Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
             




tranh Kiều của nữ họa sĩ Ngọc Mai (SàiGon)

"AI"
TRONG VĂN CHƯƠNG
(lẩm cẩm đọc lại truyện Kiều)

  


Đ ã lâu tôi không đọc truyện Kiều. Lâu cũng là năm, ba năm nay mà đọc cũng có nghĩa là đọc một lèo từ câu đầu tới câu cuối. Còn như thỉnh thoảng thì cũng có lục tìm vài câu cần xem lại.

      Kiều là một tác phẩm lớn của văn học Việt Nam, mỗi người đọc một cách. Một bác sĩ, đọc truyện Kiều, cũng thấy “chuyện của mình” trong đó:

Khí thiêng khi đã về thần,
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
Trơ như đá vững như đồng,
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.

     Ấy là việc Từ Hải chết đứng, đầu rơi rồi mà còn đứng trơ trơ giữa trời. Việc đó y học Tây phương có chấp nhận không hay là chuyện Thanh tâm Tài nhân bịa ra? Vậy rồi, ông bác sĩ tìm được giải pháp trong Tây y, cho rằng chuyện ấy có thể xảy ra thật, chứ không phải là chuyện “phong trần” như trong tiểu thuyết của mấy chú Ba Tầu.

     Vậy thì tôi thấy cái gì khi đọc Kiều?

     Tò mò tôi tìm chữ “Ai” trong Kiều như câu “Ai tri âm đó mặn mà với ai!” chẳng hạn. Tâm lý chung, người ta thường thấy mình cô đơn. Có cô đơn thực không thì không ai biết được, nhưng hầu như nhiều người thường tự cho mình là cô đơn nên họ cũng thích câu thơ “Ai tri âm đó mặn mà với ai!”

  Đó là một câu tán thán nhưng lại dùng tới hai lần chữ ai, là một đại danh từ nghi vấn, thường dùng để hỏi. Ví dụ: Ai đó? Ai lái xe nầy? Nhưng khi nói “Ai trồng khoai đất nầy” (là câu thường nghe sau 1975) thì tiếng ai không còn là nghi vấn xác định (xác định rõ rằng không biết là ai) mà lại là nghi vấn phiếm định (chưa định rõ là ai, nhưng đã hiểu là ai), có nghĩa người ta biết ai đó là ai nhưng lại không nói rõ ai đó là ai mà thôi.

     Tiếng ai đó cũng có cái ý tương tự như câu ca dao sau đây:

 

Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề!

  Nếu người nhớ là vợ nhớ chồng, thì người ta nói rõ “em thương nhớ anh” hay “khăn thương nhớ anh”, sao lại không nại rõ người được nhớ là anh hay em mà gọi ai? Nói như thế, người được nhớ, người gọi là ai thì người đó là người tình, tình nhân. Vì là tình nhân, không chính thức là người chồng, người vợ nên người ta phải dùng chữ ai để nói tới người tình. Vậy, rõ ràng, chữ ai không phải khẳng định là ai, chưa rõ người chồng, mà là người tình.

    Trong một vài trường hợp khác, người ta không biết rõ ai đó là ai. Đó là câu tiếng (hay câu nghi vấn). Ví dụ câu trong bài hát “Trăng mờ bên suối” của Lê Mộng Nguyên:  “Nhìn trăng vừa lên, ai hay chia lìa. Sương khói biên thùy hiu hắt người đi xa trường sa…” Ý tác giả muốn xác định, “không ai” có thể biết trước được chuyện chia lìa.

 

 Trong văn chương Việt Nam, người ta rất thường dùng chữ ai. Dùng để hỏi, để nghi vấn thì ít mà phiếm thị, tức là muốn nói tới một người nào đó, biết người được nói tới, nhớ tới là ai, nhưng không muốn nói rõ người đó là ai. Trong trường hợp đó, chữ ai không ở trong câu nghi vấn mà chính là ở trong một câu xác đinh, để làm ý nghĩa, nhân vật tác giả muốn nói tới.

      Người ta cũng dùng tiếng ai, không phải để nghi vấn, mà để so sánh, để làm nổi bật đối tượng ý tác giả muốn nói tới. Đối tượng đó, có thể không ai sánh bằng, hoặc cũng ngang bằng như ai, hoặc thua sút hết mọi người.

 

   Ví dụ bài thơ sau đây:

Kể xuất thế đố ai bằng anh Mán
Trải mùi đời khôn chán, giả làm ngây.
Hổ sinh ra lúc thời này,
An thân mệnh thế, giấu tay anh hùng.
Không danh cho dễ vẫy vùng
Mình không phú quý, mắt không công hầu.
Khi để chỏm, lúc cạo đầu,
Nghêu ngao câu hát nửa Tầu nửa ta.
Không đội nón, chịu màu da dãi nắng,
Chẳng nhuộm răng, để trắng dễ cười đời.
Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai ai,
Ngoài cương toả thảnh thơi ai đã biết ?
Chỉ ấm ớ, giả câm giả điếc
Cứ vui tràn khi hát khi ngâm
Trên đời mấy mặt tri âm?

(Nghèo mà vui)

   Ngay câu đầu, Trần Tế Xương muốn xác định anh Mán hơn hết mọi người, không ai sánh bằng. Đối với xã hội Việt Nam ngày trước (có lẽ bây giờ cũng vậy, nhưng nguời ta che dấu đi) thì anh Mán hay anh Mọi phải thua người (Kinh). Họ thuộc nhóm chủng tộc nhỏ, không “văn minh”, khôn ngoan như người Kinh. Trần Tế Xương muốn nói ngược với mọi người. Sự thực không hẵn như thế, nhưng cách nói như Trần Tế Xương là một cách mai mỉa. Người đời ngu cả rồi, hạ mình xuống, nên anh Mán trội lên trên, thành ngưòi khôn. Người đời ngu vì người đời chạy theo danh lợi. Người đời ngu vì vào luồn cúi chỗ quyền môn, vì chui vào vòng cương tỏa. Còn tác giả, giả như anh Mán, không biết gì, thành ra khỏe. Thật ra, “anh Mán Trần Tế Xương” biết hết, biết khôn hơn người.

    Trong bài thơ của Trần Tế Xương, chữ (hay tiếng - hiện nay ở trong nước CHXHCNVN gọi là “từ” ) ở câu “đố ai bằng anh Mán” thì tiếng ai đó là đại danh từ nghi vấn xác định. Hai tiếng “ai ai” ở câu sau (luồn cúi mặc ai ai) thì nó không phải nghi vấn mà đó là đại danh từ phiếm định. “Ai ai” có nghĩa là những người nào đó, người ta, người đời. Nếu chúng ta thay vào hai tiếng “mặc ai ai” đó bằng “mặc người ta” hay “mặc người đời” thì nó vẫn có ý nghĩa như vậy.

      Trong Văn chương Bác học hay Văn chương Bình dân (CHXHCNVN gọi là Văn học Dân gian), người ta rất thường dùng chữ ai, thông thường với hai trường hợp như trên. Một là để hỏi (nghi vấn), thể xác định hoặc là để chỉ người nào đó, phiếm định, nói tới một người nào đó, hoặc “người ta”, “nguời đời”, “kẻ ở đời” nhưng không muốn trực tiếp nói người đó.

  Cách dùng chữ như thế là muốn nhấn mạnh đến ý muốn nói, khiến người nghe, người đọc phải chú ý tới chữ ai và biết rõ ai đó là ai!

      Xin xét mấy câu ca dao sau:

Ai ơi giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng, đổi nền mặc ai

     Ai ơi cũng có thể thay bằng người ơi, bạn ơi… Đó là tiếng gọi, xác định, không phải là nghi vấn đại danh từ. Chữ ai ở cuối câu cũng tương tự như vậy. Mặc ai, hoặc kệ ai, cũng như kệ người ta, kệ người đời, đừng quan tâm tới. Cả hai chữ ai trong câu nầy, không phải để hỏi. Tuy nhiên, bắt đầu câu là chữ ai, kết thúc âu cũng bằng chữ ai, là một cách nói khéo, nhấn mạnh ý muốn nói của tác giả.

    Câu sau đây gồm 6 chữ, mà có những 3 chữ ai. Nhờ thế nó nói lên được quyết tâm, lập trường kiên quyết của tác giả,

Ai về, ai ở, mặc ai
Ta thì ở lại đến mai mới về!

      Câu sau đây cũng tương tự như câu trên, xác định quyết tâm của mình như một ngọn đèn cháy sáng, mạnh (đượm) suốt cả thời gian dài tối tăm (đêm năm canh)

Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh  

   Đây là câu tán thán, trách người bạc nghĩa, bạc tình, vong ơn. Nếu tác giả viết “Anh ơi…” Hay “Em ơi…” hay “Cô ơi…” thì cái ý đó không mạnh bằng khi dùng chữ ai. Dùng chữ ai là xác định mối quan hệ đã xa bớt đi, lỏng lẻo bớt đi.

Ai ơi quên nghĩ khi nghèo
Buông tay buông lái ai chèo anh qua
 
Ai rằng ai chẳng biết ta
Ta rằng ta biết rõ ba bảy đường.  

    So sánh sự biết giữa tác giả với người khác, tự cho rằng ai ai cũng biết tác giả. Có ai (nghi vấn) ai đó (nghi vấn) chẳng biết ta. Còn ta thỉ biết rõ người khác (ba bảy đường). Câu nầy, cũng dùng nhiều chữ ai để tỏ rõ lòng tự cao, tự phụ.

Ai về em gửi bức thư
Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao
Non kia ai đắp mà cao,
Sông kia ai bới ai đào mà sâu  

   Người nào đó, ai đó (nghi vấn) gởi bức thư, kể cho người bạn cũ biết rằng trời (ai) đã đắp non cao, rằng trời (ai) đã có công đào sông sâu. Đắp núi đào sông là cách nói bóng, muốn nói tới công lao của tôi (nói khéo là trời) đã dựng nên cho người bạn cũ.

Ai về Đồng Tĩnh Huê Cầu
Để thương để nhớ để sầu cho ai
Để sầu cho khách vãng lai
Để thương để nhớ cho ai chịu sầu  

      Ai ở đầu câu là nói tới người tình cũ (Nếu chồng thì không gọi bóng là ai. Tiếng ai ở cuối câu 2 có nghĩa là tôi (hay em, nếu muốn nói cho dịu dàng hơn). Có thể viết là “Người về Đồng Tĩnh…”, và “…để sầu cho tôi” (hay cho anh, cho em,v.v…). Như trên đã nói, dùng tiếng ai, ý tưởng được nhấn mạnh hơn.

Ai làm cho bướm lìa hoa 
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng 
Ai đi muôn dặm non sông 
Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy.  

      Câu nầy cách dùng tiếng ai cũng như câu trên, trách cứ ai (người nào đó) gây nên sự chia lìa, ai đó (người nào đó) bỏ đi xa, gây nên chia lìa. Tiếng ai ở câu cuối là tôi, người gánh chịu hậu quả.

 

Ai đi đường ấy hỡi ai
Hay là trúc đã nhớ mai đi tìm
Tìm em như thể tìm chim 
Chim bay biển bắc đi tìm biển nam  

   Nhấn mạnh ý có phải một người (ai) đang đi trên đường ấy (ai). Ấy là người (ai) đi tìm tôi (ai), có thể là anh hay em. Người đi một đường, người tìm một nẽo. Nói nôm na như thế, nhưng cách phô diễn thì rất bóng bẩy, hình tượng, rất hay.

Ai về chợ huyện Thanh Vân 
Hỏi thăm cô Tú đánh vần được chưa? 
Đánh vần năm ngoái năm xưa 
Năm nay quên hết nên chưa biết gì 
Lưng trời tiếng sáo vu vi 
Vẵng nghe ai học chữ I, chữ tờ  

    Khoảng đầu thập niên 1940, phong trào học chữ quốc ngữ được khuyến khích và phát triển mạnh, ở thành thị cũng như thôn quê, ngoài Bắc. Tự Lực Văn Đoàn của Nhất Linh, Khái Hưng đóng góp công lao không nhỏ cho phong trào nầy. Các lớp Bình Dân Học Vụ được tổ chức nhiều nơi. Có lẽ cô Tú, nhà ở chợ huyện Thanh Vân, ghi tên học lớp Bình Dân nầy? Cô Tú đẹp người nên có người để ý hỏi thăm cô “đánh vần được chưa? Chữ ai ở đầu câu là tiếng nghi vấn hỏi thăm, muốn nhờ người nào đó, ai đó, có về chợ huyện, cho nhắn câu hỏi. Tiếng ai ở câu chót ám chỉ cô Tú, bởi vì cô quên hết (năm nay quên hết) nên cô Tú (ai) lại phải bắt đầu học lại chữ I, chữ t (tờ).


  Bây giờ xin coi đến những tiếng ai trong truyện Kiều.

Nào người phượng chạ loan chung, 
Nào người tiếc lục tham hồng là ai?

   Câu nầy nói tới số phận bạc bẻo của Đạm Tiên. Nào người (tức là ai) đã đến với cô Đạm, ai (nguời nào) đến chiêm ngưỡng, thưởng thức cái sắc đẹp của cô Đạm. Tiếng ai ở đây là nghi vấn.

Rằng: Hồng nhan tự  nghìn xưa, 
Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu.

   Bạc phận là số phận mỏng, gian nan, thiếu phúc đức (bạc là mỏng) trái với hậu là dày, nhiều phúc đức. Cái số phận bạc bẻo mong manh đó là do trời đặt cho, gán cho, không ai (bất cứ người nào) có trể tránh được. Tiếng ai nầy (chừa ai đâu) không phải nghi vấn mà xác định.

Mặt nhìn ai nấy đều kinh, 
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa.

   Ai nấy là tất cả mọi người (Thúy Kiều, Thúy Vân và Kim Trọng) “đều kinh” (hãi) lúc bóng ma Đạm Tiên hiện ra giữa ban ngày trong cơn gió mạnh (ào ào đổ lộc rung cây, ở trong dường có hương bay ít nhiều)

Cho hay là giống hữu tình, 
Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong! 
Chàng Kim từ lại thư song, 
Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây.

    Cũng như mọi người (ai), Kim Trọng không gỡ được tình si mê, mối thất tình sau khi gặp Kiều.

 

Lần theo tường gấm dạo quanh, 
Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. 
Giơ tay với lấy về nhà: 
Này trong khuê các đâu mà đến đây? 
Gẫm âu người ấy báu này, 
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!

 Ai ở câu cuối ám chỉ Kim Trọng. Nếu không có duyên với Kiều, làm sao Kim Trọng lượm được cây kim thoa của Kiều vướng trên hàng rào giữa nhà Kim Trọng và nhà Kiều. Vô tình cái trâm bị vướng vào đó hay Kiều có ý để lại đó cho chàng Kim? Xin nhớ Kiều không phải là người thiếu sâu sắc và “mưu lược”.

 

Sượng sùng giữ  ý rụt rè, 
Kẻ nhìn rõ mặt người e cúi đầu. 
Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau. 
Thầm trông trộm nhớ bấy lâu đã chồn. 
Xương mai tính đã rũ mòn, 
Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay! 
Tháng tròn như gởi cung mây, 
Trần trần một phận ấp cây đã liều! 
Tiện đây xin một hai điều, 
Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?

   Đoạn nầy Kim - Kiều gặp nhau và Kim tán Kiều rất khéo (Đài gương (Kiều) soi đến dấu bèo (Kim Trọng tự hạ mình, coi mình như bèo) cho chăng? Anh chàng nào khi đi “cua”, “tán” thì cũng tự hạ mình khéo lắm, ngon lắm. Khi nó cưới xong rồi, cá vào oi thì mới biết sự đời chân giả ra sao???!!! Chữ ai ở giữa đoạn thơ nầy là nghi vấn: Ai (Kim Trọng cũng như Kiều) làm sao biết được có ngày gặp gỡ hôm nay.

     Câu sau ý nói Kim Trọng. Trọng nói chàng yêu cô Kiều (tình si). Yêu là thiệt thòi - như Xuân Diệu nói “Yêu là chết ở trong lòng một ít!) nhưng đâu có thiệt thòi cho ai. Ai ở đây là ý nói Kiều. Kim hứa sẽ tìm người mối manh để xin cưới Kiều.

 

Dù chăng xét tấm tình si, 
Thiệt đây mà có ích gì đến ai
Chút chi gắn bó một hai, 
Cho đành rồi sẽ liệu bài mối manh

     Khi Kim Trọng tỏ ra xàm xở với Kiều, bị Kiều “sửa lưng”. Tiếng ai trong câu nầy có thể là Kim Trọng, mà cũng có thể người ta, người đời. Tiếng ai ở câu cuối cũng có nghĩa là người đời:

 

Ra tuồng trên Bộc trong dâu, 
Thì con người ấy ai cầu làm chi! 
Phải điều ăn xổi ở thì, 
Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày! 
Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, 
Lứa đôi ai lại đẹp tày Thôi Trương.

  Đoạn sau, tiếng ai ở câu kế ám chỉ muốn trách Kim Trọng. Kim Đừng có vội (liễu ép hoa nài). Kiều còn đây thì sẽ có ngày đáp ứng “đòi hỏi” của Kim.

 

Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, 
Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai
Vội chi liễu ép hoa nài, 
Còn thân ắt lại đền bồi có khi!

     Đoạn sau, câu cuối có tới hai chữ ai. Tiếng ai trước ám chỉ Kiều, tiếng ai ở cuối câu là Kim Trọng.

 

Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. 
Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. 
Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.

     “Ôm cầm thuyền ai” là ôm đàn sang thuyền người khác, ý nói sợ Kiều không chung thủy. Đây là tích Bạch Cư Dị khi bị trích ra ở đất Giang Châu. Một đêm ông tiễn bạn ra bến Tầm Dương, gặp một người đàn bà đdã luống tuổi đàn hay lắm. Hai người mời người đàn bà sang dự tiệc rượu chung vui và đàn trên thuyền của Bạch. Việc làm ấy, người xưa cho là không đứng đắn, thiếu chung thủy với chồng.

 

Đã nguyền hai chữ  đồng tâm, 
Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai.

      Đạm Tiên chết chôn ở đây (chỗ Kiều đi chơi thanh minh về) đã lâu ngày (thỏ lặn ác tà), người đời quen cô Đạm rồi, nên không ai (không có ngưòi nào) đến thăm.

 

Trải bao thỏ lặn  ác tà, 
Ấy mồ vô chủ ai mà viếng thăm!

   Mấy câu sau tả cảnh lúc Vương ông bị mắc nạn, bị vu oan giá họa. Tiếng ai ở đây chỉ người gây nên tai họa cho Vương ông. 

 

Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh, 
Rụng rời khung dệt tan tành gói may. 
Đồ tế nhuyễn của riêng tây 
Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. 
Điều đây bay buộc ai làm, 
Này ai đan giậm giệt giàm bỗng dưng?

     Tiếng ai sau đây cũng tương tự như câu trên:

 

Nuôi con những ước về sau, 
Trao tơ phải lứa gieo cầu đáng nơi. 
Trời làm chi cực bấy trời! 
Này ai vu thác cho người hợp tan.

   Đây là lời thề của Kiều, giữ lòng chung thủy, kiếp nầy không trả được thì kiếp sau tiếp tục vậy.

 

Tái sinh chưa dứt hương thề, 
Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai 
Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan!

   Mấy câu nầy có hai điển tích. Tích “làm thân trâu ngựa”. Xưa có người tên là Văn Địch, mắc nợ chủ, không trả được. Chết xuống âm phủ xin với Diêm Vương cho sống lại đầu thai làm con trâu ở nhà chủ nợ để “kéo cày trả nợ”. Thứ hai là tích Trương Chi. Trương Chi yêu Mỵ Nương, đến khi chết, trái tim chàng biến thành đá. Khi Tể tướng, cha Mỵ Nương cho đào mồ lên, thấy hòn đá, bèn đẻo thành chén trà. Khi “rót nước vào chợt thấy bóng ngư lang (Trương Chi), quanh chén trà, thuyền trôi trong tiếng đàn” – (trích Trương Chi - Phạm Duy). Mỵ nương bèn khóc. Giọt nước mắt của Mỵ Nương rơi vào chén trà, khiến chén đá biến thành nước, tan ra.

 

Rằng: Lòng đương thổn thức đầy, 
Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong. 
Hở môi ra cũng thẹn thùng, 
Để lòng thì phụ tấm lòng với ai
Cậy em em có chịu lời, 
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa

 Kiều bán mình chuộc cha (khỏi bị tù) nên lỡ lời thề cùng Kim Trọng, “Để khỏi phụ tấm lòng với ai”. (Ai là chàng Kim) Kiều nhờ em là Thúy Vân thay cô ta kết duyên với Kim.

 

  Kiều dặn dò Thúy Vân tiếp nối lời thề của cô và than phận mình “bèo nổi mây chìm” (có nghĩa là gian nan khổ ải) vì ai? Ai đây cũng là người vu oan giá họa mà cũng là trời bắt như vậy.

 

Nỗi nàng Vân mới rỉ tai: 
Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây! 
Này cha làm lỗi duyên mày, 
Thôi thì nỗi ấy sau này đã em! 
Vì ai rụng cải rơi kim, 
Để con bèo nổi mây chìm vì ai?

     Mã Giám sinh rước Kiều về nhà trọ. Kiều thấy tủi thân vì phải lấy anh chàng thô lỗ nầy, tiếc rằng cô đã gìn giữ mà không trao tấm thân ngà ngọc cho người yêu cũ. Tay hèn trong câu là chỉ thằng điếm đàng Mạ Giám Sinh đấy. Tiếng ai ở cuối câu nầy, ám chỉ Kim Trọng.

 

Rước nàng về  đến trú phường, 
Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. 
Ngập ngừng thẹn lục e hồng, 
Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen: 
Phẩm tiên rơi đến tay hèn, 
Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai!

  Ý đoạn nầy cũng tương tự như trên. Tiếng ai ở câu thứ ba có nghĩa là trời.

 

Biết thân đến bước lạc loài, 
Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. 
ai ngăn đón gió đông, 
Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.

  Đoạn sau tả tâm trạng Kiều đau đớn lắm khi phải theo Mã Giám Sinh về Lâm Chuy. Khung cảnh trời thu ảm đạm, Kiều bắt đầu cuộc đời phiêu bạt xa xôi, trong khi tâm hồn cô cũng đa cảm, đa tình trước cảnh trời nước mênh mông. Tiếng ai trong câu chính là nói về cô ấy.

 

Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm. 
Nàng thì dặm khách xa xăm, 
Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây . 
Vi lô san sát hơi may, 
Một trời thu để riêng ai một người

     Bị Tú Bà bắt làm gái mãi dâm, tuyệt vọng, Kiều bèn tự tử. Đạm Tiên hiện ra khuyên Kiều phải sống để trả cho xong nợ. Kiều nghe lời. Đoạn thơ sau đây tả tâm trạng Kiều sau khi mộng thấy Đạm Tiên hiện ra, Tú Bà khuyên can Kiều. Kiều bình tâm, có chút hy vọng:

 

Kề tai mấy mỗi nằn nì, 
Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. 
Vã suy thần mộng mấy lời, 
Túc nhân âu cũng có trời ở trong. 
Kiếp này nợ trả chưa xong, 
 
Làm chi thêm một nợ  chồng kiếp sau! 
Lặng nghe, thấm thía gót đầu, 
Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này? 
được như lời, thế là may, 
Hẵn rằng mai có như rày cho chăng! 
Sợ khi ong bướm đãi đằng, 
Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!

     Tiếng ai ở trên là Kiều tự nói mình, nàng không muốn tự tử.

   Tú Bà giam Kiều ở lầu Ngưng Bích. Kiều nhớ cha mẹ, buồn vì khung cảnh sông nước nơi nầy. Tiếng Ai trong thuyền ai là tiếng nghi vấn:

 

Sân Lai cách mấy nắng mưa, 
Có khi gốc tử đã vừa người ôm? 
Buồn trông cửa bể chiều hôm, 
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ? 
Buồn trông ngọn nước mới sa,

     Kiều nghe lời Sở Khanh trốn đi cùng y, bị bắt lại. Kiều trách Sở Khanh là tay bạc tình.

 

Nàng rằng: Thề  thốt nặng lời, 
Có đâu mà lại ra người hiểm sâu! 
Còn đương suy trước nghĩ sau, 
Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào. 
Sở Khanh lên tiếng rêu rao, 
Rằng: Nghe mới có con nào ở đây. 
Phao cho quyến gió rủ mây, 
Hãy xem có biết mặt mày là ai?

   Ai là người nào, xem thử mặt có biết Sở Khanh là người như thế nào không?

 

Nàng rằng: Thôi thế thì thôi, 
Rằng không thì cũng vâng lời rằng không! 
Sở Khanh quát mắng đùng đùng, 
Bước vào vừa rắp thị hùng ra tay. 
Nàng rằng: Trời nhé có hay! 
Quyến anh rủ yến sự này tại ai
Đem người đẩy xuống giếng thơi, 
Nói lời rồi lại ăn lời được ngay! 
Còn tiên tích việt ở tay, 
Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai
Lời ngay đông mặt trong ngoài, 
Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương!

  Kiều tố cáo Sở Khanh là tên quyến rủ Kiều. Tiếng ai ở đây ám chỉ Sở Khanh.

 

Buồng riêng riêng những sụt sùi, 
Nghĩ thân mà lại ngậm ngùi cho thân. 
Tiếc thay trong giá trắng ngần, 
Đến phong trần cũng phong trần như ai!

  Kiều tủi thân vì bị gạt, nghĩ rằng phong trần (phong là gió, trần là bụi, nghĩa bóng là gian khổ) thì mọi người (ai) đều như nhau (ai).

   Chữ ai trong mấy câu sau, cũng như câu vừa rồi.

 
 

Nàng rằng: Mưa gió  dập dìu, 
Liều thân thì cũng phải liều thế thôi! 
Mụ rằng: Ai cũng như ai
Người ta ai mất tiền hoài đến đây? 
Ở trong còn lắm điều hay, 
Nỗi đêm khép mở mỗi ngày riêng chung. 
Này con thuộc lấy làm lòng, 
Vành ngoài bảy chữ vành trong tám nghề.

 
 Nguyễn Du mô tả cuộc đời của Kiều ở lầu xanh, có làm thơ, có họa, có đánh cờ vui chơi nhưng không tìm được người nào để tỏ bày tâm sự. Câu “Ai tri âm đó mặn mà với ai” có nghĩa là không có ai, không có người nào cả.

  

Đôi phen nét vẽ câu thơ, 
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa. 
Vui là vui gượng kẻo là, 
Ai tri âm đó mặn mà với ai? 
Thờ ơ gió trúc mưa mai, 
Ngẩn ngơ trăm mối dùi mài một thân. 

    Kiều thương nhớ cha mẹ, không biết bây giờ ở quê nhà (sân hoè, sân có trồng cây hòe, tượng trung cho cho mẹ) “đôi chút thơ ngây” là ý nói hai em của Kiều còn dại, không biết có ai (người nào) thay cô để chăm sóc cho cha mẹ. Hai câu cuối nói tới người tình là Kim Trọng. Hai chữ ai ở đây cùng nói tới một người là chàng Kim. 

  

Sân hòe đôi chút thơ ngây, 
Trân cam ai kẻ đỡ thay việc mình? 
Nhớ lời nguyện ước ba sinh, 
Xa xôi ai có biết tình chăng ai?

   Kiều gặp Thúc Sinh, coi như tài tử giai nhân gặp nhau, như cá gặp nước. Tiếng ai ở đây là nói tới cả hai người (Kiều và Thúc Sinh)

 

Khách du bỗng có  một người, 
Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. 
Vốn người huyện Tích châu Thường, 
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm truy. 
Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, 
Thiếp hồng tìm đến hương khuê gởi vào. 
Trướng tô giáp mặt hoa đào, 
Vẻ nào chẳng mặn nét nào chẳng ưa? 
Hải đường mơn mởn cành tơ, 
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng! 
Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng, 
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng! 
Lạ gì thanh khí lẽ hằng, 
Một dây một buộc ai giằng cho ra!

    Kiều muốn sống cuộc đời yên ổn, không còn phải ở chốn lầu xanh nữa, bày tỏ tấm lòng của nàng với chàng Thúc:

 

Trăm điều ngang ngửa vì tôi, 
Thân sau ai chịu tội trời ấy cho ? 
Như chàng có vững tay co, 
Mười phần cũng đắp điếm cho một vài . 
Thế trong dầu lớn hơn ngoài, 
trươc hàm sư tử gửi người đằng la

    Đoạn thơ nầy có vài điển tích:

    Hàm sư tử Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tô Thức, bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:

 

“Thùy tự Long Khâu cư sĩ hiền, 
Đàm không thuyết hữu dạ bất miên, 
Hốt văn Hà Đông sư tử hống 
Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên”.

   Dịch nghĩa:

 

“Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ 
 Nói những thuyết không, thuyết có, đến không ngủ 
Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên 
Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.

    Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bìm bìm, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng là dây bìm bìm, ví với phận lẽ mọn.

    Thúc Sinh tạ tội với cha:

  

Rằng: Con biết tội đã nhiều, 
Dẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. 
Trót vì tay đã nhúng chàm, 
Dại rồi còn biết khôn làm sao đây! 
Cùng nhau vả tiếng một ngày, 
Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành.

  Ôm cầm có nghĩa là sống với nhau, ai nỡ dứt dây là có ý xin Thúc ông đừng chia cắt hai người (Thúc và Kiều) xa nhau. Câu chót có hai chữ ai. Tiếng ai trước ám chỉ Kiều, tiêng ai sau ý nói Thúc Sinh.

  Thúc sinh khóc Kiều bị đánh ở cửa quan:

 

Khóc rằng: Oan khốc vì ta, 
Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau. 
Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu, 
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai?

    Đoạn nầy cũng giống ý như trên, nghe tiếng Kiều khóc, Thúc Sinh xin cha. Hai tiếng ai, chỉ Thúc Sinh và Kiều.

 

Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu. 
Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai
Phủ đường nghe thoảng vào tai, 
Động lòng lại gạn đến lời riêng tây. 
Sụt sùi chàng mới thưa ngay,

     Tiếng ai trong mấy câu sau chỉ là hỏi ai, tức người nào:

 

Tin nhà ngày một vắng tin, 
Mặn tình cát lũy lạt tình tao khang. 
Nghĩ ra thật cũng nên đường, 
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? 
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, 
Ở vào khuôn phép nói ra mối giường.

   Những câu sau đây tả chia ly biệt giữa Kiều và Thúc Sinh, được coi là những câu thơ hay nhứt trong truyện Kiều. Tiếng ai ở đây ám chỉ ông trời. Nhưng nếu nói “trời xẻ làm đôi” thì xác định quá, không hay bằng dùng chữ ai, không phải nghi vấn mà phiếm định.

 

Người về chiếc bóng năm canh, 
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi. 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi, 
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

     Nghe tin Thúc sinh có vợ bé, Hoạn Thư tức giận muốn điên lên, sắp đặt mưu kế để trả thù cả hai người. Tiếng ai ở đây có nghĩa là người nào.

 

Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên! 
Làm cho trông thấy nhãn tiền, 
Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. 
Nỗi lòng kín chẳng ai hay,  
  

x  
 
Tuần sau bỗng thấy hai người, 
Mách tin ý cũng liệu bài tâng công. 
Tiểu thư nổi giận đùng đùng: 
Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi! 
Chồng tao nào phải như ai, 
Điều này hẳn miệng những người thị phi! 
Vội vàng xuống lệnh ra uy, 
Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng. 
Trong ngoài cửa kín mít như bưng. 
Nào ai còn dám nói năng một lời!

  Tiếng ai trên ám chỉ người đời, kẻ bình thường. Tiếng ai ở sau có nghỉa là không ai, tức là không có người nào.

   Mưu kế tính toán xong xuôi, Hoạn Thư bình tĩnh coi như trong gia đình không có chuyện gì xảy ra. Tiếng ai trong câu sau có nghĩa là người nào đó.

 

Mấy phen cười nói tỉnh say, 
Tóc tơ bất động mảy may sự tình. 
Nghĩ đà bưng kín miệng bình, 
Nào ai có khảo mà mình đã xưng?

 

Xấu chàng mà có  ai khen chi mình! 
Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,

Tiếng ai sau đây cũng có nghĩa là người đời:

 

Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang. 
Nghĩ ra thật cũng nên đường, 
Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta? 
Trộm nghe kẻ lớn trong nhà, 
ở vào khuôn phép nói ra mối đường.

    Kiều đã được kẻ ăn người ở trong nhà Hoạn Thư dặn khéo. Nếu gặp “Ai người cũ” (có nghĩa là Thúc) thì cũng đừng nhìn nhau.

 

Ở đây tai vách mạch rừng, 
Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi. 
Kẻo khi sấm sét bất kỳ, 
Con ong cái kiến kêu gì được oan?

 Hoạn Thư và Thúc Sinh trùng phùng, mở tiệc. Hai người có hai nỗi lòng riêng, không ai biết ai có ý đồ gì cả.

 

Tẩy trần vui chén thong dong, 
Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.

    Ưng Khuyển đuợc lệnh đi bắt cóc Kiều, đốt nhà rồi đem xác vô chủ bỏ vào trong lửa, để không ai (người nào) biết được.

 

Thuốc mê đâu đã tưới vào, 
Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì. 
Vực ngay lên ngựa tức thì, 
Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong. 
Sẵn thấy vô chủ bên sông, 
Đem vào để đó lộn sòng ai hay?

   Những tiếng ai trong mấy câu sau, nghĩa cũng tương tự:

 

Chạy vào chốn cũ  phòng hương, 
Trong tro thấy một đống xương cháy tàn, 
Ngay tình ai biết mưu gian, 
Hẳn nàng thôi lại có bàn rằng ai
Thúc ông sùi sụt ngắn dài, 
Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.

    Thúc Sinh kinh hoảng khi gặp Kiều ở nhà Hoạn Thư, biết rằng đã mắc mưu ai rồi. Ai đó: Thúc Sinh có thể đoán là Hoạn Thư:

Sinh đà phách lạc hồn xiêu: 
Thương ôi chẳng phải nàng Kiều ở đây? 
Nhân làm sao đến thế này? 
Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!

  Hai câu nầy có tới những ba chữ ai. Ai ra đường nấy là ý nói cả hai người: Kiềi và Thúc Sinh. Hai tiếng ai sau cũng nói cả hai người. Người nầy (Thúc) không nhìn được người (Kiều) kia. Hoặc người kia (Kiều) không nhìn được người nầy (Thúc).

Chước đâu rẽ  thúy chia uyên, 
Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.

  Thúc  ông tưởng Kiều đã chết cháy, khóc cho Kiều. Tiếng Ai là nghi vấn. Tiếng ai ở sau, ám chỉ chàng Thúc khóc vì thương Kiều đã qua đời.

 

Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! 
Thương càng nghĩ nghĩ càng đau, 
Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây. 
Gần miền nghe có một thầy, 
Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền.

 Kiều gặp Bạc Hạnh lại bị đem bán vào lầu xanh lần thứ hai. Đây là mưu đồ của Bạc Hạnh: “Đâu ai biết ai” (người nào) mà sợ “bể mánh”.

 

Thế nào nàng cũng phải nghe, 
Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai. 
Bấy giờ ai lại biết ai
Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.

 

Nhân khi bàn bạc gần xa, 
Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào. 
Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào, 
Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu. 
Bình thành công đức bấy lâu, 
Ai ai cũng đội trên đầu biết bao. 
Ngẫm từ dấy việc binh đao, 
Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. 
Làm chi để tiếng về sau, 
Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! 
Sao bằng lộc trọng quyền cao, 
Công danh ai dứt lối nào cho qua?

     Đoạn nầy có 4 chữ ai. Ai ai (mọi người) đều tôn kính. “Ai có khen đâu Hoàng Sào” là khẳng định chẳng có người nào (ai) cả. Tiếng ai ở câu cuối cũng ở thể khẳng định.

 

Khí thiêng khi đã về thần, 
Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng! 
Trơ như đá vững như đồng, 
Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời. 
Quan quân truy sát đuổi dài. 
Ù ù sát khí ngất trời ai đang.

       Những tiếng ai trong đoạn trên là xác định chẳng có người nào làm được cả,

  Kiều đàn cho Hồ Tôn Hiến nghe trong tiệc khao quân mừng công giết được Từ Hải. Kiều còn sợ cho tương lai của mình gán ghép không phải nơi. (Giây loan, đàn cầm). Thúy Kiều bị phê phán nặng nề nhứt là ở đoạn nầy, góp vui với kẻ thù:

 

Cung cầm lựa những ngày xưa, 
Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây! 
Nghe càng đắm ngắm càng say, 
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình! 
Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, 
Dây loan xin nối cầm lành cho ai.

   Kiều bị gán cho thổ quan (quan ở xứ mọi). Không ai (người nào) dám cải lệnh quan:

 

Lệnh quan ai dám cãi lời, 
Ép tình mới gán cho người thổ quan. 
Ông tơ thực nhé đa đoan! 
Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?

   Kiều bị đưa xuống thuyền, ra giữa sông Tiền Đường:  

 

Chân trời mặt bể  lênh đênh, 
Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào? 
Duyên đâu ai dứt tơ đào, 
Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay! 
Thân sao thân đến thế này? 
Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!

  Tuyệt vọng, Kiều nhảy xuống sông tự vẫn. Hai tiếng ai ở trên ám chỉ ông trời.

   Sư Giác Duyên khen Kiều, tiếng ai ở đây ám chỉ Kiều, không có ai bằng với cô Kiều được:

 

Hại một người cứu muôn người, 
Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng. 
Thửa công đức ấy ai bằng? 
Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi!

 Đoạn cuối của một kiếp người. Đạm Tiên báo mộng cho Kiều biết đã trả xong nợ. Tiếng ai cuối câu cũng ám chỉ Kiều.

 

Mơ màng phách quế  hồn mai, 
Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa. 
Rằng: Tôi đã có lòng chờ, 
Mất công mười mấy năm thừa ở đây. 
Chị sao phận mỏng phúc dày, 
Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!

  Tỉnh giấc mơ, Kiều không thấy Đạm Tiên, chỉ có vãi Giác Duyên ngồi bên cạnh. Tiếng ai ở đây có nghĩa là người nào (nghi vấn):

 

Giật mình thoắt tỉnh giấc mai, 
Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn. 
Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên, 
Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.

  Thúc Sinh về Liêu Dương hộ tang chú xong, trở lại vườn cũ thấy cảnh vắng không, không biết hỏi thăm ai (nghi vấn, làm túc từ):

 

Trước sau nào thấy bóng người, 
Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. 
Xập xè én liệng lầu không, 
Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày. 
Cuối tường gai góc mọc đầy, 
Đi về này những lối này năm xưa. 
Chung quanh lặng ngắt như tờ, 
Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?

Hai tiếng ai sau đây đều ở thể nghi vấn:

 

Kim từ nhẹ  bước thanh vân, 
Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương. 
Ấy ai dặn ngọc thề vàng, 
Bây giờ kim mã ngọc đường với ai?

 
 

    Sau mười lăm năm lưu lạc, Kiều được gặp lại gia đình. Tiếng ai trong câu cuối ám chỉ Kiều.

 

Từ con lưu lạc quê người, 
Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! 
Tính rằng sông nước cát lầm, 
Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!

  Kiều muốn tiếp tục đi tu, không muốn trở lại nhà, nhưng Vương Ông còn nhắc cô Kiều tới lòng hiếu thảo với cha mẹ, biết ai (người nào) giữ công việc đó:

 

Sự đời đã tắt lửa lòng, 
Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi! 
Dở dang nào có hay gì, 
Đã tu tu trót quá thì thì thôi! 
Trùng sinh ân nặng bể trời, 
Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi? 
Ông rằng: Bỉ thử nhất thì, 
Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. 
Phải điều cầu Phật cầu Tiên, 
Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?

  “Ai ngờ” là tiếng tán thán, nói việc không tin tưởng mà lại xảy ra:

Ai ngờ lại họp một nhà, 
Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm! 
Nghe lời sửa áo cài trâm, 
Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng:

  Tiếng ai trong câu sau có nghĩa là mọi người:

Chuyện trò chưa cạn tóc tơ, 
Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông. 
Tình riêng chàng lại nói sòng, 
Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao. 
Cho hay thục nữ chí cao, 
Phải người sớm mận tối đào như ai?

   Tôi không nghĩ rằng cụ Nguyễn Du ngồi tẩn mẩn xem thử cụ đã viết bao nhiêu tiếng ai trong truyện Kiểu. Tôi có ngồi đếm từng chữ cũng chưa hẵn đã hết, đã đủ, có thể còn sót. Tuy nhiên, tôi nghĩ, nếu Nguyễn Du không đem chữ ai mà thay vào những chỗ cần thiết thì Truyện Kiều mất đi cái hay nhiều lắm. Một chữ ai trong một câu là cụ thường dùng. Câu có hai chữ ai, thậm chí một câu có ba chữ ai, nghe không “điệp tự” mà thấy cái ý cụ muốn nói  được nhấn mạnh, được rõ ra nhiều lắm.

   Viết như vầy, tôi cũng mong được bạn đọc, không chê tôi “dài lưng tốn vải” mà thông cảm cho công việc cẩm cẩm của tôi khi đọc Kiều. Còn nếu như không ai thông cảm tôi cả, thì tôi đành đọc lại một câu Kiều, học thói của Kiều hay của cụ Nguyễn Du mà than thầm:

“Ai tri âm đó mặn mà với ai!”


_______________________________________
Lời 1
 
Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng 
Nhớ chăng non nước Hương Bình! 
Có những ngày xanh,  
Lưu luyến bao tình, 
Vương mối tơ mành! 
 
Hàng cây soi bóng nước Hương, 
Thuyền xa đậu bến Tiêu Tương 
Lưu luyến thay phút say hương dịu buồn. 
Nhưng thoảng nghe khúc ca Nam Bình sầu than! 
Như nức nở khóc duyên bẽ bàng! 
Thấp thoáng trăng mờ, 
Ai than ai thở đời vui chi trong sương gió. 
Ai nhớ thương ai
Đây lúc đêm tàn, tình đã lạt phai. 
 
Thuyền ơi đưa ta tới đâu ? 
Tìm trăng, trăng khuất đã lâu, 
Sương xuống trên bến cô liêu, thêm sầu. 
Bèo nước gió mây đêm ngắn tình dài. 
Có ai nhớ, ai nơi giang đầu. 
 
Lời 2
 
Ai về bến Ngự cho ta nhắn cùng. 
Bến xưa non nước Hương Bình 
Những phút tàn canh 
Vương vấn bao tình, 
Ai rứt sao đành. 
 
Thuyền mơ trong khúc Nam Ai, 
Đàn khuya trên sông ngân dài. 
Ai luyến ai tiếc khúc ca Tần Hoài! 
Ôi! vẳng nghe tiếng ai âm thầm trầm ngân 
Như nhắn nhủ mối duyên thờ ơ, 
Sông nước lững lờ, 
Ai mong ai chờ đời vui chi trong sương gió. 
Đây phút cô đơn 
Ai oán cung đàn sầu vọng trần gian.  
 
Thuyền ơi, đưa ta tới đâu! 
Hồn thơ vương vấn canh thâu, 
Thương tiếc chi phút bên nhau thêm sầu. 
Bao kiếp giang hồ ly biệt thường tình. 
Có ai nhớ ai nơi Hương Bình. 






VVM.30.6.2021

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com