N
ay thì đã hiển nhiên là hành-trình
của văn-học và báo chí chữ quốc-ngữ
hiện-đại đã khởi đi từ miền Nam (1).
Báo chí khởi đầu với tờ Gia Ðịnh Báo từ
1869 (2), sau đó từ 1875 mở thời kỳ phiên âm ra
chữ quốc ngữ thơ văn chữ Nôm như
Nhị Ðộ Mai, Phan Trần, Lục Súc Tranh Công, Lục
Vân Tiên, Sãi Vãi, ... với Trương Vĩnh Ký, Phan Ðức
Hòa, Lương Khắc Ninh, v.v., sau đó là
tiểu-thuyết sáng-tác theo hình-thức và thể-loại Tây
phương đầu tiên là quyển Thầy Lazaro
Phiền của Nguyễn Trọng Quản
được xuất bàn năm 1887 (nhưng phải
đợi đến 1910, viết truyện tiểu
thuyết mới trở thành phong trào), rồi hát bội,
kịch nói (Tuồng Joseph, 1887 của Trương Minh Ký -
cũng là người viết thành tuồng Kim Vân Kiều
1896, "drame en 3 actes"), rồi đến thời dịch
truyện Tàu từ khoảng năm 1904 và tự
truyện với Chơn Các Tự Sự (1910) của
Michel Tính. Các biến cố đó trong hoàn cảnh
đặc biệt giao lưu văn hóa và chuyển
đổi kinh tế, xã hội đã góp phần hình thành
một nền văn học quốc gia với sắc thái
và truyền thống đặc biệt mang dấu vết
cá tính của con người miền Nam "lục châu,
lục tỉnh" - vùng đất mới. Hiện
đại nhưng nội dung mang tính đạo
đức của thời đại đó, ghi đậm
dấu tích phong hóa của thổ-ngơi đất
mới.
Một
mặt, các nhân sĩ và tác-giả thời tiền phong
đã lựa chọn con đường kỹ thuật và
thể loại của Tây phương để cập
nhật và hiện đại hóa văn chương học
thuật lúc bấy giờ bị phong tỏa bởi
Tống Nho gò bó đã đưa đến bế tắc
tinh thần cũng như bại vong về quân sự.
Từ 1887, Nguyễn Trọng Quản đã dứt khoát sáng
tác theo Tây phương nhưng người đồng
thời với ông không hưởng ứng, họ vẫn
tìm đường! Mãi 37 năm sau Nguyễn Trọng
Quản, ở Hà Nội, mới có người theo kỹ
thuật và thể loại của Tây phương như
Hoàng Ngọc Phách với Tố Tâm 1925 và trước
đó, Trọng Khiêm với Kim Anh Lệ Sử (1924):
"Tôi viết bộ Kim Anh Lệ Sử này, có ý thử
viết tham bác hai lối văn xem; các ngài đọc sách sẽ
nhận ra rằng tuy bề ngoài có mượn lối
văn Âu Tây, song bề trong vẫn phảng phất cái
hồn luân lý của Việt Nam cố quốc ta
vậy"(3). Nhưng mặt khác, một trong những
hiện tượng song-hành tìm kiếm lúc đầu là
truyện Tàu.
Ðạo lý trong truyện Tàu và ảnh hưởng
Lùi
lại thời lịch-triều quân chủ, giáo dục thật
ra chỉ là cái học Nho dù cái học đạo lý trên
nguyên tắc gắn chặt với học chữ, vì
thường là đạo lý hình thức cứng nhắc
chứ không hẳn là đạo lý nhân bản. Thật
vậy, từ gần hai thế kỷ, đạo lý
rất quan trọng: "tiên học lễ, hậu học
văn". Khi người Pháp sang, soạn lại
chương trình giáo dục, luân lý trở thành một môn học,
dù vẫn được xem trọng nhưng đã bắt
đầu rời nguyên lý giáo dục làm người thời
xưa. Xã hội cũ bị tấn công từ căn
bản! Tín ngưỡng, đạo lý cũ vừa mất
sức mạnh vừa mất hấp-lực trong việc
giải đáp những nhu cầu xã hội và tâm linh
mới. Trong bầu không khí giao thời đó, nói chung đa
số các nhà trí thức, nhân sĩ đã có một số cái
nhìn chung, một số đồng thuận đặc
biệt về học thuật, văn hóa, đạo đức,
... hoặc đi đến những tổng-hợp
tín-ngưỡng mới mà chúng tôi thử phân tích trong bài này.
Ngay
từ khi văn học chữ quốc ngữ mới manh nha,
các nhà trí thức đã chú tâm đến đạo lý dân
tộc, trước mắt để chấn chỉnh phong
hóa và về lâu dài nhắm gìn giữ chính-đạo tức
đạo Nho. Cái buổi giao thời đó phong hóa xã
hội đang trên đà xuống thấp. Họ dịch
sách đạo lý của nho-học ra chữ quốc
ngữ, soạn sách về đạo đức văn hóa
truyền thống, sao lục thơ văn có mục đích
luân lý, giáo dục, v.v. Huình Tịnh Paulus Của đã có
những sách về Gia Lễ (1886) nói đến quan
hôn tang tế là 4 lễ đầu cùng lễ phép học trò
công tư thông dụng, Thơ Mẹ Dạy Con (1907),
v.v. Trương Minh Ký soạn Tiểu Học Gia Ngôn
Diễn Nghĩa, v.v. Trương Vĩnh Ký trong các
số báo Thông Loại Khóa Trình viết nhiều bài
xiển-dương tinh-thần đạo-lý căn bản
của người Việt Nam, dịch Kim Cổ Kỳ
Quan ra tiếng Pháp, phiên dịch ra quốc ngữ Minh Tâm
Bửu Giám (1891-3), v.v. Tờ Thông Loại Khóa Trình ra
mắt năm 1888 như một tờ học-báo; nhan
đề nơi trang đầu ghi chữ Hán
"thường bả nhất tâm hành chánh đạo"(luôn
đem tấm lòng mà hành đạo). Trong bài Bảo mở
đầu số 1 khi nói về mục đích, họ
Trương đã nói : "Phép học là trước
học lễ, sau học văn; được cả hai
ấy mới ra con nhà gia giáo, biết phép tắc, lễ
nghi, cang thường, luân lý, biết chữ nghĩa văn
chương, kinh sử truyện tích cổ kim, ấy là
đáng được con người tử tế..."
(4). Mở đầu cuốn Minh Tâm Bửu Giám -
gồm những châm ngôn đạo lý, giáo dục của tam
giáo chứ không chỉ riêng đạo Nho, ông viết
"Khi mà người ta biết soi mình vào tấm
gương báu ấy rồi, tất sẽ thấy
được những điều hay lẽ phải để
mà gắng sức noi giữ ăn ở cho trọn
đạo làm người, đồng thời
người ta cũng sẽ tất thấy những
điều hư lẽ trái (lỗi đạo làm
người) để mà sửa đổi và trau dồi
lấy chính mình cho được trở nên con
người trọn lành (tốt) vậy"(5). Bản thân
ông còn làm gương ở cách suốt đời ăn
mặc như ông bà ngày xưa và không xin vô dân Tây!
Trương
Vĩnh Ký cắt nghĩa Tam Cang như sau trong Thông Loại
Khóa Trình, số 2 : "Ở dưới đời,
người ta không phép sinh ra mà ở một mình cho
đặng. Có cha có mẹ, có anh em chị em, bà con cô bác, có
bằng-hữu, thân-quyến. Có vợ có chồng sanh con
đẻ cháu ra nối dòng; thành nên gia-thất; nhiều ra,
ở lan ra có xóm có làng, có huyện, có phủ, có tỉnh, có
xứ, có nước, có ra như vậy thì phải có
tôn-ti, đẳng-cấp, nên phải có vua có chúa, có quan có quyền
mà cai-trị, gìn-giữ đùm-bọc lấy nhau cho yên nhà
vững nước.
Vì
vậy phải có đạo tam-cang ràng-rịt vấn-vít nhau;
mà giữ phép ở với nhau cho trên thuận dưới
hòa, thì mới bảo hộ nhau được. Lớn theo
phận lớn, nhỏ theo phận nhỏ các y kỳ
phận thì bằng-an. Vua cũng có phép buộc phải
ở với tôi dân làm sao; con dân cũng có luật buộc
phải ở với vua quan thể nào cho phải
đạo. Cha mẹ có phận phải giữ với
con-cái cách nào; con-cái có phép dạy phải ở làm sao
với cha mẹ cho trọn niềm; còn chồng với
vợ cũng có ngãi phải giữ với nhau cho trọn
nhân trọn ngãi nữa. Ấy là ba mối cả, là chánh
giềng làm nên tấm lưới chắc chắn vững
bền"(6).
Tiếp
đến, cùng với phong trào báo chí lên cao, cùng lúc viết
báo xiển dương mỹ tục, đạo lý cũng
như canh tân xã hội và dịch các áng văn chương
như Kim Cổ Kỳ Quan (Nguyễn An Khương), Liêu
Trai Chí Dị (Nguyễn Chánh Sắt), v.v., một số nhà
báo và trí thức đã quan niệm nên dịch ra quốc
ngữ các truyện Tàu tức tiểu-thuyết
chương-hồi lúc bấy giờ gọi là "tiểu-thuyết
cổ điển" hay "bạch thoại
tiểu-thuyết". Nhưng dịch giả truyện Tàu
ra quốc ngữ đầu tiên là một người Pháp,
Canavaggio chủ báo Nông Cổ Mín Ðàm, dịch Tam
Quốc Chí Tục Dịch đăng báo ngay từ số
báo ra mắt (1-8-1901), sau đến Huình Tịnh Paulus
Của với Tống Từ Vân (1904). "Những
tay dịch thuật trứ danh ở Nam Kỳ" - nói theo
một Lời Rao trên tờ Phụ Nữ Tân Văn giữa
năm 1930 (7), và theo Bằng Giang (8), trứ danh và số
lượng nhiều nhất là ba ông Nguyễn Chánh Sắt
(là dịch giả Truyện Nhạc Phi xuất-bản
ở Sài-gòn năm 1905, đồng dịch với Phụng
Hoàng San, sau một mình dịch thêm Tây Hớn, Ðông Hớn,
Chung Vô Diệm, Tam Quốc Chí, Ngũ Hổ Bình Tây,...
trước khi sáng tác Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên, Gái
Trả Thù Cha, Tài Mạng Tương Ðố, Thập
Nhị Quả Phụ, ...). Trần Phong Sắc (18
truyện Tàu tính ra hơn 5000 trang như Tam Hạ Nam
Ðường Diễn Nghĩa, Phong Thần Diễn Nghĩa
1906, Tiết Ðinh San Chinh Tây, ...), và Nguyễn An
Khương (Phấn Trang Lầu Diễn Nghĩa,
Thủy Hử Diễn Nghĩa, Vạn Huê Lầu Diễn
Nghĩa, ...).
Một
số các nhà trí thức thời bấy giờ có thể đã
nghĩ rằng truyện Tàu là phương tiện tốt
nhất vì tải đầy đạo lý. Lật
truyện Tàu ta sẽ thấy nhan nhãn những gương
trung nghĩa như Quan Công, gương trung hiếu của
Nhạc Phi "tận trung báo quốc", ơn nghĩa
(bát cơm Phiếu Mẫu của Hàn Tín), tinh thần
thượng võ (Quan Công không giết người
dưới ngựa), quân tử nhứt ngôn (Quan Công), tình
bằng hữu tri âm (Bá Nha - Tử Kỳ), tri kỷ
(Quản Trọng - Thúc Nha) , tiết tháo trung thần
(Khuất Nguyên), v.v. Những tam cang, ngũ thường,
tam tòng, tứ đức đã ăn sâu vào đời
sống người Việt Nam (dù tương đối
và tùy vùng vì yếu tố Việt khá mạnh), những
khi người ta nói đến "nhân, nghĩa,
lễ, trí, tín" hay đối xử với nhau trong
họ hàng, xã thôn và làng nước. Ðã là một thứ
"đạo đức" vượt không gian và
thời gian của dân tộc. Tất cả đều có
thể tìm thấy trong truyện Tàu! Nhưng đạo lý
trong truyện Tàu đa dạng, không thuần độc
tôn. Nền tảng tam giáo Nho-Ðạo-Phật thấm
nhuần trong mọi sinh hoạt tín ngưỡng, trí
thức cũng như giao tiếp, lễ nghĩa, xã
hội. Nho giáo vẫn luôn là căn bản vì Nho còn là triết
lý chính trị của các triều đại vua chúa, một
triết lý nhập thế. Ðạo giáo đem đến
tư tưởng thoát tục, xuất thế, nhưng
cũng khuyến sống thiện và không quá bám víu vật
chất hoặc danh (hão) để sống an nhiên, nhàn nhã -
trong đó có kiểu "quẳng gánh lo đi mà vui
sống", ngay cả khi hành thế. Triết lý nhà
Phật đưa đến ý niệm tu thân và từ bi.
Tùy giai đoạn của cuộc đời và nhân sinh quan
của mỗi người mà những tư tưởng,
đạo lý đó áp dụng nặng hay nhẹ, nhiều
hay ít. Truyện Tàu là tấm gương phản ánh trung
thành những quan niệm sống này! Có truyện chỉ
đề cao một đạo như Tây Du Ký của Ngô Thừa
Ân mục đích xuất-thế, giải-thoát; nhưng qua
các nhân-vật tác-giả cũng để lại dấu
ấn ảnh-hưởng những triết-lý khác : "Lão
Tôn" đại diện cho lý-trí kiêu căng ưa
phân-biện, phản-diện của một
Ðường Tăng quyết chí tu-hành đã phải
vượt thoát bao cám-dỗ, yếu đuối. Nói chung,
khác với kinh sách chính thức, nội dung truyện Tàu
tải đạo Nho nhưng đồng thời có cả
tam giáo hòa đồng vốn đã trở thành nhân sinh quan
của người Trung quốc, và trong thể truyện
Tàu, con người đã bắt đầu có chỗ
đứng, dù khiêm tốn!
Truyện
Tàu được in ấn rất nhiều hồi
đầu thế kỷ XX, được tái bản
nhiều lần và có nhiều bản dịch khác nhau
của một truyện - y như hiện tượng
dịch truyện chưởng Kim Dung (9) vào thập niên 1960
ở miền Nam và ở trong nước từ năm 1988
tái bản truyện Tàu - nay được phức tạp
gọi là "tiểu-thuyết cổ điển Trung
quốc", khởi đầu với Tam Quốc Chí,
rồi in lại và "dịch lại" Kim Dung và
gần đây nhất ào ạt dịch các tác giả họ
gọi là "đương đại" như
Trương Hiền Lương, Mạc Ngôn, Giả Bình Ao
(10), v.v.. Ảnh hưởng truyện Tàu như vậy khá
hiển nhiên ở các tiểu-thuyết kim-văn thời
tiền phong ở miền Nam. Về số lượng
cũng vậy. Phong trào phiên âm quốc ngữ những
tác-phẩm chữ Nôm dù được hùng hậu cổ
võ, nhưng kho tàng văn học này không đồ sộ
lắm, mỗi tác-phẩm lại không đủ dài và
hấp dẫn người đọc (ngoại trừ
Lục Vân Tiên), do đó vẫn bị khối lượng
truyện Tàu lấn lướt. Lục Vân Tiên dù sao cũng
đã đóng trọn vai trò của truyện Kiều
của Ðàng Ngoài, đã là sách đầu giường và
đầu môi giảng dạy đạo lý làm người
vừa là văn chương truyền thống truyền
khẩu; tác-giả Nguyễn Ðiønh Chiểu đã tài tình cho
nhân vật những cá-tánh của con người lục
tỉnh bộc trực, thẳng thắn, có tình nghĩa,
lạc quan và chịu đựng, can đảm. Riêng
Lục Vân Tiên đã là một hiện tượng về
xuất-bản hồi đầu thế kỷ 20,
được tranh giành nhau in và bổn cũ soạn
lại, thành cũng có một số dị bản, vả
lại tác-giả mù lòa đọc cho học trò và con cháu
chép lại nên khó mà kết luận đâu là nguyên-bản
trung thành nhất. Truyện Tàu thay thế phần nào
chỗ của Lục Vân Tiên, cung cấp cho người
đọc (và người nghe kể) những hình ảnh
anh hùng, những gương sống và ứng xử ở
đời, do đó gây thích thú say mê nhiều thế hệ
và hấp dẫn nhiều tầng lớp xã hội, trí
thức, dân thị thành cũng như thợ thuyền, nhà
nông. Nhà văn Trúc Hà tác-giả một số biên khảo
văn học sử từng thú nhận ông mê truyện Tàu
ra sao: "Giữa khoảng tám, chín tuổi, tôi sống
với truyện Tàu. Không một bộ truyện nào trong
thời ấy có bán mà tôi không đọc. Tôi lấy làm thích
mà tưởng tượng Triệu Tử đang tung hoành
ở Ðương Dương trường bản, La Thành
đi miếng hồi mã thương, Lưu Khánh nhẹ
nhàng cất mình lên không nhờ cặp tịch vân phách. Nhà
viết truyện cổ thời của Trung Hoa khéo sáng
tạo những nhân vật phi thường có thể
thỏa mãn đầy đủ tánh hiếu kỳ và
vượt hẳn sức tưởng tượng của
độc giả. Tôi còn thích hơn nữa là nghe
được mấy ông lão trong làng bình phẩm các nhân
vật ấy"(11). Cụ Vương Hồng Sển thì
học được nhiều bài học xử thế
từ những tuồng đời bất hủ trong
truyện Tàu, ông viết cả một tập tản
mạn Thú Xem Truyện Tàu (12).
Truyện
Tàu được người trong Nam ưa thích
đặc biệt phần lớn là tiểu-thuyết
bạch thoại trường thiên xuất hiện từ
thời nhà Minh, thành công mở đầu cho truyền
thống tiểu-thuyết chương hồi - theo thứ
tự xuất hiện là Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa
(đào viên kết nghĩa: Lưu Bị -Quan Công - Trương
Phi cắt máu ăn thề; Ngũ Hổ), Thủy Hử
(tứ hải giai huynh đệ: Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng, Dương Chi, Tống Giang), Tây Du Ký (Tôn Ngộ Không,
Ðường Tăng,, Sa Tăng, Trư Bát Giới), rồi Liệt
Quốc Chí Truyện, Phong Thần Diễn Nghĩa (các
vua Vũ, Trụ), v.v. Riêng Kim Bình Mai cũng thuộc thời
này, nhưng giới dịch thuật Việt Nam lúc bấy
giờ chưa đụng tới - phải chăng cũng
vì lý do đạo lý? Dù vậy, cũng có thể vì áp
lực đạo lý mạnh mà lại có hiện tượng
buông thả vượt cương tỏa luân lý Tống
Nho: Lê Hoằng Mưu năm 1915 đã "dám" viết Hà
Hương Phong Nguyệt (ghi chú là "roman
fantastique"), và đến 1931, Người Bán Ngọc
kể chuyện phòng the với nhiều chi tiết tuột
khỏi khuôn luân lý đương thời, trở thành cây
viết tiền phong trong lãnh vực, trước cả Vũ
Trọng Phụng, Trương Tửu, ... !
Truyện
Tàu văn bạch thoại, mang hình thức truyện
kể, do đó có những đặc điểm là dễ
đọc, dễ hiểu, có thể đọc đứt
đoạn - trong khi "văn ngôn" súc tích cầu
kỳ gần thể truyện ký hơn là tiểu
thuyết. Về thể loại, truyện Tàu cũng đa
dạng : dã sử như Tam Quốc Chí, Phong Thần
Diễn Nghĩa, Tây Hớn, Ðông Hớn, ... ; võ hiệp,
nghĩa hiệp, "đạo lý" giang hồ như Thủy
Hử, ,..; kỳ tình, tình cảm, xã hội như Hồng
Lâu Mộng, Kim Bình Mai, .. phúng thích như Nho Lâm
Ngoại Sử, ... Phấn Trang Lầu Diễn
Nghĩa ở phần kết có hậu, yến tiệc
khoản đãi người tài và ngay (La Xáng), trai tài gái sắc
đoàn tụ (những năm phu nhơn!), được
thiên-tử tưởng thưởng, người viết
truyện Tàu đã nói : "Lúc ấy cả nhà vui lòng
đẹp ý, muôn thuở vinh hoa, ngàn thu khoái lạc; ấy
cũng đủ mà sánh so cho trung nịnh hai đàng, và xét
suy quốc vận. Nửa bộ trước mịt mù
như địa phủ u minh, đến nửa bộ sau
thiệt rõ ràng là quang thiên hóa nhựt; cũng nên lấy
sự than hiền viển nịnh mà răn mình. Nay tôi
dịch bộ truyện này ra đây, là có ý để làm
gương cho kẻ hậu lai, coi lấy đó rồi suy
cổ nghiệm kim, chớ có bắt chước theo lũ
Trầm Khiêm mà mang tai mang họa. Thận chi! Giai
chi!"(13).
Ảnh
hưởng của truyện Tàu nhập vào trong đời
sống, trong nền tảng đạo đức luân lý mà
cả trong ca-dao, vè bình dân cũng như tiểu thuyết,
lý luận của báo chí, giới trí thức sử dụng
như phương tiện giáo dục. Dĩ nhiên từ
truyện Tàu khai sinh ra nhiều điển tích, thành ngữ
và nhân vật tiêu biểu, người ta có thể dùng trong
đối thoại và thuật xử thế thường
ngày (cùng với nguồn thứ hai là tục ngữ tức
kho tàng khôn ngoan của riêng tiền nhân ta để
lại). Những nhân vật Quan Công, Tào Tháo, Lỗ Thâm,
Lữ Bố, Phàn Lê Huê, Ðắc Kỷ, Ðiêu Thuyền, Bao
Tự, Tây Thi, ... trở thành "điển tích"
nói đến là ai cũng có thể hiểu và
được đem vào trong các truyện thơ sáng tác!
Trương Duy Toản còn phỏng theo nhân vật
truyện Tàu viết truyện đăng báo Ðơn Hùng Tín
An Nam Tục Kêu Ba Tính (14).
Trước
hiện tượng truyện Tàu bành trướng
đến thành phổ thông và bình dân một cách tự nhiên
đó, có người bắt đầu lo lắng, lên
tiếng tra vấn có nên không, ... Có người thì từ
dịch truyện Tàu đi đến sáng tác như Hồ
Biểu Chánh bước đầu muốn viết
tiểu-thuyết cũng đã phải đi học
chữ Nho (15) vì ông cho biết viết khó khăn vì
"không tìm ra lời mà tả trí-ý cho người ta thông
cảm được"(16). Ông bắt tay dịch
lấy 20 truyện Tàu từ hai tập Tình Sử và Kim
Cổ Kỳ Quan (sau xuất-bản 1910 tựa Tân
Soạn Cổ Tích, cùng Giáo Sỏi Ðỗ Thanh Phong) và
viết truyện lục bát U Tình Lục ("roman annamite"),
trước khi thật sự viết truyện văn xuôi
với Ai Làm Ðược (1912, đăng Nông Cổ
Mín Ðàn 2-1920, xuất bản năm 1922). Có người
không dịch mà bắt đầu bằng sáng tác như
Trần Thiên Trung viết cuốn Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910),
trong lời Tựa ông cho biết : "... Nay tôi ngụ ý
soạn một bổn nói về việc trong xứ mình,
dùng tiếng tầm thường cho mọi người
dễ hiểu đặng. Ấy là làm thử, nên chỗ
nào có sơ siễng, xin chư quý vị khán quan dung túng.
Truyện này tuy là đồ thuyết, song theo cuộc
đời thường tình thiên hạ hằng có như
vậy luôn, chẳng phải nói việc dị đoan sang
đàng quá trí khôn cho con người"(17). Tờ Nông
Cổ Mín Ðàn 3-5-1910 quảng cáo truyện này cùng với Phan
Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân cho biết:
"Từ xưa nhẫn nay, truyện nào sách nào cũng
chỉ có một việc khuyên lành lánh dữ mà thôi. Song
người trước thường ưa những
việc dị đoan, cho nên phải lập dị đoan
mà răn thiên hạ, chớ như đương lúc ni là
lúc văn minh đã tràn ra khắp hoàn cầu, vậy ta
cũng nên bỏ mất cái nẽo dị đoan lần
lần, đặng có gội nhuần gió Mỹ mưa Âu,
hầu mở mặt mày cùng chư quốc. Nay có một
bọn nho gia hiệp lại kêu là Trứ Thơ viện mà
làm truyện đời nay hoặc truyện đời
xưa của Nam Việt và truyện Âu Mỹ... trong ấy
chỉ lo một điều thuần phong mỹ tục,
còn những thói hư vô bạo ngược thì đều
có lời răn luôn..."(18). Một người khác cùng
thời là Trương Duy Toản cũng bắt
đầu sự nghiệp với sáng tác, vì "theo trí
mọn của tôi nay phải bỏ những Lê Huê pháp
thuật, Kim Ðính thần thông, Khương Thượng
phong thần (...) mà sắp bày những món cho mới
miễn là lánh khỏi cái nẻo dị đoan và báo ứng
phân minh là đủ rồi"(19).
Bước
đầu truyện Việt Nam đã phải cạnh tranh
khó khăn với truyện Tàu, một trong những lý do
khiến phải đăng trên các báo hoặc quảng
cáo các hiệu thuốc người Hoa như trường
hợp hai cuốn truyện của Nguyễn Chánh Sắt,
Tình Ðời Ấm Lạnh in trong Thiên Sanh Ðường
đại dược-phòng ở Chợ Lớn và Nghĩa
Hiệp Kỳ Duyên in trong sách quảng cáo Vệ Sanh Chỉ
Nam (1919) của nhà thuốc Nhị Thiên Ðường, v.v. Ðó
cũng là lý do khiến nhiều nhà trí thức tân học
không để ý tìm đọc hoặc xem thường.
Nhưng rồi truyện Tàu cũng như truyện
Việt Nam đều đã trở nên món ăn tinh thần
của mọi từng lớp dân chúng, mà rồi ngôn ngữ
cũng chuẩn hơn và kỹ thuật, hình thức
cũng thuyết phục người đọc hơn!
Ðạo lý trong truyện Ta
Truyện
Tàu chương hồi bạch-thoại đọc
để giải trí, lại chuyên chở đạo lý nên
dù có tính dung-tục không nhiều giá trị văn
chương nhưng có nghệ thuật và hợp thị
hiếu đa số quần chúng, giá trị tinh thần
thật là thiết yếu cho buổi giao thời bấy
giờ! Sau khi đã dịch và soạn sách giáo dục luân lý
cũng như dịch truyện Tàu, các nhà trí thức, nhân sĩ
nghĩ đến sáng tác tiểu thuyết. Như lời
cổ võ của tờ Nông Cổ Mín Ðàn vừa trích,
"nay có một bọn nho gia hiệp lại kêu là Trứ
Thơ viện mà làm truyện đời nay hoặc
truyện đời xưa của Nam Việt và truyện
Âu Mỹ... trong ấy chỉ lo một điều
thuần phong mỹ tục, còn những thói hư vô bạo
ngược thì đều có lời răn luôn...". Do
đó mục đích của tiểu thuyết ban
đầu có tính cách giáo dục, "văn dĩ tải
đạo" vì các tác giả quan niệm
tiểu-thuyết có khả năng giáo hóa quốc dân; họ
viết đủ loại "kim thời tiểu
thuyết" như "luân lý tiểu-thuyết",
"nghĩa hiệp tiểu-thuyết", "kiếm
hiệp tiểu-thuyết", "lý tưởng
tiểu-thuyết", ... các danh xưng sau cũng trong
sứ mạng khai hóa, giáo dục, nên cuối cùng cũng là
luân lý!
Như
vậy khởi đầu, năm 1910 có Trần Thiên Trung tức
Trần Chánh Chiếu viết cuốn Hoàng Tố Anh Hàm
Oan (52 trang) và Trương Duy Toản với Phan Yên
Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân (48 trang), tập
trước truyện ta mà tác giả khiêm tốn gọi là
"đồ thuyết", tập sau truyện dã sử;
hai tập tiểu thuyết đầu tiên 23 năm sau
Nguyễn Trọng Quản này vẫn theo phân hồi như
truyện Tàu cũng như bố cục vẫn hiệp
rồi tan và cuối cùng "thiện ác đáo đầu
chung hữu báo", mà các nhân vật hai phe chính và tà, và riêng Phan
Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân cách
đặt tên nhân vật cũng đã ngụ ý : Ngưu
Cường, Mã Kiện, ... như dựa theo truyện
Kiều!
Cũng
trong chiều hướng đó, Trọng-Khiêm khi viết Kim
Anh Lệ Sử (1924), "một câu chuyện về
đầu thế kỷ 20", đã cho biết tuy hình
thức mượn của Âu tây nhưng "bề trong
vẫn phảng phất cái hồn luân lý của Việt Nam
cố quốc ta vậy"(3). Thực vậy, hình như
chủ đích của tác giả là phê phán xã hội buổi
giao thời. Truyện kể cuộc đời bi thảm
đầy nước mắt của một thiếu
nữ con nhà nề nếp, vì hoàn cảnh gia đình sa sút phải
chạy theo cuộc sống gian truân đầy cạm
bẫy. Mảnh Trăng Thu của Bửu Ðình,
đăng Phụ Nữ Tân Văn năm 1930, xuất
bản 1931, kể lại chuyện tình lãng mạn của đôi
thanh niên tân học Minh Ðường và Kiều Tiên lồng
trong vụ án mạng ngay trong đêm hợp-cẩn
người chồng Kiều Tiên bị ép lấy. Một
cốt truyện và văn bản xuất hiện trước
Ðoạn Tuyệt (1935) của Nhất Linh về nếp
sống hiện đại, mới, và những đụng
chạm với những thế lực văn hóa cựu
trào, nhưng câu văn, hình thức đơn sơ hơn!
Ảnh
hưởng truyện Tàu nặng nề nhưng phần nào
đó cũng là nền nếp, phong hóa của Việt Nam ta
từ lâu đời. Có thể nói các tiểu thuyết
của Nguyễn Chánh Sắt rồi Hồ Biểu Chánh là
một phát triển tự nhiên từ những truyện
Lục Vân Tiên, Hậu Lục Vân Tiên hoặc những
truyện thơ phát triển mạnh ở trong Nam. Về
hình thức đã vậy, mà về nội dung, các tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh và một số nhà
văn tiền phong vẫn cố giữ yếu tố
truyền thống dân tộc trong đó luân lý, phong hóa
giữ một nhiệm vụ quan trọng. Ða số các
tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh nặng tính
luân lý, chỉ cần xem qua các tựa cũng đã rõ phần
nào nội dung và chủ đích. Văn dĩ tải
đạo, viết để xiển dương
đạo lý, mà ông lại tỏ ra thủ cựu tư
tưởng dù làm việc cho tân trào là chánh quyền
thuộc địa Pháp. Một đạo lý truyền
thống nhưng phổ quát, bình dân, thực tế áp
dụng chứ không luân lý suông, cứng nhắc, do đó mà
truyện ông lắm khi dài dòng: cảnh Trần Văn
Sửu lỡ xô ngộ sát vợ ngoại tình, mười
mấy năm trốn sống vùng người Thổ (Miên)
lén lút về thăm con, dài dòng nói đi lý lại cốt
chỉ để tả cha con thâm tình ra sao, tía vợ
hiểu con rể thế nào, v.v. trong Cha Con Nghĩa
Nặng! Tình cha con thắm thiết nhưng nhẹ nhàng,
đầy đủ chứ không cứng nhắc như
"nghiêm đường, hiếu tử" ở
miền Ngoài! Tình phụ-tử con với cha
đrược Hồ Biểu Chánh triển-khai trong Ngọn
Cỏ Gió Ðùa khác với nguyên bản Les Misérables của
Victor Hugo : tình con Vương Thể Phụng đối
với cha Thể Hùng thật thấm thiết! Bên cạnh
lànhững chuyện khuyến khích lập gia đình, con
thừa tự (Cay Ðắng Mùi Ðời), cổ võ
những hành xử đừng trái đạo luân
thường (Bức Thư Hối Hận), … Ðạo
lý làm người quân tử cũng được cổ
võ (Bức Thư Hối Hận, v.v.), ...
Như
vậy nghĩa là vẫn có phần riêng của phong hóa
Việt. Vẫn mạnh tư tưởng đạo
đức luân lý, tính nghĩa hiệp, trọng công bằng
và tình người. Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ
Gian Truân 1910, kể chuyện chàng Vương Thể Trân
ở Phan Yên (tức Sài Gòn) thời Nguyễn Huệ đánh
lấy thành Gia Ðịnh, chàng lên đường giúp Chúa
Nguyễn qua bao chiến đấu trận mạc
để rồi cuối cùng tái-hồi hôn lễ với
Nhan Khả ái tiểu thơ bị cướp Chàm bắt cóc.
Truyện nói đến nhiều thứ tình nghĩa
lồng trong không khí kêu gọi cứu nước khỏi
thực dân Pháp. Ðề cao hiếu nghĩa đã có Phạm
Minh Kiên với Hiếu Nghĩa Vẹn Toàn (1923), …. Hôn
nhân tuy vẫn theo nếp cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy nhưng cũng đã có hiện
tượng dung hòa rộng rãi hơn, tự do luyến ái
được đề cao hơn nhưng vẫn trong
khuôn khổ. Có tác giả thực tế nhiều kinh
nghiệm sống hơn như Hồ Biểu Chánh trong vài
truyện như mặc nhiên nhìn nhận việc trai gái
sống chung không hôn thú và cả "tiền dâm hậu
thú" (Hai Thà Cưới Vợ, Bỏ Vợ, …),
nhưng đâu đó vẫn thấy phân biệt
được phải quấy. Xung đột mới
cũ được đề cập trong nhiều
tiểu thuyết của ông như Tiền Bạc
Bạc Tiền (1925), đến Chút Phận Linh Ðinh,
tình nghĩa vợ chồng nhiều thử thách trong xã
hội xưa "cha đặt đâu con (trai) ngồi
đấy, áo mặc không qua khỏi đầu",
nhưng cuối cùng tác giả đã để cho nhân
đạo và lẽ phải thắng, cải hóa hết
trong đoàn viên và niềm vui. Bản chất người
được đề cao và "nhân chi sơ tánh bổn
thiện", từ đó mới có chuyện hoàn lương,
cảm hóa hoặc giàu sang mà không kiêu và gần gũi
những cùng đinh trong xã hội!
Mặt
khác, nếu truyện Tàu như Phong Thần kể những
phép thuật tu hành - tiền bối của những
truyện chưởng Kim Dung sau này, thì một số tác
giả Việt Nam tin ở sự đầu thai (HBC Tơ
Hồng Vương Vấn), tin ở Phật Trời
(HBC Một Ðời Tài Sắc), ... Tuy vậy đa
số đều chủ trì sự thờ cúng ông bà như
phần đông người dân miền Nam. Truyện
đề cao lợi ích chung, của tập thể, quên cá
nhân (Giọt Máu Chung Tình của Tân Dân Tử; Ngọn
Cỏ Gió Ðùa, v.v. của Hồ Biểu Chánh, v.v.).
Vai
trò của phụ nữ được đề cao
hơn so với văn hóa Tống Nho. Nhiều nhân vật
nữ trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có
học khá như Ðoàn Thu Hà trong Khóc Thầm, Xuân
Hương trong Một Ðời Tài Sắc, hoặc tích
cực xông xáo như nhân vật Bạch-Tuyết trong Ai
Làm Ðược (1912,1922) hoặc nhân vật cô Hai Tân
tự lập và có những tư tưởng tiến bộ
và có những quyết định hay hành động
vượt qua nếp sống cố hữu của
thời đại hãy còn nặng đạo lý Nho giáo trong Tân
Phong Nữ Sĩ, vv. Theo tinh thần đạo lý
của truyện Tàu, nhưng các tác giả Việt Nam
cũng đề cao tính người, giá trị con
người, muốn con người hãy làm con người
đúng nghĩa và con người là hiện thân của Chân
Thiện Mỹ - một đạo lý hoàn toàn nhân bản,
dân gian, liên hệ đến hoàn cảnh sống cụ
thể của miền đất Nam-kỳ tân lập,
chứ không phải xuất phát từ giáo điều, tôn
giáo!
Tiểu
thuyết có hậu, quả báo nhãn tiền, mọi việc
đều có ý để răn dạy - anh-hùng
nữ-kiệt trong truyện Việt Nam tha hồ
"thế thiên hành đạo". Quan niệm tiểu
thuyết để giáo hóa con người, một số viết
truyện đề cao đạo-đức, luân lý bình dân
như Biến Ngũ Nhi (Kim Thời Dị Sử,
đăng Công Luận Báo 10-1917, xuất bản 1921),
Nguyễn Chánh Sắt, Hồ Biểu Chánh, ... Trần Thiên
Trung trong Hoàng Tố Anh Hàm Oan (1910) chứng minh thuyết
nhân quả và người hiền rồi cũng
được thưởng và kẻ ác phải đền
tội. Nguyễn Chánh Sắt qua Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
(1919): chuyện nàng Chăng Cà Mum bị người Miên
bắt cóc từ nhỏ về làm đây tớ, với
những nhân vật gian như Lâm Trí Viễn, Phi Ðàng,
Triệu Bất Thanh, hiền như Trọng Nghĩa, ..
Truyện minh chứng quan niệm đạo-đức
xưa "thiện ác đáo đầøu chung hữu
báo" với kết cuộc kẻ hiền
được thưởng, được đoàn viên,
kẻ ác phải chết hay bị trừng phạt.
Cũng như trong các truyện sau đó của ông như Tài
Mạng Tương Ðố (1925). Phú Ðức thì thành công
hợp thị hiếu với Châu Về Hiệp Phố
1926, …. Khuynh hướng giáo dục quần chúng do đó
đã lộ rõ trong nhiều tác phẩm cũa thời
khởi đầu này. Hồ Biểu Chánh kể trong
"Ðời của tôi về văn nghệ" rằng ông
viết tiểu thuyết với ý muốn cảm hóa
quần chúng theo con đường chính trực (20). Giáo
dục quần chúng, đề cao những giá trị
truyền thống của dân tộc như lễ nghĩa,
nhân đạo, thuyết nhân quả. Ðối với Hồ
Biểu Chánh và một số nhà văn tiền phong miền
Nam, tác phẩm được viết không cốt yếu
để đưa ra những lý thuyết cao siêu trừu
tượng, những diễn văn dao to búa lớn
rỗng nội dung, mà như chỉ để chứng minh
những truyền thống, tư tưởng luân lý ngàn
đời, vẽ chân dung những phong hóa đặt trong
môi trường sinh động của buổi giao
thời. Chính việc làm này đã đóng góp cho việc
bảo tồn văn hóa dân tộc trước ảnh
hưởng ngày càng lớn của văn hóa ngoại lai.
Truyện
thời này nói chung nhằm mục đích hướng
thượng, nội dung thường là cuộc thư hùng
giữa thiện và ác, người viết luôn đề
cao những nhân vật thiện hoặc người
xấu cuối cùng cũng cải hóa, theo con
đường lương thiện. Kết cục
loại truyện này có hậu, thiện bao giờ cũng
thắng ác. Lạc quan: nhân quả, phúc hoạ vô
lường, ở hiền gặp lành, tin có thần
đến cứu (Ngọn Cỏ Gió Ðùa HBC). Ngay Thầy
Lazarô Phiền cũng là truyện luân lý nói đến
sự hối hận và chuộc tội! Ðời sống
mới, có tốt thì cũng có mặt trái. Các nhà văn
tiền phong tiếp như Lê Hoằng Mưu (Oán Hồng
Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử, 1920), Biến Ngũ
Nhi (Kim Thời Dị Sử, 1921), nhất là Hồ
Biểu Chánh ngay từ những tác phẩm đầu
như Ai Làm Ðược (1912, 1922), v.v., đời
thường đó được đưa vào tiểu
thuyết một cách tự nhiên các nền tảng
đạo lý trở nên nồng cốt cho một xã hội
mới từ đây không vua ở trên và không
huấn-đạo ở địa phương, mà giai
cấp nhà Nho cũng mất chỗ đứng!
Người
dân thích truyện Tàu, cho nên một số nhà văn Việt
Nam viết theo thị hiếu, vì người đọc
thích những truyền thống ông bà để lại xuyên
qua những chuyện trung hiếu tiết nghĩa,
những gương dũng khí, anh hùng. Muốn so sánh khi
đối thoại hoặc lý luận, truyện Tàu đã có
sẵn nhân vật hai mặt chánh-tà, trực-phản, nào
Tần Cối-Nhạc Phi, La Thành-Ðơn Hùng Tín, Tào Tháo-Quan
Công, Tôn Tẫn-Bàng Quyên, v.v. Như vậy, có người
tiếp tục cóp nhặt sản phẩm văn hóa Trung
Hoa, nhưng lại có người chủ xướng
một tinh thần học thuật có tính quốc gia và bài xích
chống đối những gì là của ngoài (Ấn, Hoa,..).
Khoảng năm 1907, một số nhà Nho ở Nam kỳ
như Tân Dân Tử, Nguyễn Tử Thức đề
xướng việc "đưa Quan Công về Tàu" và
"mời Thích-ca về Ấn Ðộ" gây thành phong trào
quốc gia phục hưng (21). Mặt khác cho rằng
truyện sử Tàu không đáng học bằng lịch
sử nước ta. Từ đó có hiện tượng
truyện lịch sử mà số lượng rất
đáng kể dù về văn chương và hình thức
chưa trưởng thành lắm. Các truyện lịch
sử này là một phản ứng lại khuynh
hướng mê truyện lịch sử Tàu, một thức
tỉnh của tinh thần dân tộc đối kháng
với ảnh hưởng Trung Hoa. Vấn đề
quốc-gia xã-tắc : dân tộc đang gặp khủng
hoảng trong một xã hội bình mà không an vì những phong
trào kháng Pháp vẫn liên tục âm ỉ hoặc ra mặt và
kẻ cai trị không được lòng dân! Phần khác,
một vài đạo lý chủ trì trong các truyện Tàu có
thể không thích hợp với thời đại và người
Việt, các nhà văn nhà báo Việt Nam xét lại tính quân
tử Tàu cố chấp và cực đoan ở Quan Công, Bá
Di Thúc Tề, Giới Thôi Tử, v.v. cũng như
đề cao sự uyển chuyển hợp lý trong hành
động qua một số nhân vật tiểu thuyết
của Hồ Biểu Chánh, Phú Ðức, v.v.
Tinh
thần đạo lý Nho giáo đề cao lòng trung quân ái
quốc và người siõ-phu Việt thêm tự hào dân
tộc. Thời đầu thế kỷ, một số nhà
vận động Duy tân đã xuất bản những
tập gọi là "tiểu-thuyết" (nay gọi là
tiểu-luận) như Minh Tân Tiểu Thuyết (1907)
của Trần Chánh Chiếu luận văn khuyên
đồng bào theo lẽ phải và "minh minh
đức"(làm sáng đức sáng) và "tác tân dân"
(làm mới dân)! Sau đó phong trào lớn mạnh, bị
đàn áp nhưng lúc nào cũng có người vận
động, các Trứ thơ viện và Thư xã cũng
như các hội kín mọc lên ở nhiều nơi.
Một
số tác-giả viết truyện lịch-sử Việt
Nam như Phạm Minh Kiên (Việt Nam Anh Kiệt Vì
Nghĩa Liều Mình 1926, Lê Triều Lý Thị 1931, Tiền
Lê Vận Mạt 1932, Vì Nước Hoa Rơi 1936,...),
Trương Duy Toản (Phan Yên Ngoại Sử Tiết
Phụ Gian Truân, 1910), Tân Dân Tử (Giọt Máu Chung Tình
1926, Gia Long Tẩu Quốc, Hoàng Tử Cảnh Như Tây
và Gia Long Phục Quốc). Tiểu thuyết lịch
sử Giọt Máu Chung Tình không thành công về văn
chương nhưng đã gây tiếng vang thời đó
nhờ ở nội dung chuyện tình Bạch Thu Hà - Võ Ðông
Sơ giả tưởng con Võ Tánh xảy ra vào đời
Gia Long, đề cao trung hiếu tiết nghĩa với
hai cái chết của đôi tình nhân vào cuối truyện. Võ
Tánh ứng mộng dạy bảo Ðông Sơ hy sinh vì nước
: "Con ôi! Con hãy coi theo cha mà tận trung báo quốc, cho rõ
tấm nhiệt thành. Chẳng nên ràng buộc theo đám nhi
nữ thường tình mà làm cho tiêu ma cái chí khí của con
nhà trung thần hiếu tử. Con phải lấy giang san
quê vức mà gánh vác ở đầu vai, phải lấy
phẩm giá nhơn tài mà đúc rèn lòng thiết
thạch..."(22). Ðây là phản ứng lại phong trào
dịch truyện Tàu theo tác giả đã làm "thêm mê
muội tâm thần làm cho hai mươi mấy triệu linh
hồn của quốc dân ta đến ngày nay hãy còn mơ
màng theo lối ám quỉ làng ma, lẩn bẩn theo thói tin tà
tưởng mị, đã chẳng lợi cho quê
hương, mà cũng chẳng ích chi cho trí thức"(23).
Tuyên ngôn văn chương nhịp nhàng với những bài
báo nẩy lửa của Nguyễn An Ninh trên La Cloche Fêlée
cùng những biến cố như cái chết của cụ
Phan Chu Trinh (24-3-1926).
Trung
quân ở đây là với nhà Nguyễn Gia-Long. Báo chí cũng
như tiểu thuyết và nghiên cứu lịch sử trong
Nam đều chứng tỏ lòng trung không lay chuyển
với nhà Nguyễn, từ các Chúa Nguyễn đến các
vua sau này. Cours d'histoire annamite (1875-1879) của
Trương Vĩnh Ký cũng như Ðại Nam Việt
Quốc Triều Sử Ký (1879) đều xem nhà Tây
Sơn là ngụy. Dân Sài-gòn ai mà không nhớ những vụ
năm 1776 Nguyễn Lữ cướp lúa kho chở hơn
200 thuyền đem về Qui Nhơn và năm 1782 Nguyễn
Nhạc giết 10,000 người Hoa thả trôi sông làm tê
liệt kinh tế Sài-gòn. Sài-gòn cũng là kinh đô của
chúa Nguyễn Ánh từ 1779 đến 1801. Trong
tiểu-thuyết như Giọt Máu Chung Tình (1926) nền
truyện xây trên bối cảnh Tây Sơn là ngụy
triều, là giặc, trong khi Gia-Long là chính-thống.
Hồ
Biểu Chánh viết hai tập tiểu thuyết lịch
sử Nam Cực Tinh Huy (1924) về thời Ngô
Quyền và Ðại Nghĩa Diệt Thân (1955) kể
chuyện gia-đình làng xóm ông Nhiêu Võ Minh Giám thời Thủ
Khoa Huân kháng chiến chống Pháp. Văn học thời
kháng chiến ở Nam bộ chủ trì hiện thực và
những vấn đề khẩn thiết của
đất nước, do đó đã rời bỏ lãnh
vực tiểu thuyết lịch sử xa xôi. Sau hiệp
định đình chiến Genève tháng 7-1954, một số tác
giả như Tô Nguyệt Ðình (Mỵ Lan Hương
1961, Cờ Bay Theo Gió 1962, ...), v.v. đã tiếp
tục truyền thống thể loại tiểu thuyết
lịch sử.
Một
khía cạnh khác của ảnh hưởng truyện Tàu và
sự bành trướng của các "luân lý
tiểu-thuyết" là hiện tượng văn học
sân khấu tức bài bản hát bội và cải
lương diễn từ các truyện Tàu cũng như các
đề tài lịch-sử và truyện cổ Việt
Nam. Các tuồng nổi tiếng: Sơn Hậu, Ðinh
Lưu Tú và Trần Trá Hôn, v.v. được diễn
nhiều lần. Chính một số tác-giả truyện
soạn các bài bản cải lương như Trần
Phong Sắc (viết 13 vở tuồng lấy tích truyện
Tàu: Tham Phú Phụ Bần, Bội Thê Thiên Xử, Tam Tạng
Xuất Thế, Ðắc Kỷ Nhập Cung, Khương Hậu
Thọ Oan, Hạng Võ Biệt Ngu Cơ, v.v.), Trương
Duy Toản (Kim Vân Kiều, Lục Vân Tiên, Trang Tử Cổ
Bồn Ca, Lưu Yến Ngọc Cứu Cha Ðại Hiếu,
Hạnh Nguyên Cống Hồ), v.v.). Truyện Giọt Máu
Chung Tình của Tân Dân Tử sau cũng được
biến thành tuồng cải lương (Bạch Thu Hà) có
một thời rất ăn khách! Châu Về Hợp
Phố và Lửa Lòng của Phú Ðức lên sân
khấu cải lương thành nhiều vở Bách Si Ma,
Hoàn Ngọc Ẩn, Ðỗ Hiếu Liêm Phục Thù, v.v hơn
thập niên sau khi tiểu thuyết ra đời! Tính cách
răn đời, đả kích cái xấu, đề cao
đạo lý xem ra hữu hiệu hơn ở các vở
cải lương hay ca vọng cổ, như đã
từng với truyện thơ Lục Vân Tiên!
Tưởng
cũng cần nhắc nhở ở đây rằng cái tinh
thần đạo lý đó đã có trước thời
văn học hiện đại vừa phân tích. Tinh
thần đạo lý đã đến với con
người miền Nam đất mới từ những
giai đoạn Nam tiến: Song Tinh Bất Dạ của
Nguyễn Hữu Hào đầu thế kỷ 18, Truyện
Sãi Vãi (1750) của Nguyễn Cư Trinh, ... rồi truyền
thống "nói thơ Vân Tiên" xuất từ Lục Vân
Tiên của Nguyễn Ðình Chiểu. Có thể nói truyện
Lục Vân Tiên đã thay thế các huấn đạo và
thầy đồ và đi sâu vào cả những vùng hẻo
lánh được Sơn Nam tài tình tả lại trong Hương
Rừng Cà Mau. Từ Lục Vân Tiên sinh ra hàng loạt
thơ biến thể như Hậu Lục Vân Tiên,...
Trần Phong Sắc viết viết thêm 6 hồi truyện
thơ Hậu Vân Tiên Diễn Ca (1925. 54 tr.) - để
tiếp nối truyền thống biểu dương chính đạo
và trừ tà cũng như bọn gian - trong Lục Vân Tiên,
người ngay là Vân Tiên tài đức, Kiều Nguyệt
Nga chung thủy, Hớn Minh nghĩa hiệp, kẻ gian-tà là
Bùi Kiệm, Trịnh Hâm, v.v. Ðây là truyền thống
giáo dục bằng văn chương bình dân. Nguyễn Ðình
Chiểu trong Lục Vân Tiên đã trình bày một số
đề nghị cải cách xã hội cũng như đã
cho thấy ngôn ngữ và tâm lý con người Ðàng Trong.
Ảnh
hưởng đạo lý mạnh rõ rệt với các
truyện thơ rồi vè bình dân : Thơ Thầy Thông Chánh
(cuối thế kỷ 19), Thơ Sáu Trọng, Thơ
Cậu Hai Miêng cả ba chỉ trích cuộc đổi
đời nhố nhăng và đều nhắm người
Pháp. Ðoạn mở đầu Thơ Cậu Hai Miêng :
"Ðêm
thu bóng nguyệt soi mành,
Bâng
khuâng dạ ngọc chạnh tình ngâm nga.
Xét
trong thế sự người ta,
Tài
ba cho mấy cũng là như không.
Cho
hay thiên địa chí công,
Dữ
lành báo ứng vô cùng mầu linh.
Gương
xưa trông thấy rành rành,
Người
nay xem đó giữ mình cho yên.
Nam
Kỳ có cậu Hai Miêng,
Con
quan lớn Tấn ở miền Gò Công,... "
Và
đoạn kết Thơ Sáu Trọng :
"Trước sau lời đã tỏ lòng,
Anh em coi giữ lấy thân kẻo lầm.
Chẳng ai ở đặng hảo tâm,
Bãi buôi trước mặt hại thầm sau lưng"(24).
Trí
thức và văn chương hơn có các tác giả như Hồ
Biểu Chánh đã chứng tỏ chịu ảnh
hưởng đạo lý này qua hai công trình đầu
đều là tiểu thuyết văn vần: U Tình
Lục (viết 1909, xuất bản 1913, ghi roman annamite)
và Vậy Mới Phải (viết 1913, xuất bản
1918), tựa sau phỏng theo vở kịch Le Cid của
Corneille mở đầu:
"Trên đời chữ hiếu chữ tình,
Cả hai đều trọng, khó gìn vẹn hai.
Ðêm thu nương án thơ đài,
Buồn xem ngoại sử thấy bài kỳ duyên
Tiều Lê niên hiệu Thuận Thiên,
Có quan học sĩ Thanh Tuyền là danh..."(25).
Truyện
thơ ngoài loại sáng tác như vừa nói, còn có loại
"bổn cũ soạn lại" như thơ
Thạch Sanh, Lý Thông, v.v. Khi muốn dạy đời hay
châm chọc, nói chuyện thời sự thì thơ thành vè và
vè ở đây xa dần nghĩa gốc là một bài văn
có vần và cốt kể chuyện. Vè được
Huỳnh Ngọc Trảng gọi là "báo chí truyền
miệng"(26) và thời đó cũng đã có "thơ
rơi" là thơ nặc danh có vần có điệu
về những việc chướng tai gai mắt trong xã
hội - có lẽ đây là nguồn gốc của hiện
tượng "thư rơi" sau này?
Các
nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc
ngữ ở miền Nam đã đại chúng hóa văn
học, vì trước đó văn học quá trí thức với
ảnh hưởng Nho học. Thứ nữa, đạo
lý có thể biến mất ở miền đất đã
bị thực dân ngoại bang xâm chiếm. Tinh thần
đạo lý bình dân được các phương tiện
văn hóa nói trên đến với người bình
thường, mà rồi người trí thức cũng
biết đến. Hồ Biểu Chánh tỏ rõ lập
trường đạo đức của ông như là
một tiểu thuyết gia cải lương xã hội.
Trong số các tiểu thuyết gia thời đầu
thế kỷ XX, Hồ Biểu Chánh có tư tưởng dung
hòa cũ-mới một cách chọn lọc, mời gọi
khai phóng và thực tế. Truyện ông nói đến
đủ thế thái nhân tình mới cũ, chân dung và quan
hệ, mỗi cái đều có tích cực cũng như
mặt trái, vấn đề là làm sao để áp dụng
vào cuộc sống, Hôn nhân gia đình là phong hóa tốt,
nhưng cũng có những mặt trái, cổ hủ phong
kiến cũng như theo mới quá tự do đều có
những trở ngại, hạn chế. Mê tín dị
đoan, ngoại tình, án mạng, lường gạt,
thủ đoạn, v.v. xuất hiện thường xuyên
trong nhiều tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh,
được ghi nhận như bức tranh xã hội
nhưng đồng thời ngụ ý chê trách, mời
gọi cải đổi. Cả giai cấp thống
trị, quan lại mà ông là thành phần cũng bị ông phê
phán (Từ Hải Yến trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa, Võ
Như Bình trong Bỏ Vợ, Bức Thơ Hối
Hận), vì đối với ông có nhiều cái
vượt quá khuôn khổ đạo lý thông thường!
Dĩ nhiên thế giới tiểu thuyết của ông
vẫn có những địa chủ giàu lòng nhân ái, sẵn
sàng giúp đỡ người hoạn nạn như
Hội đồng Chánh trong Khóc Thầm, ... Ông có ý
định dùng quan niệm đạo lý của dân gian
"Thiện ác đáo đầu chung hữu báo"
để giáo dục con người, như ông đã
từng nói trong "Ðời của tôi về văn
nghệ": "Viết tiểu thuyết để
cảm hoá đặng lần lần dắt quần chúng
trở về đường chánh đại quang
minh"(21), thành thử ông đã không ngần ngại
đưa cả những giảng dạy luân lý của tác
giả vào, như một nghị luận. Các truyện nói
đạo lý đi kèm với nói chuyện đời
hoặc dùng chuyện đời để nói đạo
lý, như Hồ Biểu Chánh phác họa được
nhiều khuôn mặt đầy tình nhân ái của tầng
lớp nông dân nghèo. Có định mệnh nhưng cũng có
cố gắng của con người. Lê Văn Ðó (Ngọn
Cỏ Gió Ðùa) định mệnh oan trái, cùng đinh
mạt vận, bị đời khinh rẻ một cách
bất công, phải sống âm thầm, chịu
đựng, không dám chống lại "định mệnh"
cay nghiệt đó; vì muốn sống bình thường, nhân
ái nên vẫn phải liên tục cố gắng dù bị vùi dập
đến cùng! Xin ghi nhận về sau Hồ Biểu Chánh
đã viết các thiên biên khảo và sưu tập như Trung
Hoa tiểu thuyết lược khảo (1944), Ðông Châu
liệt quốc chí bình nghị (1945), Nho học danh
thơ, Nho giáo tinh thần (1951),…
Những
nhà văn khác cùng thời như Phú Ðức viết Châu
Về Hợp Phố (1926), Lửa Lòng (1929), v.v. và
nhiều thập niên sau như Bình Nguyên Lộc, Ngọc
Linh, các bà Tùng Long, Vân Trang, Hợp Phố, Minh Quân, v.v.
cũng theo đuổi cùng mục đích! Châu Về
Hợp Phố một thời nổi tiếng và tái
bản nhiều lần; thành công và để đáp ứng
đòi hỏi của độc giả, Phú Ðức đã ra
tiếp Lửa Lòng nối dài chuyện Châu Về
Hợp Phố. Cả hai pha trộn trinh thám với võ
hiệp kỳ tình; một thế giới anh hùng hiệp
khách hảo hán quen thuộc trong văn chương
Nam-kỳ vừa hiện thực xã hội đương
thời như giới làm báo và guồng máy cai trị
thực dân Pháp. Một thể loại tổng hợp
đông-tây! Kết thúc câu chuyện Lửa Lòng thỏa mãn
tự ái dân bị (Pháp) trị : Lâm Hổ Hiệp tự
sát trước mặt quan biện-lý bên cạnh xác
người yêu sau những lời vĩnh biệt
"Một nhà được cả người là anh hùng,
một nước được cả nhà như vậy
thì nước sẽ được mạnh
được tự trị, không sợ nước nào
đè nén áp chế. Người anh hùng mới ái quốc
được, đứa hèn nhát không bao giờ ái
quốc. Ở đời việc đáng chết, thì
phải chết chớ có sợ, cái chết ấy là
một vinh diệu rỡ mặt non sông, đẹp mặt
nở mày, toàn cả quốc dân. Anh sẽ chết, ...
chết vì nghĩa vụ, ... chết mà được
rạng danh anh hùng là cái chết để cho người
noi gương đó, ... chết vinh hơn sống
nhục..." (27). Và chén rượu vĩnh biệt đàn
em! Hiệp khách, giang hồ nhưng thắm đầy tình
nghĩa, nhân đạo và lòng ái quốc - khác nào Hoàng Dung
trong Anh Hùng Xạ Ðiêu của Kim Dung nửa thế kỷ
sau!
Tóm,
tinh thần đạo lý của văn học giai
đoạn đầu này đã góp phần quan trọng cho
việc bảo tồn, xiển dương văn hóa
của Việt Nam và đặc thù của miền lục
tỉnh đất mới dùng văn tự, văn viết
mà giáo hóa, bảo tồn. Một câu hỏi: liệu tính
đại chúng có làm giảm giá trị sáng tạo và văn
chương của các tác phẩm xuất bản thời
này?
Thể hiện trong hình thức, kết cấu
Ảnh hưởng của
truyện Tàu thấy rõ nhất là vào giai đoạn
đầu thế kỷ 20 trong hình thức và kết
cấu các truyện và tiểu thuyết Việt Nam .
Nhân vật, nội dung, khung cảnh lịch sử Việt
Nam nhưng hình thức, thể loại vẫn bị
ảnh hưởng truyện Tàu. Thứ nữa, ảnh
hưởng rõ rệt ở thể loại chương
hồi của truyện Tàu - có mào đầu có kết
hậu! - và thường mở đầu với hai câu
đối tóm lược nội dung như kiểu
"abstract" hôm nay - tuy vậy nhiều nhà văn
thời này đã biết phối hợp đông-tây cả
trong thể loại, vừa chương hồi vừa
hiện đại theo tiểu thuyết phương Tây.
Hai câu đối mở đầu tập truyện Phan
Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Gian Truân như sau :
"Ðời
loạn lạc anh hùng toan ẩn tích,
Giữa
lộ đồ hào hiệp gặp gian nan"(28).
Oán Hồng Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử (1920) của Lê Hoằng Mưu, mở đầu hồi thứ ba:
"Bỏ vợ góa Triệu lang cam mạng bạc;
Ôm
trẻ thơ Phùng thị tạc lòng son"(29).
Hai
câu có thể dùng để chung kết truyện, như: "Long
vân thiên cổ kỳ phùng; / Loan phụng bách niên túc
ước", để chấm dứt chuyện tình
của Tô Huệ Nhi (Lê Hoằng Mưu) (30).
Ảnh
hưởng ở cách đặt tựa cô-đọng các
chương hồi như trong Bức Thơ Hối
Hận (HBC): Cang mạnh dạn hy sinh, Bình để
lời hối hận, ... Cũng như ảnh
hưởng ở lối khai mào theo kiểu
"trước đèn xem chuyện ... ", nghe rồi
kể lại, vừa khiêm tốn vừa nhắc nhở
chuyện người xưa chứ không dám nhận là do
mình sáng tác. Cách đặt tựa truyện khiêm tốn
như Việt Trung Tiểu Lục (1920) của
Nguyễn Thành Phương hoặc cũng còn phân
biệt nội-ngoại, chính-dã như Oán Hồng
Quần Phùng Kim Huê Ngoại Sử và Tô Huệ Nhi
Ngoại Sử (1920) của Lê Hoằng Mưu hoặc
"dã sử" nhẹ nhàng như những tiểu
thuyết của Phạm Minh Kiên, Tân Dân Tử, v.v. chứ
không như các cây viết tiểu thuyết lịch sử thời
nay (2000) cứ ghi là "tiểu thuyết lịch
sử"! Hoặc đem tác-giả vào cuối truyện
cố cắt nghĩa tại sao có truyện , thí dụ
lấy ở đoạn cuối Nghĩa Hiệp Kỳ
Duyên: "... Vậy sẵn lúc này có ông Nguyễn Chánh
Sắt là người đồng hương với ta,
đang bỉnh bút một tòa báo quán tại Sài-gòn, một
người trước thuật có danh thì thầy nó
cũng nên biên hết đầu đuôi lai lịch của
vợ chồng ta đây, gởi lên cậy người tô
điểm lại cho hoàn toàn mà làm cho thành một pho
tiểu-thuyết, gọi là Nghĩa Hiệp Kỳ Duyên
rồi ấn hành ra hầu có nêu để làm gương
mà lưu truyền cho hậu thế"(31).
Ảnh
hưởng còn ở lối viết truyện như
kể chuyện, ở văn trơn truột như nói,
khiến lắm khi dài dòng, hoặc ở lối văn
biền ngẫu, viết như để đọc,
để kể với giọng lên bổng xuống
trầm, không những trong văn tả mà còn cả trong các
mẫu đối thoại. Trong Oán Hồng Quần Phùng
Kim Huê Ngoại Sử của Lê Hoằng Mưu, nàng Kim
Huê sơ ngộ Triệu Bất Lượng tại nhà ga Tân
Hiệp đã xưng thiếp gọi thầy như sau :
"Thiếp mới nghĩ thiếp là con nhà gia giáo,
lại cũng có chút danh giá với đời; vì ngỗ
ngang bỏ nhà cha mẹ mà đi, tưởng lập
đặng nên thân, chẳng dè rủi sa nơi bùn lấm.
Lỡ vậy thì thôi, phải giữ sao cho 'bạch
ngọc di ư ô nê bất năng tham thấp kỳ
sắc' cũng như thầy 'quân tử xử ư trược
địa bất năng nhiễm loan kỳ tâm', mới
phải cho. Không lý đem thân ra mà lót đàng, cho nhục nhã
tông môn, hư danh tổ đức. Nghĩ vậy nên
thiếp chẳng chịu dạn sương dày gió, theo
một phường liễu ngõ hoa tường, thiếp
chẳng cam bướm chán ong chường, vui với
lũ mèo đường chó điếm. Dầu rủi
gặp lòng người nham hiểm, thiếp cũng
nguyền gìn chữ trinh một điểm không dời. Thà
thiếp cam chín suối ngậm cười, đền
tội với đất mười trời chin
..."(32) - một Kiều Nguyệt Nga của năm 1920
đầu thế kỷ!
Ngoài
ra, kỹ thuật xây dựng kết cấu, thường sắp
xếp các tình tiết theo một trật tự thời
gian xuôi, diễn biến trước sau. Mặt khác,
kết thúc tác phẩm trong truyền thống này
thường có hậu nhưng dễ mắc khuyết điểm
thiếu tự nhiên: Lòng Người Nham Hiểm (1926)
của Nguyễn Chánh Sắt kết thúc với cảnh
"đại đoàn viên" hơi gượng ép! Thêm
tính "vòng vo Tam quốc", không đi thẳng, mà
phải cho sự việc xảy ra, rồi lý luận,
khuyên lơn! Lại có khi đang kể chuyện bỏ
ngang để thêm nhiều cắt nghĩa, bàn luận luân
lý dài dòng, như trong Ngọn Cỏ Gió Ðùa, v.v.
Nguyễn Chánh Sắt trong truyện Lòng Người Nham Hiểm
vừa kể, đã lý giải tâm trạng của hai nhân
vật Phan Quốc Chấn và Hoàng Hữu Chí.
Về
nhân vật, ngoài các nhân vật xuất phát từ lòng sùng bái
cổ nhân, các nhân vật lịch sử cũng như anh
hùng giai nhân, thời này đã bắt đầu đa
dạng có thêm những nhân vật đời thường
và con người hiện thực của xã hội mới.
Ngoài ra, các nhân vật trong tiểu thuyết đạo lý
thường có tính tiêu biểu cho một hạng
người: tốt hoặc xấu, thiện hoặc ác,
khiến thiếu tính hiện thực. Có tác giả như
Nguyễn Chánh Sắt, đi xa hơn vai trò, đặt tên
tiêu biểu theo từng cá tính nhân vật : hiểm
độc thì tên là Lâm Trí Viễn, Trịnh Bất Thanh
người tốt có là Trần Trọng Nghĩa, Trịnh
Thế Xương, người sẽ phải đền
tội mang tên là Trịnh Phương Lang, Ðào Phi Ðáng! Hồ
Biểu Chánh cũng vậy, đặt tên người con
gái trinh trắng là Bạch Tuyết, kẻ có chí tên Chí
Ðại, ... Muốn đổi đời, nhân vật Lê Văn
Ðó đã phải đổi tên lại là Trần Chánh Tâm!
Ngoài
ra, về thể-loại, truyền thống văn chương
đạo lý có tính kể lể này đắc dụng
thể-loại thơ lục bát, cũng có thể do truyền
thống nói thơ Vân Tiên, đã ảnh hưởng
đến nhiều thế hệ nhà thơ trong Nam, đến
cả thời Bình Nguyên Lộc sau này, điển hình là
những bài trong tập Thơ Ba Mén của ông.
Khuynh hướng tổng hợp tâm linh đặc
biệt ở miền Nam
Từ
những lưu dân đầu tiên từ Thuận Hóa
đến những lớp di dân từ những vùng khác
của đất nước đã đưa vào vùng
đất mới văn hóa dân tộc chính thống,
sẵn có, truyền-thừa, để rồi khi hợp
với dân địa phương trở nên một thứ
văn hóa tạp-đa, phức-tạp hơn. Tính hiếu
kỳ, hội-nhập, khai-phóng, ... tạo nên khuôn mặt
(cũng như cái ruột) mới cho miền Nam, từ con
người, nếp sinh hoạt, liên hệ xã hội
đến tín ngưỡng, kiến trúc đền chùa.
Người Việt sống chung với người Miên
(Thổ), Chàm, Ấn (Chà), Hoa - mà Hoa ở đây là
người Minh Hương tức cũng đã bắt
đầu pha trộn - nếu chưa thì đã
được gọi là khách, khách trú!
Về
tín ngưỡng, Việt Nam ta đã đón nhận tam-giáo,
mỗi đạo có thời thịnh suy, nhưng nói chung và
với thời-gian, người Việt bao-dung, cởi
mở hơn người Ấn, Hoa, do đó có
hiện-tượng "tam-giáo đồng nguyên".
Ðạo ông bà sống chung với đạo Phật
tiểu thừa, đại thừa và Bà La Môn, Hồi
rồi Thiên Chúa giáo. Và người Việt thờ Trời,
tin ở định-mệnh, thờ Quan-công, cả
chư tiên chư thánh. Người ngoài di dân vào Nam
lập nghiệp do đó hội nhập hòa mình với
thổ ngơi và con người xa lạ và khác tín
ngưỡng, đã có khuynh hướng cởi mở,
chấp nhận và hòa đồng theo các tín ngưỡng
khác. Nguyễn Cư Trinh đã viết Sãi Vãi (1750) và
Nguyễn Ðình Chiểu trong Dương-Từ Hà-Mậu
đã để Tiên Nho ngồi lại bàn luận với
nhau đi tìm Chính Ðạo mà theo nhưng vẫn đề cao
trung hiếu tiết nghĩa cùng trung quân ái quốc!
Tức, các tinh-hoa đạo-lý đã được Việt
Nam hóa, dung hóa! Mặt khác, tôn giáo, "tín ngưỡng"
ở trong Nam trở thành tư tưởng, triết-lý
sống thay vì vẫn là "tôn giáo" cứng nhắc
như ở đất Bắc.
Từ
Trương Vĩnh Ký đến Hồ Biểu Chánh, ta
đã thấy có một tinh thần cộng-cư , dung hòa
Ðông Tây, văn minh khoa học Âu Tây với phong hóa,
đạo lý Á-đông. Mặt khác, một khuynh
hướng tổng hợp khác về tâm linh (syncrétisme)
chỉ có và mạnh ở miền Nam lục tỉnh
hoặc xuất phát từ miền đất tổng hợp
này. Nói chung, các tín ngưỡng "tư tưởng"
này có tính cứu nhân độ thế. Lớn thì có các
đạo Cao Ðài, Phật giáo Hòa Hảo, Bửu Sơn
Kỳ Hương (Phật Thầy Tân An), ... Phần
lớn là tín ngưỡng dân gian nhưng cốt tủy
hoặc nguồn vẫn là đạo Phật cộng
với tinh thần nông dân nghĩa là thích ứng với
địa lý, đó là các đạo Lành, đạo
Phật Ðường, đạo Minh Sư, đạo
Hiếu Nghĩa (Tứ Ân Hiếu Nghĩa), ... và
đạo các Ông Ðạo Dừa, Ðạo Kiếng, Ðạo
Cậy, Ðạo Trần, v.v. Riêng đạo Cao Ðài thì
tổng hóa rộng nhất, quy nguyên tam giáo và hợp
nhất ngũ chi cũng như trở về nguồn
thể tánh của các đạo vừa tự
phức-thể ra. Có thể nói các tôn-giáo khi nhập vào
đất đàng Ngoài vốn dễ dị-ứng, bảo
thủ, định-kiến, đã được chấp
nhận gần như nguyên-thể; nhưng khi vào
đến đàng Trong thì từ khai-phóng đón nhận
đã đi đến biến-hóa, tổng-hợp cho phù
hợp tâm-hồn và nhu-cầu tín-ngưỡng của con
người nơi vùng đất mới. Có những
biến-thể đã sa-đọa thành mê-tín dị đoan,
nhưng cũng có những tổng-thể thành công
thuyết-phục được ngườI bình dân
cũng như trí-thức.
Ðạo
ở miền Nam có tính nhập thế nên có khuynh hướng
dính luôn đến chuyện chính trị, quân sự: các
đạo Cao Ðài, Phật giáo Hòa Hảo tồ chức
như một guồng máy và có thời có quân đội hay
lực lượng phòng thủ và an ninh riêng, như
trước đó Thiên Ðịa Hội đến từ con
cháu nhà Minh! Nhóm Minh-Tân của Trần Chánh Chiếu có
liên-hệ nhiều với đạo Cao-Ðài ở
"tư tưởng" hòa đồng, tổng-hợp
Ðông-Tây, canh tân. Mà sau đó nhóm Phan Xích Long khi khởi
nghĩa đã ghi trên lá cờ những chữ "Bửu
Sơn Kỳ Hương" và "Thánh Minh Vương
Phật" để thu hút quần chúng. Các đạo
tổng hợp ở trong Nam lại thêm đặc tính hay
sử dụng thể thơ trong kinh kệ nhất là
thể lục bát, có thể vốn đã quen thuộc
với con người miền Nam vẫn nói thơ Vân Tiên!
Hồ
Hữu Tường là một diển hình tổng hợp
đặc biệt đó. Tư tưởng và tác phẩm
của ông thường mang tính tổng hóa này; ông có khoa học
Tây phương (du học Pháp, có cao học Toán), thông thái lý
thuyết chính trị (ông là đệ tứ quốc
tế), nhưng cũng là một tổng hợp tín
ngưỡng khi ông phổ biến đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương và Hòa Hảo, ông cũng chứng
tỏ rất rành Thánh kinh Thiên Chúa giáo và dĩ nhiên kinh
điển Phật giáo cũng như các đạo.
Khoảng 1970, ông xuống tóc tu tại gia theo đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương. Ông luận thuyết
về hòa đồng (ra cả báo cùng tên khoảng 1966), và
các chủ trương "đường lối thứ
ba", Trung lập chế và giải pháp Siêu-lập của
ông cũng do tính đặc thù tổng hợp của con
người miền Nam của ông. Minh Ðạo "cứu
rỗi" của ông cũng là một tổng thể
từ Hồ Quí Ly, Nguyễn Huệ (mà ông cho là tên Hồ
Thơm) đến tư tưởng Phật từ Nam Á
vào. Cũng như Phật Thầy Tân An, Hồ Hữu
Tường nói nhiều đến đấng minh quân
cứu đời độ thế - một tổng
hợp đạo lý tam cang ngũ thường cộng
thuyết nhân quả và tận-thế luận (Hội Long
Hoa). Cũng vậy, khi viết về văn học
Việt Nam, ông chủ trương chỉ giữ lại phần
bình dân, nôm và chữ quốc ngữ; nhưng về tư
tưởng "Việt Nam" thì ông lại chủ trương
xét hết những gì người Việt viết bất
cứ ngôn ngữ nào! Trong Lịch Sử Văn
Chương Việt Nam, ông nói: "nếu ghép các tác
phẩm bằng chữ Hán, dầu cho người Việt
viết ra, vào 'văn chương Việt Nam' là một
việc vô lý" vì "văn chương của một
dân tộc tất phải biểu diễn bằng tiếng
nói của dân tộc ấy. Mà tiếng Việt không
phải là một phương ngữ của tiếng
Tàu,..."(33) .
Trong
Tương Lai Văn Hóa Việt Nam, Hồ Hữu
Tường đề cao một nền văn hóa Việt
Nam đặc sắc. Theo ông, Việt Nam có khả năng
văn hóa đáp ứng cho toàn thể nhân loại
"đòi hỏi một cái văn hóa, đòi hỏi cho
đạo học, khoa học xưa 'chân ngược lên
trời, đầu dộng xuống đất' để
phụng sự cho văn hóa, để rồi văn hóa
phụng sự cho nhân loại"(34).
Do
đó tâm linh là một trong những đặc tính của
văn học lục tỉnh, đậm nét từ Lục
Vân Tiên, Trương Vĩnh Ký dến Hồ Biểu Chánh, Phú
Ðức, Phi Vân, ... rồi đến Hồ Hữu
Tường, Sơn Nam, Nguyễn Thị Thụy Vũ, v.v.
* * *
Trong
một nghiên cứu khác (1), chúng tôi đã trình bày ý kiến
phổ biến của một số nhà văn học
sử cho rằng thời đầu trong Nam chỉ
biết dịch truyện Tàu bình dân (35), hoặc chỉ có
những "tác phẩm tiểu thuyết cho một công
chúng hạ lưu dễ dãi"(36), là không thấu
triệt, là sai, vì thời đó trong Nam vẫn có dịch
những truyện Tàu Tam Quốc Chí, Ðông Chu Liệt Quốc
cũng như đã có những truyện dịch chọn
lọc từ các truyện cổ tích Kim Cổ Kỳ Quan và
những bản dịch kinh sách như Ðại Học, Trung
Dung, .. của Trương Vĩnh Ký! Phán xét thiên lệch và
thiếu công bằng. Truyện Tàu phổ biến rộng,
được yêu thích vì được đa số bình
dân thưởng thức và dùng như kim chỉ nam cho
đời sống. Cũng như Lục Vân Tiên, truyện
Tàu đã không được giới trí thức rộng tay
đón nhận dù rằng chính các thức-giả đã
phổ-biến truyện Tàu.
Thứ nữa, khi nhìn lại chữ quốc ngữ cứ
tưởng là công cụ cai trị của thực dân Pháp
và cũng như quyết định của người
Pháp cho dịch sách Nho giáo với mưu đồ làm quên
lòng trung quân ái quốc, nhưng thực tế đã cho
thấy phản ứng ngược lại. Chữ
quốc ngữ được các vị truyền giáo
Bồ Ðào Nha, Pháp, v.v. chế biến ra như phương
tiện thông tin, truyền giáo (37), bị người Pháp
sử dụng như phương tiện thống trị,
đã trở thành phương tiện lần hồi
vững vàng cho một nền văn học mới,
hiện đại; bước đầu dùng để
phiên dịch các tác phẩm văn học, sau được
dùng để sáng tác. Thật vậy chữ
quốc-ngữ đã tác động đến tư duy và
ảnh hưởng lên đời sống văn hóa!
Chữ quốc-ngữ, một trớ trêu của lịch
sử, đã là phương tiện để phát triển
văn hóa, khai mở một nền văn học mới,
mà còn chứng tỏ là khí-cụ thống-nhất ngôn
ngữ và văn tự, từ ải Bắc đến
mũi cực Nam. Thêm hoàn cảnh thuộc địa
của miền lục tỉnh, khiến cho người dân
ở đây thoát khỏi vòng cương tỏa của
Tống Nho giáo điều, khoa cử gò bó, mà tư
tưởng đạo đức Nho được người
dân và trí thức gạn lọc để trở thành
một nền luân lý truyền thống, không nhiều hình
nhi thượng nhưng đã đủ đáp ứng cho
những vấn nạn nhân sinh và đạo lý. Vào thế
kỷ 19, cái học Nho giáo ở trong Nam đã khác Ðàng Ngoài
quá Tống Nho khoa cử làm hại văn chương
văn hóa và tính đặc thù Việt. Trong Nam-kỳ
lục-tỉnh đã nẩy mầm tiết nghĩa, con
người nhắm nghĩa lý hơn là câu nệ từng
chữ từng luật. Lục Vân Tiên thí dụ đã
đưa người đọc vào những phiên lưu
của vùng đất mới với một tâm lý thích
ứng với vùng đất của người dân lưu
xứ từ từ xa dần không còn giống như trước
đó ở Ðàng Ngoài. Nhà trí thức hay văn hóa trong Nam
từ thế kỷ 19 đã phải tự vượt
chính mình (nhà Nho) để làm người Việt Nam ! Có
thể vì lý do địa lý vùng đất mới và lại
không còn giữ chặt "truyền thống" khiến
đạo lý đã phải trở nên như vậy
chăng?
Mặt
khác, trong khi miền Nam "ôm" truyện Tàu và tiểu
thuyết lịch sử thì ở miền Bắc
cũng có phong trào mê truyện dịch Tàu ngoài Tam Quốc
Chiù, Ðông Chu Liệt Quốc, Tây Sương Ký, ... còn là
một Tàu trữ tình lãng mạn như Gương Tự
Do, Tuyết Hồng Lệ Sử, Ngọc Lê Hồn, Vân Lan
Nhật Ký, Dư Chi Phu (Chồng Tôi), Dư Chi Thê (Vợ
Tôi), v.v. Những tiểu thuyết của Từ Trẩm Á
đó đã đưa đến phong trào sáng tác lãng mạn
như Kim Anh Lệ Sử (1924) của Trọng Khiêm, Tố
Tâm (1925) của Hoàng Ngọc Phách,... Ðưa đến
kiểu cách, phong lưu có nếp! Ngoài Bắc từ
Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh cũng dịch
nhiều tác phẩm tiếng Pháp hơn, do đó đưa
đến hiện tượng mà Phạm Thế Ngũ
đã chí lý nhận xét: "khi đã đọc Mai
Nương Lệ Cốt hay Kẻ Khốn Nạn thì ít ra
đối với một thiểu số, người ta
chán Chinh Ðông Chinh Tây, và thấy như rứa mới là
tiểu thuyết chân chính"(38). Tuy nhiên họ Phạm
không nhắc đến rằng trước đó, vào
năm 1926, trong Nam-kỳ, Hồ Biểu Chánh đã tài tình
Việt-hóa Les Misérables thành Ngọn Cỏ Gió Ðùa!
Một lý do cắt nghĩa là từ sau năm 1932, con
người văn hóa, thơ văn trở mặt quay
lưng lại Sài Gòn và hướng về Hà Nội như
đỉnh cao của học thuật, văn nghệ cho
đến thời kháng chiến chống Pháp thì văn
học lại vùng dậy từ Sài Gòn!
Văn
hóa gắn liền với địa dư, con
người, do đó khi muốn nói đến văn hóa là
phải nói đến một địa-danh nhất
định và chứng minh được là sản
phẩm đặc thù của con người từng sinh
hoạt nơi vùng đất đó. Bản sắc văn-hóa
là những cụ-thể cộng với những tâm linh,
tinh thần, trừu tượng, nhưng bộc lộ,
hiển hiện qua vật chất, con người cũng
như môi trường sống. Người miền Nam dù
gì thì vẫn có một nếp văn hóa và đời
sống tâm lý khác người ở những vùng khác. Có
thể do ảnh hưởng truyện Tàu bình dân mà
người Nam có những đức tính hào phóng, anh hùng mã
thượng, hào hiệp ngang tàng và quân tử Tàu, mà phong
lưu cũng khác! Truyện Tàu tóm lại đã ảnh
hưởng đến sinh hoạt văn hóa của
người Việt mà nhiều cao điểm có thể
được ghi nhận từ hồi đầu
đến cuối thế kỷ XX . Vào giai đoạn
đầu của nền văn học chữ quốc
ngữ, truyện Tàu đã đến với người
dân Nam kỳ lục tỉnh thuộc địa của Pháp
như một bù đắp cho khoảng trống tinh
thần do việc triều đình nhượng
đất, ở một vùng đất mới nơi phong
hóa cổ truyền chưa thật sự chi phối. Nho
học chưa đủ nên rễ, con người lại
tạp chủng hoặc chịu sự ảnh hưởng
và hội nhập trong hoàn cảnh bắt buộc, do đó
đạo lý nội dung của các truyện Tàu đã
như một lớp đất phù sa bồi lên mảnh
đất nhân-tình ít nhiều phôi thai nếu không muốn
nói là đơn sơ, "trinh nguyên" (cả với trai
tứ chiếng gái giang hồ!). Lớp phù sa này trong hoàn
cảnh đó đã là một căn bản, đã gây
rễ tạo nên tâm tính con người lục tỉnh và
biến họ khác đồng-bào ở miền Ngoài.
Khi
người Pháp đến chiếm lục tỉnh
miền Nam đã xáo trộn cuộc sống người
dân cũng như các sinh hoạt thượng tầng. Thiên
tử ở đất Thần-kinh nay càng xa hơn, mờ
nhạt, văn hóa Tây phương nhập vào đời
sống người dân. Ðất, vật chất không còn,
đã vậy hiểm họa Tây hóa ở ngay trước
mặt không thể trốn tránh, người Nam-kỳ
đã khéo trồng "cây" đạo lý để
trường tồn phần tinh thần truyền
thống. Giai cấp "sĩ, nông, công, thương"
thay đổi giá trị, tổ chức xã hội, kinh
tế thay đổi, nhà nông vẫn chính nhưng
người thị thành ngày càng đông và dần dà nắm
nhiều quyền về thương trường cũng
như văn hóa (Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc
Ninh, …). Những kẻ chủ động về văn hóa
không còn là nhà Nho, kẻ sĩ, khoa bảng cũ, nay thay
đổi, nay là những trí thức tân-học tức
tây-học (Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trọng
Quản, Trương Minh Ký, Biến Ngũ Nhi, ...) và
những kẻ làm quan chức cho Pháp (Huình Tịnh Paulus
Của, Tôn Thọ Tường, Hồ Biểu Chánh,...). Trong
số có nhiều người nhạy bén với cái
mới, cái khác sẽ vận- động khiến thêm nhiều
người đón nhận rồi chấp-nhận cái
mới, cái khác. Mặt khác, kẻ sĩ (cũ) thì chọn
thái độ ở ẩn hoặc bất hợp tác
với chủ mới (Phan Văn Trị, ...), thành thử
sự tham gia chính thức của họ dần yếu
đi trong các sinh hoạt văn hóa cũng như văn học
nghệ thuật. Trong tình thế đó, các nhà cầm bút
(nhà báo, nhà văn) đóng vai trò rất quan trọng trong
việc hướng- dẫn dân-trí và
cải-lương xã hội, và từ hoàn cảnh bi đát
nước mất nhà tan đã tự lực giúp miền
đất Nam-kỳ trở thành tự chủ về
văn hóa. Trí thức mới làm báo, viết nghị
luận và các thể loại văn chương, nội
dung cũng nhắm văn hóa, tinh thần và cả chính
trị, cụ thể thực hiện những quan niệm
xiển dương đạo lý, "văn dĩ tải
đạo", "văn ngôn chí, thi ngôn chí". Tinh
thần đạo lý như đã trình bày, đã là cách
thế của các nhà trí thức Nam-kỳ thời đó
chống lại sự đô hộ của văn hóa Pháp,
trung hòa cái độc tôn của kẻ cai trị, cũng là
cách bảo tồn và truyền thừa phần nào phong hóa
cổ truyền!
Mặt
khác, tinh thần đạo lý này đã là căn bản để
hiện-đại hóa văn học lịch triều
chữ Nôm và Hán, với phương tiện chữ
quốc ngữ - cũng chính chữ quốc ngữ đã
chứng minh rồi ra là sợi dây liên hệ với
đồng bào cả nước, với hồn Việt.
Nếu chữ Hán và Nôm đã từ Ðàng Ngoài vào Nam thì
chữ quốc ngữ đã làm cuộc hành-trình
ngược lại! Từ chỗ nội dung rập khuôn
đạo lý cương thường và hình thức sáo mòn
đi đến sáng-tác chú tâm đến nhân vật và
kỹ thuật. Hiện đại hóa tức đa
dạng hóa và màu mè hơn, do đó nhiều nhà văn đã
phải phấn đấu giữa truyền thống và
hiện đại - vì hiện đại thời
đầu còn mang ý nghĩa theo Tây, theo "ngoại
bang"! Vừa hấp thụ, tinh lọc, vừa phải
đề kháng chống lại ngoại-lai; hai vận
động văn hóa với mục đích giữ gìn và
dựng nên tinh-túy Việt Nam! Hoàn cảnh bị bắt
buộc đó dù sao cũng đã giúp văn học hiện
đại hóa dễ dàng hơn là tự ý đi tìm, giúp
vươn ra khỏi cái vỏ á-đông để đi
đến dung hòa, dung hóa, tổng hợp, để thích
ứng với tình thế mới và nhân sinh quan mới.
Người có Nho học còn khá đông, mà người
Nam-kỳ gốc Hoa cũng tương đối có tỉ
lệ cao, nên dịch truyện Tàu cũng tiện lợi
đôi bề. Người giỏi tiếng Pháp dần dà
đông đảo nên dịch truyện Pháp cũng thoải
mái. Mà dịch truyện, sách Tàu hay Pháp đều là
những tìm kiếm. Cái Tôi dần quan trọng ra nhưng vẫn
còn nền tảng đạo lý, phải đợi
đến nửa cuối thế kỷ XX ở miền
Nam, cái Tôi sẽ chiếm gần hết chỗ văn
học nghệ thuật!
Nói
khác đi, văn hóa miền Nam lục-tỉnh là một tổng
thể văn hóa mới, một dòng nước từ
nhiều thượng và hạ nguồn giao lưu, kết chung
lại và trở thành một "đặc thù" ở
mặt tiềm-ẩn cũng như biểu-hiện.
Ðạo lý, tín ngưỡng, văn học, v.v. đều
như cũ mà khác, mới mà như đã thấy qua.
Những nỗ lực văn hóa vào cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX đã làm thay đổi
miền Ðàng Trong thành một miền Nam khác hẳn phần
còn lại của đất nước. Tổng thể
văn hóa này biến dịch theo thời đại và con
người, khiến văn hóa miền đất này
hồi thế kỷ XIX hay XX và hôm nay đều có
điểm cốt lõi còn đó nhưng bao quanh bởi
những biến thay và thời thượng. Do đó
về văn hóa không thể xét đoán hay hoặc dở,
nhưng một điều có thể xác quyết chắc
chắn là đã khác!
Từ
đó nhìn lại hiện tượng của thập niên
cuối thế kỷ XX ở trong nước có hiện
tượng in lại sách của thời tiền phong
văn học chữ quốc ngữ ở trong Nam: tiểu
thuyết của Hồ Biểu Chánh, Phú Ðức cũng
như các tác giả khác được in lại,
được tìm đọc và nghiên cứu ở các
đại học. Phải chăng đây là đi tìm
một thời văn học bị bỏ quên, hay trân
trọng tìm lại cái phong hóa - những bóng dáng, những
tấm gương ("minh tâm bảo giám"), đã và
đang mất dần? Phải chăng sau một thời
liên lục chiến tranh, phân ly, loạn lạc, con
người sống sót và hậu-sinh của họ muốn
vớt vát lại phần nào những đạo lý, văn
hóa đã bị rẻ rúng?
Chú-Thích:
1. X. Nguyễn Vy-Khanh. "Miền Nam Khai Phóng" in Văn Học Và Thời Gian (Văn Nghệ, 2000), tr. 15-61; cũng như các biên khảo của Bùi Ðức Tịnh ( Phần Ðóng Góp Của Văn học Miền Nam: Những Bước Ðầu Của Báo Chí, Tiểu Thuyết Và Thơ Mới, 1-1975; tb 1992: Những Bước Ðầu Của Báo Chí Tiểu Thuyết và Thơ Mới ), từ sau 1988 : Nguyễn Văn Trung, Tầm Vu và Nguyễn Văn Y. "Văn học chữ quốc ngữ ở Sài Gòn-Gia Ðịnh cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20". in Ðịa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh. Tập 2 - Văn Học. Thành phố HCM: NXB Thành Phố HCM, 1988); Nguyễn Q. Thắng (Tiến Trình Văn Nghệ Miền Nam, 1990); Bằng Giang (Văn Học Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ 1865-1930, 1992), v.v.
2. Số ra mắt ngày 15-4-1865 nhưng thực sự chỉ từ 1869, khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc và Huình Tịnh Paulus Của chủ bút, và với phần chữ quốc ngữ.
3. Trích theo tuyển tập Khảo Về Tiểu Thuyết: Những Ý Kiến, Quan Niệm Về Tiểu Thuyết Trước 1945 (Vương Trí Nhàn biên soạn. Hà Nội: NXB Hội Nhà Văn, 1996), tr.44.
4. Trích lại theo Ngô Hà. "Lược sử báo chí thành phố 1865-1945". Ðịa Chí Văn Hóa Thành Phố Hồ Chí Minh. Tập 2 - Văn Học. Thành phố HCM: NXB Thành Phố HCM, 1988, tr. 328.
5. Minh Tâm Bửu Giám. Bản Xuân Thu in lại từ bản Hoa Tiên (Sài-gòn, 1968), tr. 11.
6. Thông Loại Khóa Trình, số 2, tr. 3.
7. Vì có bản dịch in bất chính, theo Bằng Giang, Văn Học Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ 1865-1930, NXB Trẻ, 1992, tr. 237.
8. Bằng Giang, Văn Học Quốc Ngữ Ở Nam Kỳ . Sđd, tr. 236.
9. Truyện chưởng Kim Dung có thể xem là một tổng hợp nhiều thể loại nghĩa hiệp, dã sử, tâm lý xã hội, triết lý, v.v. Thập niên 1960 còn là thời truyện Quỳnh Dao, cũng như truyện Kim Dung, được giới phê bình gọi là "cận văn học"(para-literature).
10. 10.Trương Hiền Lương tác giả Một Nửa Ðàn Ông Một Nửa Ðàn Bà được dịch và xuât bản thời Cởi Trói văn nghệ 1987; Mạc Ngôn giải Tiểu thuyết Trung quốc 1995 tác giả Báu Vật Của Ðời, Cây Tỏi Nổi Giận, Ðàn Hương Hình; Giả Bình Ao tác giả Phế Ðô, ... được đọc một phần vì nói đến và phê phán những truyền thống dân gian Trung quốc - như Lỗ Tấn đã làm hồi đầu thế kỷ XX. Từ 1992 trong nước tái bản truyện kiếm hiệp Kim Dung "đồi trụy" của miền Nam trước 1975, năm 1996 nhà Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh in Tam Quốc Chí, nhưng Hà nội thì từ năm 1999 mới chính thức dịch và xuất bản truyện kiếm hiệp, bắt đầu với cuốn Tuyết Sơn Phi Hổ (mà Tiền-Phong đã dịch từ thập niên 1960).
11. Trúc Hà. "Luân lý là gì?" Ðại Việt Tập-chí 3, 1-11-1942, tr. 1, trích theo Bằng Giang. Sđd, tr. 248.
12. X. Hiếu Cổ Ðặc San (SG) 2, 1970, Xuân Thu tb 1989, tr. 50.
13. Nguyễn An Khương. Bản Xuân Thu tb, tr. 414.
14. Theo Khảo Về Tiểu Thuyết... Sđd, tr. 421.
15. Ông để ra 3 năm học các sách Tứ Thư. X. Nguyễn Khuê. Chân Dung Hồ Biểu Chánh (SG: Lửa Thiêng, 1974), tr. 30.
16. Trích tự thuật ở đầu cuốn Cha Con Nghĩa Nặng, đăng lại trong Khảo Về Tiểu Thuyết…, Sđd, tr 27.
17. 3-1916, Trích KVTT …, Sđd, tr. 26.
18. Trích theo Ðịa Chí Văn Hóa TP HCM. Sđd, tr. 236.
19. Lời Tựa, Phan Yên Ngoại Sử Tiết Phụ Giang (sic) Truân 1910, Trích theo KVTT Sđd, tr. 25.
20. X. Nguyễn Khuê. Sđd, tr. 33.
21. Hồ Biểu Chánh. Ðời Của Tôi Về Văn Nghệ - theo Nguyễn Khuê. Sđd, tr. 30.
22. Trích theo Bùi Ðức Tịnh. Sđd, tr. 192.
23. Lời Tự, Trích theo Bằng Giang, Sđd, tr. 220.
24. Cả hai đoạn trích theo Bùi Ðức Tịnh. Sđd, tr. 158-9 và 146.
25. Trích theo Bùi Ðức Tịnh. Sđd, tr. 164.
26. Vè Nam Bộ. NXB TpHCM, 1988. Tr. 14.
27. Phú Ðức. Lửa Lòng. S.l.: NXB Tổng Hợp Tiền Giang, 1989, tr. 428.
28. Trích lại theo Bùi Ðức Tịnh, Sđd, tr. 175.
29. Trích lại theo Bùi Ðức Tịnh, Sđd, tr. 180.
30. Trích lại theo Bùi Ðức Tịnh, Sđd, tr. 185.
31. Trích theo Bùi Ðức Tịnh. Sđd, tr. 231-2.
32. Trích theo Bùi Ðức Tịnh. Sđd, tr. 181-2.
33. Hồ Hữu Tường. Lịch Sử Văn Chương Việt Nam. Tập 1 : Lịch Sử Và Ðặc Tánh của Tiếng Việt. Paris: Lê Lợi, 1950?, tr. 6 & 7.
34. Hồ Hữu Tường. Tương Lai Văn Hóa Việt Nam. Sàigòn: Huệ Minh tb lần 3, 1965, tr. 58.
35. Nghiêm Toản, Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu 2, Sài-gòn: Vĩnh Bảo, 1951.
36. Phạm Thế Ngũ. Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên: Văn học hiện đại 1862-1945. Ðại Nam tb, s.d., tr. 85.
37. Song song với khuynh hướng trội bật hơn viết kinh sách bằng chữ Nôm và chữ Hán.
38. Phạm Thế Ngũ. Sđd, tr. 322.