Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
         



THƠ VÀ SỰ TIỆM TIẾN ĐỂ ĐI ĐẾN BẢN CHẤT CỦA THI CA



1. Nền thơ độc lập- Mục tiêu của sự cách tân

Như nhiều lần tôi khẳng định. Một trong những nguyên tắc cơ bản của thơ là vần. Do ngôn ngữ nứơc ta với sáu ngữ điệu dễ tạo ra vần. Vì vậy thơ- một thể loại của mọi nền văn chương – phát triển nhanh và mạnh nhất ở nền văn chương nứơc ta. Cứ xem bốn thú chơi thanh tao, thời thượng một thời thì thơ đứng thứ ba trong hàng cầm, kì, thi, hoạ.

Sau nghìn năm Bắc thuộc dường như Việt ta chưa có văn học thành văn. Tiếp liền 9 thế kỉ sau. Văn học thành văn của ta ra đời nhưng thể hiện bằng chữ Hán. Nhưng ngay cả khi dùng văn tự nứơc ngoài thì cái hồn cốt của người Việt ta vẫn thấm đậm mỗi trang văn, mỗi câu thơ.

Riêng thơ mặc dù bị trói buộc trong khuôn mẫu văn tự, văn hoá, luật thơ xứ người nhưng thơ nứơc ta đã bắt đầu cựa quậy để vượt ra hàng rào văn tự từ phương Bắc tới.

Tiện đây cũng xin trình bầy suy nghĩ cá nhân của tôi về các thể thơ thất ngôn bát cú và cả biến thể của nó là thất ngôn tứ tuyệt là đặc sản cổ Trung Quốc đến thời Đường- giai đoạn thịnh trị của phong kiến Trung Quốc thì được thể chể hoá về niêm luật, chính là hình bóng, sự điển hình hoá, thi pháp trật tự hệ thống một xã hội được bảo vệ bằng các giới thuyết tiêu biểu của chế độ phong kiến đề cao trật tự, cơ cấu xã hội với tam cương ngũ thường, trung quân. Cũng như thơ Hai cư 17 âm tiết của Nhật Bản là đặc sản của thế kỉ 17 thời Edo- Mạc phủ trong đó là sự thắng thế thực chất về quyền lực xã hội thuộc về tầng lớp võ sĩ đạo còn Thiên hoàng chỉ là bù nhìn. Vì thế thơ Hai cư mới đầu nặng về trào phúng dần dần chuyển sang âm hưởng lắng tịnh của thiền tông. Cũng như thể lục bát của ta là bóng hình của kinh tế văn minh lúa nước là vậy. Mỗi một thể thơ ra đời đều bắt nguồn từ thể chế, hoàn cảnh xã hội mà nhà thơ chỉ sao chép, thực hiện và nâng cao lên chứ không thể tuỳ tiện bịa đặt, sáng chế.

Song giữa điệp trùng các bài thơ theo niêm luật tứ tuyệt, thất ngôn bát cú vẫn chồi ra những tác phẩm thuần Việt trong vỏ áo chữ Hán của Trương Hán Siêu, Nguyễn Huy Lượng, hịch văn đầy hùng khí của Trần Quốc Tuấn…là những kiệt tác văn chương không chỉ ghi đậm chiến tích lịch sử của cha ông, mà xét về góc độ kĩ thuật thi ca thì cần ghi nhận, đây là những cách tân ban đầu có sức ảnh hưởng sâu đậm lâu dài trong tiến trình phát triển của thi ca Việt.

Khi chữ nôm xuất hiện thì bên cạnh những ánh hùng văn trong khuôn khổ chữ Hán như Bình Ngô đại cáo thì thơ nôm của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm và sau này của Hồ Xuân Hương và nhất là Nguyễn Du với danh tác Kiều ..,Lại tạo thêm một dấu mốc trong quá trình tìm đến sự độc lập cho nền thi ca thuần Việt, thêm một lần khẳng định sự phát triển mạnh mẽ có tính cách tân lớn của nền thơ Việt nam.

Tuy vẫn bị giam mình trong thể thơ thất ngôn bát cú xứ người nhưng khi viết bằng chữ Nôm. Mặc dù Thi hào Nguyễn Trãi vẫn tuân theo niêm luật, thậm chí cả cảm hứng kinh điển thường thấy trong thơ chữ Hán về rượu, về thông, về đạo quân tử về tứ thời bát tiết, tức cảnh sinh tình… nhưng ngôn từ thuần nôm ở các sáng tác này cùng những vụt loé ra những câu thơ sáu chữ đột ngột về hình thức không khác mấy cách cắt câu đầy vẻ hậu hiện đại, siêu thực hiện nay đã minh chứng một mục đích cách tân lớn để tìm về sự độc lập của thơ Việt ở Nguyễn Trãi. Xin lấy bài “thuật hứng 16 “ làm ví dụ:

Già chơi dẫu có của nọ dùng
Chén rượu câu thơ ấy hứng nồng
Ngỏ tênh hênh nằm cửa trúc
Say lểu đểu đứng đường thông .

Nếu tính khi Nguyễn Trãi mất ( 1380- 1442) so với giai đoạn Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra và sáng tác ( 1491-1585) thì hơn nửa thế kỉ sau thơ nôm của Bạch Vân Cư Sĩ lại càng được Việt hoá và sự phá luật thơ Đường lại càng tung hoành hơn.

Giàu làm chị khó làm em
Giàu chớ kiêu căng khó chớ hiềm
Dưới biết kính trên, trên dán dưới
Ấy nhà còn thịnh phúc còn thêm ( bài số 98)

Còn trong Kiều thì chữ nôm càng có điều kiện thể hiện sức mạnh của tiếng Việt ở gần ba nghìn câu lục bát của thi hào họ Nguyễn vì đã mang được, hút được tinh tuý của thi ca truyền miệng dân gian thông qua ca dao, tục ngữ….

…Vì ai rụng cải rơi kim
Để con bèo nổi, mây chìm vì ai
Lời con dặn lại một, hai
Dẫu mòn bia đá dám sai tấc lòng…( Kiều)

Sự đổi mới, cải tiến thơ Việt nam thoát khỏi chữ Hán để trở thành một nền thi ca độc lập kéo dài hàng chục thế kỉ còn có ý nghĩa về mặt tư tưởng, lịch sử trên đường tìm đến độc lập, chủ quyền dân tộc. Nó chứa đựng những sự thay đổi cơ bản mà ngay nền thi ca hiện đại tính từ đầu thế kỉ 20 cho đến nay chưa có được. Mặc dù do bản chất của sự tiệm tiến, sự vận động của một nền thơ, do dấu ấn tài năng của không ít các thi nhân, thơ nứơc ta vẫn đang trong sự tìm đường để tồn tại, đi tới.

Đổi mới, cách tân liên tục

Nền thi ca dân tộc phải trải qua hàng chục thế kỉ mới có được thơ nôm hay nói chuẩn hơn là thơ thuần Việt của Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, … Còn để có nền thơ quốc ngữ với trùng trùng các nhà thơ như hôm nay thì chúng ta chỉ mất trên dưới một thế kỉ.

Nếu tính từ khi tờ báo quốc ngữ đầu tiên ra đời vào năm 1865 ở Sài Gòn thì chỉ 47 năm sau khi Tản Đà vác lều chõng đi thi chữ Hán cũng là lúc trong ông đã xuất hiện thi hứng mang mầm mống của thi ca hiện đại khi ông cho in thi phẩm Vịnh cánh hoa đào, xem cô chài đánh cá, nhớ chị hàng cau…và nhất là thề non nứoc. Vào năm 1916 ông đã cho in thi phẩm Khối tình con 2 với hàng lọat bài thơ theo thể tự do như Tống biệt, tâm sự nàng Mỵ Ê.. Năm 1920 ông cho in Cảm thu , Tiễn thu …Từ đó có thể khẳng định chính Tản Đà mới là nhà thơ đầu tiên trong giai đoạn hiện đại có công đổi mới thi ca Việt nam. Hoàn toàn thoát khỏi các loại thể thơ phương Bắc, tiệm cận với thi ca thế giới, tạo ra nền tảng cho dòng thơ mới sau này với các đại diện kiệt xuất như Phan Khôi, Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên….

Đọc kĩ các thi phẩm của các đại diện cho nền thơ mới này như Điêu tàn, thơ thơ, mấy vần thơ …sẽ thấy tuy xuất hiện chưa bao lâu, người đọc thế hệ sau vẫn nhận ra lối mòn của cách đặt câu, của các cảm xúc.. của các nhà thơ thế hệ đó đã xuất hiện, đó là không kể đến sự ảnh hưởng, tây hoá trong cảm xúc ( bài “tiếng thu” của Lưu Trọng Lư thoát thai từ sự ảnh hưởng dòng thơ lãng mạn Pháp mà đại diện kiệt xúât là La mác tin). Cách đặt câu kiểu như “hơn một loài hoa đã lìa cành…”, của các nhà thơ đa phần thạo tiếng Pháp đã tạo ra những phản ứng dù ít hay nhiều.

Phản ứng trước sự tây hoá trong thi pháp đã làm xuất hiện một cách thầm lặng trong dòng thơ quay về với cảm xúc, cách biểu hiện của thơ thuần Việt. Tiêu biểu cho dòng thơ này là thi phẩm của Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ và nhất là lục bát của Nguyễn Bính…Một sắc thái gọi là phản ứng cũng được hay là sự cải tiến hoặc cao hơn là sự cách tân của nhóm Xuân thu nhã tập mà có thời bị không ít búa rìu của các nhà phê bình nông cạn, a dua gọi là dòng thơ tắc tị. Câu thơ nổi tiếng của Nguyễn Xuân Xanh thường được dẫn ra để minh hoạ cho sự phê phán theo lối bầy đàn là “đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”. Theo tôi đây là một câu thơ hay. Nó hay vì sự lạ, vì sự vô thức và đa nghĩa trong ngôn từ được kết cấu nên một câu thơ. Người đọc có thể tuỳ trạng thái tâm lý, hoàn cảnh của mình để hiểu nghĩa câu thơ. Điều tôi vừa nói trên chính là phẩm chất của bài thơ hay. Cú pháp của câu thơ này gần giống cách đặt câu đảo chữ, đảo cú pháp, đảo tác dụng các loại từ trong ca từ mà có thể xem là những câu thơ hay của nhạc sĩ vĩ đại Trịnh Công Sơn sau này….

Sự cải tiến lần một của thi ca Việt nam hiện đại đang chuyển động thì cuộc chiến tranh vệ quốc lần thứ nhất, rồi chỉ gần một chục năm hoà bình thì cuộc chiến vệ quốc lần thứ hai lại xẩy ra. Mục tiêu nghệ thuật lúc đó là tập trung vào phục vụ cuộc chiến đấu của dân tộc chống xâm lăng. Trình độ nhân dân ta kể cả những người lính ra trận lúc đó có thể nói là chưa cao.

Không phải bỗng nhiên trong hai cuộc chiến tranh những bài thơ mang chất tự sự- kể lại một câu chuyện bằng thứ ngôn ngữ bình dân- lại được ưa chuộng. Mặc dù có bài bị phê phán kịch liệt nhưng nó vẫn âm thầm đi vào lòng quần chúng. Đó là ”màu tím hoa xim”( Hữu Loan). “Núi đôi”( Vũ Cao), “quê hương” (Giang Nam).”Hương thầm”( Phan Thị Thanh Nhàn)….Xét về nghệ thuật những bài này là kế tục cách kể của truyện nôm khuyết danh và ít nhiều cũng nằm trong dòng của một cuốn tiểu thuyết bằng thơ khá ăn khách của người đọc bình dân Hà Nội hồi đó là “đồi thông hai mộ”.

Trong bốn bài thơ này thì chỉ có hai bài của Hữu Loan và Phan Thị Thanh Nhàn được phổ nhạc và thật sự trở thành những ca khúc tâm tình của những người lính- thanh niên bình dân ra trận lúc đó. Xét về mặt nghệ thuật, bốn bài thơ mang hai yếu tự sự ( chuyện kể)- trữ tình này không đặc sắc nhưng trong chừng mực nhất định nó thoả mãn nhu cầu của một tầng lớp bạn đọc lúc đó. Phần khác nó được đôi cánh âm nhạc nâng lên đã khiến các thi phẩm này nổi tiếng vì đi được vào lòng người một thủa. Nhưng cũng phải nói, loại thơ tự sự- trữ tình mà bốn bài tiêu biểu tôi vừa kể trên cùng cách viết thơ trữ tình một thời là đơn nghĩa và đơn điệu tiêu biểu là thơ Tố Hữu đã làm chùng lại những nỗ lực bức thiết trong sự đổi mới của thi ca Việt Nam.

2. Sự cách tân thơ nào cũng đáng trân trọng, nhưng cũng cần hiểu đúng sự cách tân

Những năm đầu của thập kỉ 70 của thế kỉ 20 là thời gian tôi mới ra trường cũng là thời gian mà nền xuất bản của chúng ta đang nằm trong cơ chế xuất bản quan liêu, bao cấp, kế hoạch hoá một cách hình thức. Việc in tác phẩm mới chỉ dành cho những tác giả có tên tuổi, có môn bài trong Hội Nhà văn. Mua được tập thơ cũng khó.

Khoảng 1972, 1973 khi ra nộp bản thảo thơ và truyện ngắn cho NXB Văn học, tôi có may mắn mua được mấy tập thơ của Hoàng Trung Thông, Phạm Hổ, Hoàng Minh Châu và Vương Linh. Về đọc nghiến ngấu. Buồn thay cả bốn tập thơ đều bao gồm những bài thơ nhạt nhoà, không để lại ấn tượng gì trong tôi. Sau gần nửa thế kỉ trí nhớ của tôi chỉ đọng lại mấy chi tiết. Tên của bốn tập thơ tôi chỉ còn nhớ tập “xa khơi” của Hoàng Trung Thông. Có lẽ một phần vì cái bìa rất thơ, một phần vì nó giống tên ca khúc lừng danh của Nguỹên Tài Tuệ do ca sĩ Tân Nhân thể hiện một cách tài hoa. Cả bốn tập tôi chỉ còn nhớ duy nhất ( mà cũng không chính xác) câu thơ “áo như trời xanh, tay như bồ câu” của Phạm Hổ trong bài thơ ca ngợi Nikita Khơ Rút xốp. Trong giai đoạn đó Chế Lan Viên cho in tập thơ “hoa ngày thường và chim báo bão”. Mặc dù không phải là người có trí nhớ tốt, và thơ Chế không thuộc loại dễ nhớ nhưng tập thơ của nhà thơ tài ba này đã ghi đậm, khiến tôi thuộc không ít các bài thơ, câu thơ trong tập thơ này. Tỉ như bài thơ “Người đi tìm hình của nước”. Tứ tuyệt“tây bắc ư có gì tây bắc…”. Hoặc câu thơ “ong bay khu nhà tỉnh uỷ Hưng yên”. Cho đến bây giờ tôi vẫn không quên cảm giác ngạc nhiên khi đọc những bài thơ phá cách về mặt câu thơ, cấu trúc thơ của Chế lan Viên mà tiêu biểu là bài ”cành phong lan biển”.

Nhìn chung giai đoạn thơ trong khoảng từ thập kỉ 60, 70 kéo đến hết thế kỉ 20 đứng về mặt nội dung thì có đôi nét đáng ghi nhận. Thơ Phạm Tiến Duật với mảng thơ về chiến trường, một chút ít thơ Nguyễn Duy mang tải sự thông minh về đề tài trong việc xử lý điêu luyện thể loại thơ lục bát mà sau này ít nhiều thành công của Đồng Đức Bốn nối dài thêm đôi chút.

Cuộc chiến tranh vệ quốc trong thơ một số ít nhà thơ đã làm cho thơ Việt nam thời gian này bớt sự nhàm chán bởi đề tài nóng hổi và sự xử lý tài hoa, chân thực cộng thêm nhiệt tình của lòng ái quốc. Ngoại trừ vài ba chấm le lói đó thì về mặt hình thức nền thơ Việt nam giai đoạn đó dẫm chân tại chỗ.

Một nhà thơ được ca ngợi với những câu khoa trương kiểu ”lá cờ đầu của thi ca cách mạng Việt nam”. Được đưa vào sách giáo khoa nhiều nhất là Tố Hữu. Một phần vì nhà thơ này có chức sắc chính quyền. Phần nữa phải công nhận Tố Hữu là nhà thơ tiêu biểu cho việc đưa đề tài chính trị trong thơ rất nhuyễn. Giống như Phạm Tuyên trong nhạc. Điều này khẳng định chất công dân và tài năng đích thực của nhà thơ. Về mặt hình thức thơ Tố Hữu tiêu biểu cho thơ giai đoạn đó và ít nhiều thành công. Thơ Tố Hữu giai đoạn này có thể gói gọn ở sự dễ hiểu, đơn nghĩa của từ ngữ dùng trong thơ và sự tôn trọng vần. Ngay từ các thi phẩm đầu tiên của nhà thơ như Từ ấy cho đến những bài thơ sau này, trong hàng nghìn bài thơ của ông chỉ thấy rất ít sự ép vận kiểu rừng xanh hoa chuối đỏ tươi/ Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng. Đấy chính là sự kế thừa tục ngữ, ca dao và được xử dụng nhuần nhuyễn trong thi pháp thơ chuyên nghiệp.

Trong giai đoạn thơ Tố Hữu là trung tâm nền thơ Việt nam thì có hàng loạt các nhà thơ khác trong dòng thơ “đơn nghĩa và trọng vần, trọng hình thức thể loại thơ đã có mặt từ khi thơ mới ra đời “ đã cho ra những tập thơ mặc dù đôi ba tập cũng gây được những dư luận này khác nhưng cũng đã bắt đầu tạo ra sự nhàm chán ở người đọc và ở chính một vài nhà thơ.

Trước sự nhàm chán của thơ đơn nghĩa, sự quan phương về đề tài và hình thức biểu hiện đã làm nầy ra những phản ứng bằng những cách tân và sáng tạo có lúc thành công và thất bại. Tất nhiên những phản ứng này phải đối măt với sự bảo thủ trong lý luận và trong cả giới sáng tác.

Tôi còn nhớ làng văn chương từng ồn ào về đôi ba bài thơ không vần của Nguyễn Đình Thi, một vài câu đảo chữ, đảo cú pháp của Lê Đạt. Nhưng với Nguyễn ĐìnhThi là sự cách tân lớn có chủ trương trong thi pháp thì Lê Đạt chỉ dừng ở những thủ pháp nghệ thuật. Loại đảo từ, đaỏ cú pháp này đã được Trịnh Công Sơn thực hiện một cách nhuần nhuyễn với những thành công bất ngờ khi viết ca từ nhạc phẩm của ông. Ca từ trong ca khúc của Trịnh Công Sơn không chỉ là sự cách tân nghệ thuật thơ mà còn thể hiện một cách nhận thức thực tại với chủ thuyết hư vô của đạo Thiền. Dù muốn hay không công nhận thì sự cách tân của nhạc sĩ họ Trịnh này vô hình chung đã ảnh hưởng đến tư duy của Lê Đạt, ít nhiều của Lê Huy Quang…

Vào những năm cuối thập kỉ 80, đầu thập kỉ 90 của thế kỉ trước cũng trong sự cố gắng để thóat ra khỏi sự nhàm chán, đường mòn trong hình thức thơ đã có đôi ba nhà thơ tìm đến sự cách tân, làm lạ thơ. Đáng kể nhất trong số này phải tính đến Nguyễn Quang Thiều. Với tập thơ không dầy lắm do nhà XB Lao Động ấn hành nhan đề “sự thức dậy của lửa” đã mang tải khá đầy đủ ý thức cách tân, làm mới của nhà thơ này. Các đề taì bình dị, đời thường đã được Nguỹên Quang Thiều tìm đến và được thể hiện khá nhuyễn bằng những câu thơ phá cách, dài như văn xuôi. Tập thơ này ngay khi ra đời đã tạo ra dư luận hai chiều và đoạt giải thưởng hàng năm Hội nhà văn. Riêng điều này đã chứng tỏ sự khát khao của làng văn với việc rượt đuổi mục tiêu đổi mới thi ca.

Tôi đã nhiều lần nói sự ảnh hưởng của tập “lá cỏ”của Uýt Man- nhà thơ Mỹ đầu thế kỉ 20 đối với tập “sự thức dậy của lửa”. Điều này thể hiện vốn kiến thức- ngoại ngữ của Nguyễn Quang Thiều, nhưng cao hơn là sự ảnh hưởng này lại bắt nhịp được ý thức cần đổi mới trong thơ ở Thiều. Nhưng nếu xét về lịch sử những câu thơ phá cách, văn xuôi kéo dài của thi sĩ này cũng không hẳn lạ lẫm gì với nền thi ca Việt nam. Nếu chỉ nói thuần tuý về thơ văn xuôi thì ngay thời Trần kiểu thơ này đã xuất hiện trong các bài thuộc thể phú. Tiêu biểu như “phú Bạch đằng Giang” của Trương Hán Siêu, “Phú Tây Hồ “ của Nguyễn Huy Lượng. Thể hịch như “Hịch tướng sĩ “ của Trần Quốc Tuấn. “Hịch Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, hay ở thể sớ như “Thất Trảm sớ” của Chu Văn An. Cái khác là ở các thể này tiền nhân còn dùng văn biện ngẫu, còn Thiều thì không. Vậy là dù chủ ý hay vô tình sự phá cách trong thơ văn xuôi của Nguyễn Quang Thiều là sự kế thừa cách viết của cha ông bên cạnh ảnh hưởng của thơ nứơc ngoài. Cùng với sự ảnh tiền nhân thì về mặt hình thức cả trong thể tài và câu chữ thơ Thiều còn ảnh hưởng thơ của một số tiền bối gần như thơ của Trần Tuấn Khải với bài ”gánh nứơc đêm”( 1917). Bài “phong lan biển” và một số bài thơ văn xuôi khác của Chế Lan Viên trong tập” ánh sáng và phù sa” .

Nói như vậy để thấy rằng sự cách tân, đổi mới thơ của Nguyễn Quang Thiều là đáng trân trọng, đáng ghi nhận không chỉ ở cá nhân nhà thơ này mà còn trong cả nền thơ Việt nam đương đại. Chỉ có điều sau sự đổi mới ít nhiều thành công của nhà thơ này, một số nhà thơ đi sau lại ảnh hưởng thơ văn xuôi ở Thiều một cách thái quá và hình thức. Tiêu biểu cho sự ảnh hưởng thiếu chọn lọc và suy nghĩ này phải kể đến Mai Văn Phấn và Đỗ Doãn Phương. .. Đọc thơ của Nguyễn Quang Thiều người đọc còn chấp nhận được sự trong trẻo, chất dân tộc của thơ còn đọc Phấn và Phương người đọc chỉ thấy sự làm dáng bề ngòai cùng sự bắt chứơc, mô phỏng cách dùng chữ, dùng câu, việc đưa những khái niệm, suy tư theo kiểu văn dịch vào thơ. Mặc dù ở chỗ này, chỗ khác trong thơ của mấy người viết thơ theo kiểu này cũng thấy sự phản xạ nhanh nhậy, sự thông minh trong việc xử lý đề tài. Đáng tiếc Hội Nhà văn VN lại trao giải cho những tập thơ đang thử nghiệm này coi như một thành tựu khiến những tác giả này lầm tưởng về cách viết của mình.

Thơ là một thể loại quan trọng của văn học. Như phần đầu tôi nói do đặc điểm ngôn ngữ nứơc ta nên về hình thức thơ và nói vần rất gần nhau. Nhưng dù đứng ở góc độ nào cũng cần nhìn thấy sự khác nhau cơ bản của thơ đối với văn xuôi. Vần, nhịp điệu là đặc trưng đầu tiên của thơ. Điều thứ hai tư duy cảm nhận thực tế trong thơ khác hẳn văn xuôi. Đó là sự chưng cất, khoảng khắc vụt loé của niềm cảm xúc trứơc thực tại. Đặc trưng của cảm xúc của thơ phải tìm đến hình thức biểu hiện phù hợp, khác hẳn văn chương. Đọc thơ văn xuôi của Uýt Man, một số bài thành công của Nguyễn Quang Thiều người ta còn thấy chất thơ. Còn đọc thơ của Mai văn Phấn, Đỗ Doãn Phương chỉ thấy sự lổn nhổn của câu chữ cùng tư duy văn xuôi cố dồn ép thành thơ. Người ta có thể nguỵ biện về sự tiệm tiến, gần lại của các thể loại của văn chương hiện đai, nhưng xin nhớ. Dù tiệm tiến đến đâu thì thơ và văn xuôi cũng khác nhau với những qui luật riêng cả từ đề tài, đến sự thể hiện.

Gần đây tình trạng bỏ tiền tự in thơ làm cho sự gia tăng các tập thơ có chất lượng thấp đến mức lạm phát, làm nền thơ nước ta bị nghiệp dư hóa ngày càng nặng. Ngay các nhà thơ đã thanh danh ( trừ các nhà thơ coi mụ tiêu cách tân trong thơ là mục tiêu nghệ thuật) cùng cho ra những tập thơ gần như hao hao nhau từ cảm xúc, đề tài, đến cách thể hiện đã làm nên một hiện tượng thơ lẫn khiến những ấn phẩm thơ giống nhau ra mắt quá nhiều khiến người đọc nhàm chán, xa lánh thơ. Chính vì vậy việc nâng cao chất lượng và tìm ra sự đổi mới thơ được xem là một nhu cầu chân chính của người đọc đối với các thi sĩ. Nhưng dù cách tân, đổi mới thế nào thì vẫn cần tôn trọng những nguyên tắc cơ bản của thể loại thơ đã tồn tại từ hàng nghìn năm nay

Ngày 23/11/2013 chinh sửa lại vào ngày 20/12/2019




VVM.15.8.2021

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com