LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM
KỲ THỨ V.
THAY LỜI DẪN
Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in
ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974.
Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và
Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến,
nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một
số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ,
Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..
Việt Văn Mới xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :
a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)
b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).
c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)
d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).
VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH
Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây:
Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.
Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.
Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được.
Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.
Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.
Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.
Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách.
Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động:
như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm
viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng
hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải
(Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết.
Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ.
Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời
anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi
hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài
đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.
BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956 ♣♣♣
TIẾT 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐƯỜNG LỐI
CỦA NHÓM XUÂN THU NHÃ TẬP
Xuân Thu Nhã Tập theo điển tích Hán học có nghĩa là: "Cỏ hoa nở dưới mặt trời, bông lúa chín vàng. Sắc đẹp mùa xuân hai mùa hoa nở quả nở trong tinh không cao nhẹ, nghĩa là hai mùa xuân ấy thực hiện được thơ cao đẹp, thanh”.
Xuân Thu Nhã Tập là nhóm văn nghệ gồm các kịch sĩ: Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Xuân Sanh và Phạm Văn Hạnh (nòng cốt). Và nhà văn thơ cộng tác, hưởng ứng như: Nguyễn Lương Ngọc, Đinh Gia Trinh, Diệu Anh vv…
Nhóm ấy đưa ra hai phần thảo luận: cơ sở lý luận văn nghệ và sáng tác. Đặt cơ sở lý luận rồi sáng tác.
Phần lý luận, nhà văn nghệ nhóm muốn phát huy đặc tính dân tộc nói riêng, Đông Phương, nói chung. Vấn đề tổng hợp hồn tính một dân tộc phải xúc tích, tĩnh mạc và diễn đạt theo phương pháp nhận định Tây Phương. Nhóm ấy không gây được một ảnh hưởng lớn như Tự Lực văn đoàn, Hàn Thuyên; nhưng khám phá được con đường mới, bồi bổ cho nền văn chương dân tộc. Tuy nhiên chưa đạt được mấy thành quả. Tìm hiểu đường lối nhóm ấy, chúng tôi cho trích đoạn văn của Diệu Anh nhận định về Xuân Thu Nhã Tập: (23)
“…Bài tiểu luận Thơ ký tên Đoàn Phú Tứ, Phạm Văn Hạnh, Nguyễn Xuân Sách là một trong những bài giá trị trong Xuân Thu Nhã Tập, có thể nói là một công trình tư tưởng có ý vị bậc nhất trong thời đại. Bài tiểu luận thơ phát biểu những quan niệm để thực hành cái phần tiểu thừa trong chương trình của nhóm thanh niên nghệ sĩ tác giả Xuân Thu Nhã Tập gây một nghệ thuật thơ cho Việt Nam, tìm con đường thực nói liền nguồn gốc xưa với ước vọng nay. Gọi về những cái giòng sống thực của ta…” (Quan niệm, trang 12).
Thơ là cái gì siêu thoát, ra ngoài ước lệ; theo ở trên thì: nó rung động ta theo nhịp điệu vũ trụ, hồn nhiên, nó hòa hợp ta trong cái đẹp và ấp ủ ta nằm trong sự thật.
Kết luận, Diệu Anh viết:
“…Xuân Thu Nhã Tập, viết với rất nhiều tâm tình và nhiều nghệ thuật, là một quyển sách khiến kẻ đọc suy nghĩ nhiều. Nay giở mấy trang, mai giở mấy trang, đọc đi đọc lại mỗi bài hai ba lượt, mỗi lượt đọc lại thêm ý vị của một vài tư tưởng, gấp mấy quyển sách lại ta thấy trong nó tự nhiên, ta để nó vào một chỗ danh dự trong tủ sách…” (trang 28, Quan niệm).
Diệu Anh đề cao, phê bình quảng cáo không ít cho Xuân Thu Nhã Tập. Nhóm này cũng bắt chước lối Dadaðsme của Pháp; muốn đưa ra con đường mới; nhưng chưa được thực hiện được nhiều – song cũng gọi là nhà văn thơ, trí thức luôn muốn tiến bộ. Biết bao nhiêu khuynh hướng: Lettrisme, Existentialisme, Surréalisme, Dadaðsme, Lettrisme...nhưng có gây nổi phong trào gì đâu? Thơ, đặc tính của thơ, phải cảm rồi mới hiểu, nói như một văn hào Trung Hoa nào đó (Lỗ Tấn), không hẳn là thiếu lý do; nếu thơ mà duy lý (rationalisme) thì không còn là thơ, mà như vậy thà viết lý luận cho xong. Thiết tưởng ý nghĩ này không xác thực, nếu không vậy, quả là những bài tiểu luận triết học tôn giáo, chính trị, bí hiểm quá thì quả thật chất thơ có diễn tả bay bướm bằng nhạc điệu đến chừng nào chăng nữa; cũng chẳng làm ai cảm động lâu được bao giờ!
Sự cố gắng khám phá con đường mới là nhã ý của nhóm ấy, ở đây chỉ nhận chân công lao nhỏ ấy mà thôi.
TIẾT 2
ĐOÀN PHÚ TỨ (1910 -1989)
NGUYỄN XUÂN SANH (1920 - )
PHẠM VĂN HẠNH (19?? - )
1. Đoàn Phú Tứ
Sinh ngày 10-9-1910 ở Hà Nội. Viết văn khi còn học lớp nhất, từ 1925- 1937 chủ trương báo Tinh Hoa.
Là kịch sĩ lịch lãm và tác phẩm đã xuất bản: Những bức thư tình (1937), Ngã ba (Thời Đại), Ghen… đều là những vở kịch dài và ngắn. Năm 1942, ông cho xuất bản cuốn Xuân Thu Nhã Tập do ông và Nguyễn Xuân Sanh, Phạm Văn Hạnh chủ trương.
Nhóm này còn thêm họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung và nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát cộng tác.
Những thi bản của ông đẹp, bao hàm thi tứ, nở hương thơm, như Màu thời gian, hoặc kịch phẩm giá trị như Ghen, Ngã Ba, có nhiều kịch tính; nội dung tiến bộ về mặt xây dựng nhân vật, bối cảnh như kỹ thuật. Tác phẩm của ông bao hàm một triết lý nhân sinh Á Đông, như chúng tôi vừa nhận định về nội dung Xuân Thu Nhã Tập. Phê bình Đoàn Phú Tứ, Vũ Ngọc Phan dành cho ông một trang danh dự trong Nhà văn hiện đại. Chúng tôi nhận thấy rằng ông Vũ Ngọc Phan làm tròn được giá trị xét về Đoàn Phú Tứ, bao gọn trong đoạn văn này:
“…Người ta có thể gọi Đoàn Phú Tứ là nhà soạn kịch thanh niên. Hầu hết các vở kịch của ông đều đượm sự nồng nàn của tuổi trẻ, cái tuổi mới bước chân vào đời mà phải nếm ít nhiều cay đắng biết suy nghĩ về cuộc sống yên lặng, ồn ào và phức tạp.
Cái đặc sắc trong các vở kịch của Đoàn Phú Tứ ở sự nhẹ nhàng bay bướm. Đọc ông, ai cũng phải nhận rằng ngòi bút ông thật tài hoa. Những việc cỏn con ở đời, những việc không mấy người để ý đến, ông nhận xét rất tinh tế và diễn tả thật tài tình. Ông có một tâm hồn thi sĩ, nên người ta thấy ông sở trường về cả thơ nữa. Thơ ông không nhiều, nhưng bài nào cũng kín đáo gọt rũa, kỹ càng, có khi kỹ càng quá, hóa ra mất cả vẻ tự nhiên, kém phần thành thật. Bài thơ trong kịch Hận Ly tao của ông cũng cùng một giọng như bài Mầu thời gian của ông mà ông Hoài Thanh đăng trong Thi Nhân Việt Nam. Bài Hận Ly tao người ta còn có thể hiểu được không đến nỗi uẩn khúc như trong bài Mầu thời gian…”
Đoàn Phú Tứ dưới nét nhìn Vũ Ngọc Phan nhận định, có thể nói là thật xác đáng. Trong văn chương Việt Nam, một Mầu thời gian có kỹ thuật kiêu sa, tuy nhiên hơi bí hiểm, và nhiều vở kịch tài hoa của kịch-thi-sĩ Đoàn Phú Tứ, cũng đủ cho chúng ta cảm ơn nhiều. Dưới đây trích Mầu thời gian của Đoàn Phú Tứ với lời chú và bình rất đặc biệt của Hoài Thanh:
MẦU THỜI GIAN (24)
Sớm nay tiếng chim thanh
Trong gió xanh
Dịu vương hương(25) ấm thoảng xuân tình
Ngàn xưa không lạnh nữa, Tần Phi (26)
Ta lặng dâng nàng
Trời mây phảng phất nhuốm thời gian (27)
Mầu thời gian không xanh
Mầu thời gian tím ngắt(28)
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh(29)
Tóc mây một chiếc dao vàng(30)
Nghìn trùng e lệ phụng quân vương(31)
Trăm năm tình cũ lìa không hận
Thà nép mày hoa thiếp phụ chàng(32)
Duyên trăm năm đứt đoạn
Tình một thuở còn hương
Hương thời gian thanh thanh
Màu thời gian tím ngắt(33)
(Trích Ngày Nay)
BÌNH
Nói về toàn thể nên chú ý đến điệu thơ. Bài thơ bắt đầu bằng những câu dài ngắn không đều: âm điệu hoàn toàn mới. Kế đến bốn câu ngụ ngôn cổ phong, một lối thơ cũ mà các thi nhân gần đây cũng thường dùng, ông chuyển sang thất ngôn: điệu thơ hoàn toàn xưa. Lời thơ cũng xưa với những chữ phụng quân vương và những chữ lấy lại ở câu Kiều: Tóc mây một món dao vàng chia hai. Nhưng với hai câu thất ngôn dưới thi nhân đã từ chuyện người xưa trở về chuyện mình. Những chữ thiếp phụ chàng đưa dần về hiện tại. Rồi điệu thơ trở lại ngụ ngôn với hương mầu trên kia.
Thành ra ý thơ, lời thơ, điệu thơ cùng với hồn thi nhân đi từ hiện tại về quá khứ, từ quá khứ gần đến quá khứ xa, rồi lại dần dần trở về hiện tại. Hiện tại chỉ mờ mờ nhạt nhạt, nhưng càng đi xa về quá khứ, câu thơ càng thiết tha, càng rực rỡ. Nhất là từ chỗ ngũ ngôn chuyển sang thất ngôn câu thơ đẹp vô cùng. Tôi tưởng dầu không hiểu ý nghĩa bài thơ người ta cũng không thể không nhận thấy cái vẻ huy hoàng, trang trọng của câu thơ (34) .
Trong thơ ta có lẽ không có bài nào khác tinh tế và kín đáo như thế.
(Hoài Thanh – Hoài Chân
Trích Thi Nhân Việt Nam, trang 112-3-4 ấn bản Nguyễn Đức Phiên 1942)
2. Nguyễn Xuân Sanh. – Tác giả Nhật ký 1940 – 1941 (văn) và nhiều thi bản, tiểu luận đăng trong Xuân Thu Nhã Tập.
Là thi sĩ theo phái bí hiểm như Dadaðsme (Đa đa), đôi chút pha Surréalisme (siêu thực), nên thơ chau chuốt kỹ thuật, giầu nhạc điệu mà hồn thơ nội dung lại rỗng tuếch, bí hiểm. Thơ Nguyễn Xuân Sanh phải có Đinh Gia Trinh đi bên giải thích cái hay cái đẹp, mà nghệ thuật lại phải giải thích cái hay, cái đẹp biết bao nhiêu lần, mà người đọc vẫn chưa thông cảm nổi, tôi không muốn nói rằng đó chưa đạt tới nghệ thuật được! Thơ Nguyễn Xuân Sanh không phải chất thơ lịch lãm như Đoàn Phú Tứ, đúng hơn gần ý và tứ của thơ Nguyễn Vỹ. Trong kháng chiến Nguyễn Xuân Sanh không còn làm lối thơ ấy nữa, ông quay sang lục bát rung cảm nhịp điệu hòa hợp với ý nghĩa nội dung, thì chứng tỏ ông có chất thơ để làm thi sĩ. (Làng nghẹt trong rừng đêm). Sau Đinh Gia Trinh giải thích bao hàm cái hay của Xuân Thu Nhã Tập, đến lượt Diệu Anh tiếp tục điều cảm thơ Xuân Thu Nhã Tập (Báo Thanh Nghị: Đọc Xuân Thu Nhã Tập). Chúng tôi trích đoạn văn dưới đây để thêm tài liệu, nhận rõ nội dung nhóm ấy. Không thêm ý kiến nào mà chỉ muốn mở rộng vấn đề cho những ai muốn tìm hiểu đến ngọn ngành mà thôi.
THƠ CỦA HAI ÔNG NGUYỄN XUÂN SANH
VÀ ÔNG PHẠM VĂN HẠNH
“Khi tôi nói đến thơ của ông Nguyễn Xuân Sanh với người quen biết, vừa nói dứt tên tác giả, tôi bị vội vã ngắt “Thơ ấy chịu sao được”. Người ta kêu ông Xuân Sanh lập dị và người ta công kích không nghi ngại gì cái lối thơ tối tăm, bí hiểm của ông. Thực ra thì trong những kết án nghệ thuật của ông Xuân Sanh có nhiều công kích vội vàng. Chỉ vì lẽ lý trí không trông rõ ngay tức khắc mối giường của tư tưởng trong thơ mà vội chê thơ ấy là không có giá trị thì kể cũng quá sơ sài. Tất cả cái lý thuyết trong bài luận về thơ “Thơ” là để bênh vực cái lý tồn tại của một nghệ thuật thơ không vụ sự sáng sủa, không cần làm hại cái luân lý của lý trí (logique intellectuelle) nếu ta không cho cái lý thuyết ấy là dở thì thơ của ông Xuân Sanh áp dụng cái lý thuyết ấy, vị tất đã là dở. Nếu chúng ta xét thơ ông Xuân Sanh theo cái quan niệm thơ văn được lưu hành thì là thất sách. Phải xét thơ ấy dựa theo quan niệm đặc biệt trong bài “Tiểu luận Thơ" hoặc nếu ta muốn chê trách cái tối tăm của thơ ấy ta phải thẩm xét lại cái lý thuyết nguyên do và thực hành lý thuyết ấy bởi các tác giả…
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
(Buồn Xưa)
NGUYỄN XUÂN SANH
Hoa quỳnh (hình ảnh), chiều (gây cảm giác) chiều ưa dĩ vãng và buồn, nhạc trầm mi (tiếng nhạc, hương trầm mi mắt giai nhân). Câu thơ làm rung cảm các giác quan ta, làm rung cảm cả tâm hồn. HOA QUỲNH, buổi chiều, nhạc êm, hương ngát, mi say đắm. Sau khi bị những chữ, những âm thanh chiếm đoạt và làm ta rung động, ta có thể tìm hiểu câu thơ “Nhạc, trầm, mi, như đọng trên hoa quỳnh buổi chiều…”
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Buổi chiều trong hoa quỳnh, vẳng nghe nhạc, ngửi thấy hương trầm, trông thấy mi kỹ nữ, của cả một đời xưa. Hồn ta say sưa vì đẹp dĩ vãng. “Hồn màu xanh tươi, ngát hương/ Chở mang dấu xiêm y của các mỹ nhân thời xưa múa khúc nghê thường”.
Nếu hai câu thơ ấy, ta dùng để định giá trị nghệ thuật của ông Nguyễn Xuân Sanh thì chỉ có lợi cho thi sĩ. Hai câu thơ ấy có nhạc điệu và có thực giá trị. Lợi khi là âm thanh, hình sắc. Ta có thể tìm hiểu nghĩa của thơ, nhưng không cần ngay lúc đầu. Có thể nói rằng nghĩa xuôi của câu thơ có khi giảm cái độ giầu mạnh của cảm xúc đầu tiên. “Trước khi hiểu nghĩa xuôi bao nhiêu cảm giác xây nền trên hình ảnh “Hoa Quỳnh”, bao nhiêu xúc động rộng rãi bám vào hình “Chiều xôn xao vì nhạc trầm mi” khi hiểu nghĩa xuôi, tâm hồn ta chú ý vào nghĩa ấy, cẩm xúc ấy có lẽ thu hẹp lại (Buổi chiều chỉ là buổi chiều trong hoa quỳnh).
Nhưng xét kỹ ra thì thuyết thơ ấy không phải hoàn toàn là vững chắc. Đứng độc lập, những tiếng nhạc trầm mi gây nên cảm giàu mạnh tùy theo người. Nhưng cảm giác ấy thực hời hợt và bơ vơ. Như không tìm được bấu víu. Vì tâm lý học đã cho ta biết đời cảm xúc có liên lạc mật thiết với đời lý trí, một cảm xúc mạnh và sâu vì có những tưởng tượng (représentation). Những liên tưởng (associations idées d’images) nghĩa là vì có hoạt động của lý trí. Không thể tách đời tình cảm ra một bên, chỉ nói chuyện thẳng với giây cảm xúc “Nhạc, nhạc xưa, nhạc Nghê Thường, nhạc ở đáy Thiên cổ, nhạc những giờ ca vui này đã tắt.” Cảm xúc hòa nên dồi dào bao nhiêu. “Tóc mây” nó là tóc mây của người giai nhân yêu, hai cảm xúc mạnh khác nhau. Vì vậy một câu thơ văn vần phải có nghĩa. Tác giả có thể trả lời “Độc giả đọc tiếng nhạc sẽ nghĩ đến nhạc xưa” thì dù nhạc Nghê Thường hay một thứ nhạc khác cũng được. Nhưng chỉ của độc giả không được hướng dẫn, ngơ ngác vì sự hội ngộ lạ lùng của tiếng, của chữ, thường chẳng nghĩ đến vì hơn là “Tiếng đàn” những giây cảm xúc không được rung động, đời tình cảm làm việc nghèo nàn bởi chúng không có bấu víu vào đời lý trí”.
3. Phạm Văn Hạnh. – Tác giả Giọt sương hoa (Xuân Lượm lúa vàng, 1942).
Thơ của Phạm Văn Hạnh cảm được độc giả hơn chất thơ của thi sĩ Đoàn Phú Tứ. Và thơ Phạm Văn Hạnh có rung cảm mạnh, không phải ghép chữ có nhạc điệu như thơ Xuân Sanh. Bài Người có nghe không có gì mới mẻ lắm, ý tưởng, rung cảm, nhạc điệu, nói theo Diệu Anh, đem lý thuyết vào thơ Xuân Thu Nhã Tập chưa thấm nhuần. Còn bài Thơ Thơ ông viết theo một nhạc điệu đặc biệt, rung cảm mới lạ, truyền cảm, coi như là một bài thơ thành công của riêng ông, và xa hơn chung cho Xuân Thu Nhã Tập. Thơ Phạm Văn Hạnh gần với đời sống tình cảm của con người, với triết lý sống cao cả thanh tao Đông Phương. Sau 1945, ông vào Sàigòn cộng tác với nhóm Chân trời mới Tam Ích, Thiên Giang, ông chuyển dịch tác phẩm quốc tế. Và không thấy ông làm thơ đăng báo hay xuất bản nữa(36) .
Chúng tôi trích đăng một bài thơ điển hình Xuân Thu Nhã Tập, lấy thơ của Nguyễn Xuân Sanh là bài Người Xuân. Giá trị thì đã bàn ở trên khi nói về tác giả; còn bài thơ dưới đây coi như tài liệu tham khảo của văn thơ tiền chiến mà thôi.
Trích thơ:
NGƯỜI XUÂN
Hãy vớt mai trầm vàng nắng gió
Đường xuân rồi khép với chiều tơ
(Đường Xuân)
Lên mùa xe khách vút xe hương
Vai nghiêng suối trái lạnh hồn đường
Gieo trắng dặm thơm đời ngát nẻo
Bó mùa chân ướt ngấn hoa sương
Ngập ngừng hương ấm bình thanh xuân
Tay thơm dâng sóng đậm chiều gần
Hồn gặp men chiều siêu mái đượm
Sương người tươi trái duyên riêng thân
Thế kỷ về xuân hương nước ơi!
Người xuân liễu thắm nhạc hồn đời
Say cuộc nẻo hương hoa thấm bước
Hát trầm nhựa chuyển nhánh vươn hơi
Quay nhịp chiều tươi hương vút cao
Tay xuân suối rượu thuở xa nào
Phơi phới ngày vàng giang mái tóc
Mi ướt rừng mùa sương buổi nao
Xe lá xuân hồn hoa ngón tay
Mắt nghiêng cánh hạt mộng bờ ngày
Hương lộn mi trầm mây biếc biếc
Ôi người mùa duyên men bốc say
Chén đàn xuôi trái ướt giăng không?
Môi ngát người xưa nhịp thắm hồng
Vườn lượn tay nghiêng xây trái rủ
Bờ xuân men nhạc múa tơ bông
Bâng khuâng vai ướt lệ sương người
Vòng xuân hoa mướt lộng nơi nơi
Nghe mạch hương, mùa khua trái giữ
Tay nao sương đất hạt lầu đời
Hồn lạnh thời gian đâu buổi xưa
Tay ơi bóng ấm đậm buồn dừa
Giăng bồng đỏ chín rơi vang bước
Hạnh phúc duyên dường nghiêng nhánh xưa
Lên xuân trái nhạc ngủ chiều hương
Rừng dựng mầu cành xanh bốn phương
Nắng gội hồn ngày say góc mái
Người hương trái chín nhạc lên đường
Người xuân ngực nở nhịp tuần hoàn
Thuyền đào lên sóng nhạc thời gian
Mái tóc ngưng hương mùa nước đậm
Mi xanh hồn trĩu nhạc thơm ngàn
Mai sưa cây ngát thấm hồn rừng
Hương tưới lư trầm bốc mượt lưng
Lưu thủy ngọn đồi tuôn nhánh gió
Tròn xuân đất rậm hái tưng bừng
Nội tươi gió trái bước rừng mai
Người sương bát ngát gọi đường nhài
Đi nhạc ngàn xuân lên bước mới
Bình giời treo ngọc nét tuôn vai
Mi lồng thánh thót thở hồn son
Vai máu lầu sương nhạc đổ tròn
Trái chĩu nhịp hoa tay chới với
Bước hương gieo nhẹ máu rừng non
Lầu người gió vớt nhạc rừng xây
Đất thôn lối biếc ngực dâng đầy
Xuân đẫy vòng thơm buông trái ngọc
Thiên hương lúa mượt tóc rừng mây
e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne".
Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956
(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...
Từ Vũ và Việt Văn Mới chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ tập
Lược Sử Văn Nghệ,một bộ tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người
muốn khách quan sưu tra sử liệu .
Từ Vũ
VvietartNewvietart 2004-2018
ViệtVănMới 25.6.2020 Troyes-France.
THẾ PHONG
gồm 4 tập:
1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945
2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950
gồm hai phần:
a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về:
Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv...
b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...
3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.
Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.
4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)
Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi.
Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.
THẾ PHONG