố Bad Ems ở Đức, nơi sắc lệnh này được ban hành) ngày 30 tháng 5 năm 1876 là một sắc lệnh của Sa hoàng Alexander II Nga trong việc cấm sử dụng chữ viết bằng tiếng Ukraine, ngoại trừ việc in lại các tài liệu cũ . Các hành động dưới đây đã bị nghiêm cấm bởi sắc lệnh Ems:
• nhập khẩu vào lãnh thổ của Đế quốc Nga những cuốn sách được viết bằng tiếng Ukraine, được gọi là "thổ ngữ Nga", mà không có sự cho phép đặc biệt;
• xuất bản tác phẩm gốc và bản dịch tiếng nước ngoài; một ngoại lệ đã được thực hiện đối với "các tài liệu và di tích lịch sử" và "các tác phẩm văn học tao nhã", phải được kiểm duyệt trước;
• dàn dựng các tác phẩm sân khấu tiếng Ukraine (lệnh cấm được bãi bỏ vào năm 1881), in ấn các ghi chú bằng văn bản tiếng Ukraine;
• tổ chức các buổi hòa nhạc với các bài hát Ukraine;
• giảng dạy tiếng Ukraine ở các trường tiểu học;
• lưu giữ các sách bằng tiếng Ukraine trong thư viện các trường trung học.
Dưới đây là một số đoạn trích bằng tiếng Nga từ sắc lệnh Ems:
1. Воспретить в Империи печатание, на том же наречии, каких бы то ни было оригинальных произведений или переводов, за исключением исторических памятников, но с тем, чтобы и эти последние, если принадлежат к устной народной словесности (каковы песни, сказки, пословицы), издаваемы были без отступления от общерусской орфографии (то есть не печатались так называемой «кулишовкою»).
2. Можно было бы разрешить к печатанию на малорусском наречии, кроме исторических памятников, и произведения изящной словесности, но с тем, чтобы соблюдалась в них общерусская орфография, и чтобы разрешение давалось не иначе, как по рассмотрению рукописей Главным Управлением по делам печати.
3. Воспретить равномерно всякие на том же наречии сценические представления, тексты к нотам и публичные чтения (как имеющие в настоящее время характер украинофильских манифестаций).
Cái gọi là hệ thống "kulishovka" ( tiếng Ukraine) hoặc "kulichovki" là cách đánh vần được đặt theo tên của nhà văn Ukraine Panteleimon Kulich (1819-1897). Để tạo điều kiện dễ dàng cho đồng bào mình biết chữ, Koulich đã đề xuất một chính tả đơn giản hóa để viết tiếng Ukraine. Hệ thống chữ viết mới này đã được người Ba Lan hoan nghênh, những người coi đó là cách để “Người Nga Nhỏ” Ukraine tách mình ra khỏi “Những Người Anh Em” của họ ở nước Đại Nga. Đối với người Nga, hệ thống này là một cách tấn công vào ngôn ngữ Nga, do đó "kulishovka" bị tuyệt đối cấm.
- Nga Hóa Dưới Triều Đại Alexander III và Nicholas II ở Ukraine
Sa hoàng Alexander III (từ 1881 đến 1894) tiếp tục chính sách Nga hóa của những người tiền nhiệm, nhưng thêm vào đó một "sáng chế" mới: cấm chọn tên rửa tội bằng tiếng Ukraine cho bất kỳ trẻ sơ sinh Ukraine nào. Vì thế những Piotr của Nga (tiếng Pháp là Pierre) thay thế cho Petro của Ukraine. Dưới thời Alexander III, các lệnh cấm được ban hành nối tiếp nhau không ngừng. Năm 1881, tiếng Ukraine bị cấm trong các bài giảng ở nhà thờ; năm 1884, lệnh cấm lại được mở rộng tại các rạp ciné và tại các vùng (oblasts ) trên lãnh thổ Ukraine; sau đó, vào năm 1895, lệnh cấm lại mở rộng sang việc xuất bản sách bằng tiếng Ukraine .... Thậm chí Alexander III còn mở rộng quá trình Nga Hóa sang Ba Lan, các nước vùng Baltic và Phần Lan. Đế quốc Nga đa sắc tộc phải chỉ nói tiếng Nga với Chính thống giáo là tôn giáo.
Dưới thời Nicolas II (1894-1917), vào năm 1901 chính phủ Nga cấm không được sử dụng danh từ "Ukraine" mà áp đặt tên gọi "Malorossiia" ("Tiểu Nga"), trái ngược với Greater Russia - "Đại Nga" (Nga Trung Âu) và White Nga – "Nga Trắng" (Đông Nga hoặc Biélorussie)
Đây là lý do tại sao Sa hoàng được cho là “người cai trị tất cả các nước Nga: Lớn, Nhỏ và Trắng”. Người Ukraine được chính thức gọi là "Người Nga Nhỏ". Sa hoàng Nicholas II được người ta nhớ tới qua câu nói : "Không có ngôn ngữ Ukraine mà chỉ có những lũ nông dân mù chữ mới nói ít tiếng Nga."
Việc khẳng định rằng tiếng Ukraine không phải là một ngôn ngữ đã là chủ đề chính trong mối quan hệ Nga-Ukraine qua nhiều thế kỷ. Đúng là sự phân biệt giữa một ngôn ngữ và một thổ ngữ phần lớn là một sự tùy tiện, bởi vì nó liên quan đến hệ tư tưởng hoặc chính trị hơn là bản thân từ vựng. Một thống chế nổi tiếng người Pháp tên là Louis-Hubert Lyautey (1854-1934), người đã góp phần mở mang thuộc địa cho nước Pháp, đã từng phát biểu như sau: “Một ngôn ngữ là một thổ ngữ có quân đội, hải quân và không quân." . Chúng ta có thể tiếp tục nói rằng các ngôn ngữ là những thổ ngữ “thành công”. Trong mọi trường hợp, loại phân biệt này không liên quan gì đến các tiêu chí ngôn ngữ học.
Vào thế kỷ thứ XIXe, người Ukraine chủ yếu sống trong các làng hoặc thị trấn nhỏ. Năm 1897, dân số Kiev đa số là người Nga (khoảng 54%) với chỉ có 22% người Ukraine, 12% người Do Thái và 8% người Ba Lan. Do đó, Kiev phát triển như một thành phố nói tiếng Nga. Sau đó, do cuộc Cách mạng Công nghiệp, nhiều người nói tiếng Ukraine từ các làng và thị trấn nhỏ đổ về Kiev; số lượng người Ukraine ở Kiev tăng lên đều đặn trong thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ảnh hưởng của ngôn ngữ Nga đã được thiết lập vẫn còn rất quan trọng.
Trong Đế quốc Nga, tiếng Ukraine còn được gọi là "Tiểu Nga" — Nước Ukraine cũng được gọi là "Tiểu Nga" — và cùng tồn tại với ngôn ngữ "Đại Nga" trong mối quan hệ song ngữ, do có sự phụ thuộc trong đó "Tiểu Nga" đóng vai trò căn bản được thường dân và nông dân nói, trái ngược với "Grand Russian" Đại Nga, loại cao, được sử dụng bởi các quan chức của Đế chế và xã hội thượng lưu. Dưới thời Đế quốc Nga, giới quý tộc cũng thích thể hiện bản thân họ bằng tiếng Pháp, một ngôn ngữ được họ coi là thanh nhã sang trọng hơn bất kỳ một ngôn ngữ Xla-vơ (Slave) nào.
4.2 . Đối Kháng Lại Sự Bành Trướng Của Tiếng Nga
Người Nga bắt đầu công nghiệp hóa tại Ukraine. Hàng chục ngàn người Nga đã di cư sang sống ở phía Đông lãnh thổ Ukraine, tại vùng Ukraine-Sloboda và ở phía Nam (Novorossija:“Nước Nga mới”). Nhiều người Ukraine ở nông thôn đã phải sống "lưu vong" trong các thành phố nơi họ chủ yếu luôn phải sử dụng tiếng Nga.
Nhưng các chính sách đồng hóa áp đặt bởi các Sa hoàng bảo thủ lỗi thời đã khơi dậy sự phản kháng của những người cách mạng Ukraine. Sa hoàng Alexander II, sau khi sống sót qua 4 lần bị ám sát hụt, cũng đã phải bỏ mạng (13/3/1881) trong một vụ tấn công bằng lựu đạn tự chế do một nhà cách mạng Ba Lan thực hiện. Alexander III cũng phải đối phó với những âm mưu ám sát. Năm 1905, dưới sự thúc đẩy của các phong trào cách mạng đầu tiên, các ấn phẩm và các hiệp hội văn hóa Ukraine một lần nữa lại được cho phép hoạt động. Nhiều cấu trúc đã được đưa ra nhằm nâng cao trình độ văn hóa và giáo dục cho người Ukraine, trong đó, vào năm 1897, chỉ có 13% người Ukraine biết chữ .
Chiến tranh Thế giới thứ Nhất, sau cuộc Cách mạng Bolshevik ở Nga năm 1917, được gọi là “Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười vĩ đại”, Ukraine tuyên bố độc lập. Đồng thời, ở Galicie, Bukovine và Ruthenie Subcarpatique, người Ukraine dưới sự thống trị của Áo cũng vùng dạy tự giải phóng sau đó thành lập vào năm 1918 nước cộng hòa của riêng họ ở Đông Galicie. Nước này nhanh chóng hội nhập Ukraine "thuộc Nga" (trái ngược với Galicie của Ba Lan) để thành lập một liên bang gọi là Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraine bao gồm Galicie của Ukraine, Ruthenie Subcarpathique và Bukovine. Thời kỳ độc lập đó đã cho phép thực hiện các biện pháp có lợi ích cho ngôn ngữ Ukraine.
Ngày 22 tháng 1 năm 1918, nước Cộng hòa này thông qua Luật Tự Trị Quốc Gia và Cá Nhân. Luật đã cho phép đại diện của các nước Nga, Do Thái và Ba Lan sống ở Ukraine được quyền tự trị dân tộc và cá nhân. Về phần mình, người Biélorusses , người Séc, người Moldova (người Romanie), người Đức, người Tatars, người Hy Lạp và người Bulgary cư trú tại Ukraine có thể được hưởng quyền sau khi đệ đơn thỉnh cầu lên Tòa án chung của Tòa án tối cao cho mỗi quốc tịch. Có ít nhất khoảng 10.000 công dân, không phân biệt giới tính hay tôn giáo, không liên quan đến quyền công dân đã ký tên tuyên bố rằng họ thuộc một trong những quốc tịch kể trên.
Luật này là luật đầu tiên trên thế giới và có tính chất hiến pháp; đại diện cho một phần riêng biệt của Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Tây Ukraine (tháng 4 năm 1918). Tuy nhiên, vì cuộc nội chiến tiếp diễn ở Ukraine từ năm 1917 đến năm 1921, mô hình này không bao giờ còn được hoàn toàn áp dụng mà chỉ thực hiện được một vài tháng.
Bất chấp tầm quan trọng của tiếng Nga vào thời kỳ Sa hoàng, tiếng Ukraine đã tự phát triển cùng với đất nước Ukraine
trong suốt thế kỷ thứ XIXe ; nó đã trở thành một biểu tượng quốc gia mà người Ukraine có thể nhận diện được nhau, cùng lúc họ
không từ bỏ ngôn ngữ Nga mà vẫn giữ là một thứ ngôn ngữ để sử dụng.
… CÒN TIẾP … PHẦN III - XÔ VIẾT UKRAINE .......