Việt Văn Mới
Việt Văn Mới







NHỮNG NGƯỜI

NỮ CHIẾN BINH

AMAZONES




T rong thần thoại Hy Lạp, Amazones là những nữ chiến binh lừng danh thiện chiến đã chiếm giữ vòng Biển Đen (Mer Noir) và những vùng đất về phía đông. Những anh hùng vĩ đại nhất của Hy Lạp đã chứng tỏ bản lĩnh của họ khi phải đối mặt với những người Amazones lừng lẫy này trong nhiều chuyện thần thoại nổi tiếng. Ví dụ, người sáng lập huyền thoại của thành phố Athens, Theseus, đã chiến thắng trong cuộc đọ sức với Amazone Antiope. Để hoàn thành công việc thứ 9 trong số 12 việc làm của mình, Hercules phải mang chiếc thắt lưng vàng của Hippolyte, nữ hoàng của nữ chiến binh Amazones. Cuộc chiến thành Troie thần thoại diễn ra ​​cuộc đối đầu tay đôi giữa nhà vô địch Hy Lạp Achilles và nữ dũng sĩ Amazone Penthésilée.

Người Hy Lạp xem những nữ binh Amazones là những phụ nữ “bình đẳng với nam giới”, những nữ binh này cũng can đảm và thiện chiến như những người nam đồng nghiệp của họ. Trong nghệ thuật và văn học của Hy Lạp cổ đại, những nữ binh Amazones được miêu tả như những nữ chiến binh xinh đẹp và dũng cảm, luôn trang bị vũ khí bên người họ và cực kỳ nguy hiểm. Ngay cả trước khi L'Iliade được Homer viết (vào khoảng năm 700 trước Công nguyên), mọi người đàn ông, phụ nữ hay trẻ em trong toàn lãnh thổ đều biết lịch sử đầy quyến rũ về các nữ chiến binh Amazones đó.

Trong vô số hình ảnh tượng trưng của các nghệ sĩ Hy Lạp, các nữ binh Amazones mặc quần dài, cưỡi ngựa, bắn cung, cầm giáo và rìu , chiến đấu và chết như những nữ anh hùng. Các Amazones là những đề tài được phổ biến trên đồ gốm không những chỉ để sử dụng cá nhân mà còn trên các tác phẩm điêu khắc công cộng. Các đền đài được trang trí với những cảnh tượng sôi động mô tả các nữ chiến binh nổi tiếng. Đối với những người yêu chuộng thần thoại Hy Lạp cổ đại, những nữ binh Amazones như in hằn dấu tích trong trí tưởng tượng bên cạnh những sinh vật huyền thoại như L'Hydre de Lerne hay con ngựa thần Pegase, nhưng các nhà khảo cổ học đang tăng công sức để truy tìm những bằng cớ chắc chắn để xác định được rằng sự hiện hữu của một tộc dân nữ chiến binh trong thời cổ đại ở Hy Lập là có thực.

AMAZONES XUẤT XỨ TỪ PHƯƠNG ĐÔNG

Những phát hiện khảo cổ học gần đây từ các ngôi mồ từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên cho thấy rằng những nữ binh Amazones trong thần thoại Hy Lạp được lấy cảm hứng từ một dân tộc kỵ mã du mục sống ở Âu-Á. Theo thần thoại Hy Lạp, người Amazones có cuộc sống tất bật: phần lớn thời gian sinh hoạt ở ngoài trời trên các bãi săn hoặc trên chiến trường và tận hưởng hoàn toàn sự tự do về tình dục. Những đặc tính này được đặc biệt tìm thấy ở các dân tộc đã luân lưu trong vùng Scythie, tên vùng đất do các công dân Hy Lạp cổ đại đặt cho một vùng lãnh thổ rộng lớn trải dài từ Biển Đen cho tới Mông Cổ.

Những người Scythies chiếm lãnh những vùng đất này là những người du mục. Họ đã được đề cập trong văn học ngay từ thế kỷ thứ 9 trước Công nguyên. Nền văn hóa của họ, chủ yếu xoay quanh hai lạnh vực là cưỡi ngựa và bắn cung, nền văn hóa này đã lan rộng trên gần như toàn bộ lục địa châu Á, từ Ukraine đến Sibérie. Cuộc chạm trán đầu tiên giữa người Hy Lạp và người Scythies diễn ra vào thế kỷ thứ 7 trước Công nguyên khi người Hy Lạp bắt đầu thiết lập các khu thuộc địa trên bờ Biển Đen.

Theo thời gian, người Hy Lạp đần dần hiểu biết về người Scythies, các mô tả và minh họa về người Amazones trong nghệ thuật và văn học đã từ từ hiện thực và biểu lộ những phong tục và trang phục đích thực gắn liền với người dân thảo nguyên du mục này kể cả ngựa và vũ khí của họ.

Vào thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, Herodote và các nhà văn khác đã đề cập tới những người phụ nữ Scythies này chiến đấu trên lưng ngựa cùng với đàn ông, giống như những người nữ chiến binh Amazon trong thần thoại. Các nhà sử học của Đế chế La Mã và Hy Lạp cổ đại khẳng định rằng Cyrus De Perse, Alexander Đại đế và Tướng Pompée de Rome đều gặp gỡ những phụ nữ phương Đông hệt như những nữ chiến binh Amazones.

Nghiên cứu khảo cổ học qua các ngôi mồ chôn cất người Scythies cho thấy một mức độ bình đẳng giới tính có thể khiến chính người Hy Lạp cũng phải "mắc cở". Tại Hy Lạp, người phụ nữ thường phải ở trong mái ấm gia đình, nơi họ chỉ biết những hoạt động như dệt vải hoặc chăm sóc trẻ em. Ngược lại, bất kể giới tính nam hay nữ, những người du mục đều có một cuộc sống khó khăn trong một môi trường thù nghịch. Các bộ tộc liên tục phải di chuyển để tìm những đồng cỏ mới có thể nuôi được ngựa của họ, săn bắn, cướp bóc hoặc chiến đấu chống lại các bộ tộc đối nghịch. Mỗi thành viên, đàn ông hay phụ nữ, người lớn hay trẻ em, đã tham gia tích cực vào công việc bảo vệ cho nhóm và đảm bảo sự sinh tồn, phát triển của nhóm. Điều đó không những chỉ là hợp lý mà còn là cần thiết để đào tạo những cô gái trẻ cũng như các chàng trai trẻ về cưỡi ngựa, bắn cung, săn bắn và chiến đấu. Cách sống của họ khuyến khích cho sự bình đẳng về giới tính. Trong cuộc sống của những người du mục, sự bình đẳng giữa nam và nữ được thực hiện chủ yếu là nhờ sự kết hợp giữa hai việc : cưỡi ngựa và bắn cung. Cưỡi trên lưng một con ngựa phi nhanh, một người phụ nữ cầm cung cũng phải giết người không kém gì một người đàn ông.

Lối sống theo chủ nghĩa bình quyền của người Scythies khác biệt hoàn toàn với lối sống của người Hy Lạp, những người định cư và tập trung vào nông nghiệp. Với người Hy Lạp thì ý tưởng về sự bình quyền của người nữ với người nam tạo ra trong họ một sự mâu thuẫn nào đó, một cảm nhận sợ sệt nào đó tuy nhiên họ vẫn nảy sinh một sự ngưỡng mộ truyền cảm qua cho vô số những chuyện ly kỳ về những phụ nữ man rợ đầy dũng cảm và tài năng như những người đàn ông trên các chiến trường này.

Thông qua huyền thoại của người Hy Lạp về những người Amazones không biết sợ hãi, có vẻ như người Hy Lạp đã tạo ra một không gian nào đó để khám phá khái niệm bình đẳng giới tính, một giấc mơ không thể nào đạt được trong xã hội trưởng gia của họ, nơi mà đàn ông thống trị và kiểm soát đàn bà.

CÁC GÒ MỘ VÀ CÁC BỘ XƯƠNG

Nhờ vào những tiến bộ đã đạt được trong những công trình nghiên cứu khoa học về hài cốt con người nên nghiên cứu về người Scythies đã có thể được sâu rộng thêm để dẫn đến kết quả một phác họa nhẹ nhàng hơn về văn hóa và phong tục tang lễ của họ. Vào những năm 1940, lần đầu tiên qua các cuộc khai quật các gò chôn cất người Scythies, những nhà khảo cổ đã phát hiện ra những bộ xương được chôn cùng với những cây giáo, mũi tên, rìu và ngựa. Ban đầu được cho là một mồ của nam giới, phải đợi đến vài thập kỷ sau với sự ra đời bằng xét nghiệm ADN, các nhà nghiên cứu mới có thể xác định rằng không phải tất cả các xương đều thuộc về nam giới. Nhiều người trong số đó là phụ nữ.

Cho tới nay, khoảng một phần ba phụ nữ Scythies được khai quật đã được phát hiện cùng với vũ khí. Xương của họ mang dấu vết của những vết thương hậu quả của một cuộc chiến đấu: xương sườn bị chém, vỡ sọ và gãy tay. Năm 2017, các nhà khảo cổ học đã khai quật được một bộ xương phụ nữ ở nước Arménie với đầu một mũi tên cắm vào xương đùi và những dấu tích khác của trận chiến.

Gần đây hơn, những khám phá khác đã khẳng định giả thuyết ban đầu cho rằng các nữ chiến binh của người Scythies và các dân tộc khác trên thảo nguyên đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo dựng huyền thoại về nữ chiến binh Amazones. Vào cuối năm 2019, các cuộc khai quật do các nhà khảo cổ học ở tỉnh Voronezh tại nước Nga tiến hành đã phát hiện ra một ngôi mộ chứa hài cốt của 4 người phụ nữ. Người trẻ nhất là một  thanh thiếu niên (khoảng từ 13 tới 19 tuổi) và người lớn nhất khoảng tuổi bốn mươi, người này được chôn cùng với vũ khí và một chiếc mũ đội đầu. Một phụ nữ khác, trạc hai mươi tuổi, được an táng trong tư thế của một nữ kỵ mã. Các phân tích cho rằng những người phụ nữ này đã sống ở thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên. Hơn nữa, địa điểm khai quật ngôi mộ của họ lại nằm ở miền Tây nước Nga được ghi nhận là vùng lãnh thổ mà người Hy Lạp có thể đã chạm trán với người Scythies.

Những phát hiện này làm người ta phải đặt lại vần đề về các lý thuyết ngày trước liên quan đến sự xuất hiện của các nữ chiến binh Amazones trong văn hóa Hy Lạp. Theo một người trong số họ, chỉ với sự tưởng tượng đã đẻ ra những nữ chiến binh này để dàn cảnh cuộc bại trận trước những vị anh hùng Hy Lạp. Những người khác lại cho rằng những huyền thoại này để thể hiện sự căm ghét và sợ hãi của những người phụ nữ phải bằng mọi giá bị đàn ông đè bẹp. Nếu theo tất cả những lý thuyết lỗi thời này thì các nữ chiến binh Amazones chỉ tồn tại trong thần thoại để bị đánh bại và trong bất cứ hoàn cảnh nào thì người phụ nữ không tài nào đạt được địa vị anh hùng.

Qủa thực như thế vì trong thần thoại Hy Lạp, các nữ chiến binh Amazones đều luôn luôn bị các vị anh hùng Hy Lạp đánh bại.

Rốt cuộc thì những câu chuyện duy nhất mà người Hy Lạp muốn nghe là những câu chuyện giới thiệu những nhà vô địch của họ là những người cuối cùng bao giờ cũng chiến thắng. Điều đó cũng đủ nói lên rằng trong mọi câu chuyện thần thoại Hy Lạp, các nữ chiến binh Amazones cũng dũng cảm và cũng tài năng như chính những anh hùng "cuối cùng chiến thắng" trong chuyện vì những người nữ Amazones dám quyết tâm chứng tỏ bản lĩnh của mình để ngang nhiên đối mặt với những đối thủ có tầm cỡ như mình. Sử dụng cách diễn đạt của một nhà viết kịch nổi tiếng người Pháp,Pierre Corneille, trong vở kịch Le Cid thì "À vaincre sans péril, on triomphe sans gloire." - để bị chinh phục mà không gặp nguy hiểm, họ sẽ chiến thắng mà không có vinh quang. Hơn thế nữa, những món đồ gốm Hy Lạp mô tả những trận chiến chống lại quân Amazones đầy nét hồi hộp khó có thể dự đoán được kết qủa ; các nữ chiến binh này chiến đấu với lòng dũng cảm, chết anh hùng và một số thậm chí còn đi đến mức truy giết các chiến binh Hy Lạp.

THỰC TẾ VÀ HƯ CẤU

Tất cả như khảo cổ học đã chứng tỏ ra rằng các nữ chiến binh Amazones không phải là một tưởng tượng thuần túy. Qua những khai quật, chứng nghiệm khoa học của họ cũng giúp chúng ta loại bỏ một số quan niệm sai lầm về các nữ binh Amazones. Cũng theo một trong số những người khảo cổ thì những người Amazones đã có một "truyền thống" cắt một bên ngực để sử dụng cung bắn hoàn hảo hơn theo truyển thống của họ từ hơn 2.500 năm.

Sự kiện này lần đầu tiên đã được đề cập vào năm 490 trước Công nguyên qua nỗ lực của nhà sử học Hy Lạp Hellanicos . Ông thử chuyển dịch thuật ngữ Amazon sang chữ Hy Lạp. "Amazon" không phải là một tiếng Hy Lạp nhưng "mazone" về mặt phiên âm hơi giống chữ "vú" và tiền tố (chữ đầu) "a" có nghĩa là "không có" – sans . Đối với Hellanicos, thuật ngữ này do đó có nghĩa là những người Amazones đã cắt ngực của họ để dể dàng sử dụng cây cung . Giả thuyết của ông đã bị những người đương thời bác bỏ và không một nghệ sĩ nào đưa nó vào tác phẩm của mình nên tất cả những người Amazones được thể hiện trong nghệ thuật Hy Lạp và La Mã đều có hai bộ ngực nguyên vẹn. Ngoài ra, các cung thủ cũng không bị cản trở bởi bộ ngực của họ.

Lại theo một niềm tin cứng rắn khác được truyền bá bởi người Hy Lạp cổ đại thì Amazones là một bộ tộc gồm những phụ nữ độc đoán, coi thường đàn ông, bắt đàn ông làm nô lệ, cắt xẻo họ, giết họ và thậm chí còn chối bỏ những đứa trẻ sơ sinh. Ý tưởng này có lẽ bắt nguồn từ việc chính người Hy Lạp đã đàn áp vợ của họ. Theo logic của riêng người Hy Lạp thì nếu người phụ nữ mạnh mẽ và độc lập, thì người đàn ông chắc chắn sẽ phải hèn nhát trước quyền lực của phụ nữ. Tuy vậy một số người Hy Lạp cũng đã không ngần ngại ca ngợi những người nữ Amazones: chẳng hạn như Homer đã dùng một thuật ngữ để mô tả những người nữ Amazons có thể được dịch là “những người ngang hàng với đàn ông” và nhiều nhà thơ Hy Lạp đã mô tả những nữ chhiến binh Amazones là những người “say mê đàn ông".

Ngày nay, một số chuyên gia cho rằng người Amazones đã chọn chiến trường tạo thiệt hại cho vai trò làm mẹ của họ. Giả thuyết này bị hoàn toàn bác bỏ bởi những sổ bản đang khai các thế hệ Amazones của Hy Lạp, với hệ thống dòng dõi gia đình rõ ràng là mẫu hệ. Hơn nữa, trong các chuyện thuật lại của Hy Lạp lại thường nói về các chiến binh Amazon cho con cái họ bú sữa ngựa cái. Khảo cổ học cũng lại cung cấp một lượng lớn bằng chứng để bác bỏ lập luận về sự thiếu trách nhiệm của người mẹ của những người nữ binh Amazones qua những phát hiện được tìm ra qua những vật chôn cất trong các gò mộ của những người du mục , những Amazones trong thần thoại Hy Lạp cách đây 2.500 năm. Bên cạnh bộ xương của các nữ chiến binh được chôn cùng vũ khí của họ, các nhà khảo cổ cũng đã khai quật được những trẻ sơ sinh hoặc trẻ em. Không còn có thể nghi ngờ gì được nữa, các nữ chiến binh cũng là mẹ.

Hầu hết các học giả ngày nay đều nhìn nhận rằng những người Amazones chỉ là một kết qủa của sự tưởng tượng của người Hy Lạp. Tuy nhiên , rất nhiều nghiên cứu đã chứng tỏ rằng các nữ chiến binh của những thảo nguyên rộng lớn ở Trung Á cũng cùng lúc rất có ảnh hưởng đến các nền văn minh khác khi những văn mình này có liên can với các dân tộc du mục ở Scythie. Những câu chuyện phiêu lưu được kể lại và những chứng tích lịch sử về những nữ chiến binh cũng nhắn nhở lại tới các chiến binh Amazones đã xuất hiện ở Ai Cập, Ba Tư, Caucasus, Trung Á, Ấn Độ và thậm chí ngay cả ở Trung Quốc.

NHỮNG Ý TƯỞNG VỀ BÌNH ĐẲNG

Nghiên cứu văn học Hy Lạp thời kỳ cổ điển tích cực hỗ trợ ý kiến ​​cho rằng thần thoại về những người Amazones một phần cũng dựa trên một dân tộc thực sự tồn tại. Nhà sử học Herodotus ở thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, nhà địa lý Strabo ở thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên, và nhiều người khác đã cùng khắng định về một sự tồn tại của những phụ nữ giống như những nữ chiến binh Amazones và liên kết họ với các nữ chiến binh bằng xương bằng thịt của Scythie. Trong Câu chuyện lịch sử của mình, Herodotus cũng đã giải thích làm thế nào để một nhóm người Amazones bị đắm tàu ​​đã yêu những người Scythie khi những người này đến gặp gỡ họ rồi những người sau Scythie yêu cầu với những nữ chiến binh Amazones chập thuận làm vợ của họ để cùng chung sức giành lại vùng đất của tổ tiên họ. Các nữ chiến binh Amazones đã trả lời:

“Chúng tôi không thể nhận lời được” các Amazones trả lời, “ở lại chung với những người phụ nữ đất nước các bạn. Phong tục của họ không giống chúng tôi: chúng tôi bắn cung, chúng tôi ném lao, chúng tôi cưỡi ngựa […]. Phụ nữ của các ông không làm những gì mà chúng tôi vừa nói […]. Do đó, chúng ta sẽ có thể không bao giờ đồng ý với nhau. Nhưng nếu các người muốn có chúng tôi làm vợ, và bày tỏ được ra sự công bằng, thì hãy đi tìm cha các người, xin họ một phần tài sản thuộc về các người; trở lại đây sau khi nhận được nó, rồi chúng ta sẽ sống trong cuộc sống cụ thể với chúng tôi. »(Herodotus, Quyển IV. Melpomène, do Pierre Henri Larcher dịch từ tiếng Hy Lạp)

Sau khi lời đề nghị được chấp nhận, những người yêu nhau đã định cư ở những vùng đất mới, nơi các nữ chiến binh Amazones sẽ có rất nhiều thời gian để tiếp nối truyền thống của họ bên cạnh những người bạn mới . Bài viết của Herodotus về Amazones cho thấy một cái nhìn quân bình về những phụ nữ độc lập này.

PLATON VÀ CÁC NỮ CHIẾN BINH AMAZONES

Trong số các nhân vật lịch sử Hy Lạp đã đề cập đến những nữ chién binh Amazones trong tác phẩm của họ là nhà triết học Platon. Người Amazones và phụ nữ Scythie xuất hiện trong Les Lois, một cuộc đối thoại về các chiến lược tốt nhất để giáo dục công dân chuẩn bị cho cả thời chiến cũng như thời bình. Trong một quốc gia lý tưởng , Platon đề xuất rằng ở 6 tuổi, các bé trai và bé gái “phải được huấn luyện cưỡi ngựa, bắn cung, ném lao và xử dụng súng cao su". Những hoạt động quân sự này không nằm trong những kỹ năng truyền thống được dạy cho binh lính Hy Lạp mà lấy cảm hứng từ những kỹ năng của các cung thủ Scythie. Vào thời Platon, thế kỷ thứ 4. Bằng cách so sánh các chiến binh đích thực Scythie với các chiến binh Amazones trong thần thoại, Plato đưa ra ý tưởng rằng một nền giáo dục quân sự lý tưởng phải dựa trên khái niệm bình đẳng nam nữ:

Nếu tôi tin tường vào điều đó, vì pháp luật sẽ quy định các sự tập luyện cho nữ giới giống như cho nam giới; và tôi không e ngại nói rằng đua ngựa và thể dục phù hợp với nam giới cũng hoàn toàn thích hợp với nữ giới. Tôi tin điều ngược lại đối với các lời nói cũ [...]. (Platon, The Laws, Book VII, Victor Cousin dịch từ tiếng Hy Lạp)

Platon nhấn mạnh rằng việc đào tạo trẻ em về cưỡi ngựa và bắn cung nên được giao cho các huấn luyện viên ngoại quốc và diễn ra trong những không gian mở rộng đặc biệt cho mục tiêu này. Cùng lúc chăm chú để đảm bảo rằng các cô gái trẻ được "đào tạo theo phương cách giống hệt như các cậu bé trai" về điền kinh, cưỡi ngựa và xử dụng vũ khí, những phụ nữ Hy Lạp có thể, trong trường hợp khẩn cấp, "sẵn sàng" cầm lấy cung tên như các nự chiến binh Amazones để hỗ trợ những người đàn ông trong cuộc chiến chống lại kẻ thù.

Sự thay đổi triệt để của Platon vượt khỏi quan điểm truyền thống của người Hy Lạp về vai trò giới tính đã không chỉ được giải thích qua những lời kể về người Amazones. Nhà triết học tuyên bố biết “không nghi ngờ gì rằng ngay cả ngày nay xung quanh Pont [tên được đặt cho một khu vực bao gồm cả Scythie, ghi chú của người biên tập] một số lượng phụ nữ phi thường được gọi là Sauromates [tên được đặt cho các dân tộc du mục của thảo nguyên, ghi chú của người biên tập], những người nữ này luyện tập không hơn không kém nam giới, họ không chỉ cưỡi ngựa, mà còn bắn cung và xử dụng mọi loại vũ khí". Trước khi tiếp tục, "Không có gì vô lý hơn tục lệ được áp dụng tại nước Hy Lạp chúng ta, theo đó thì phụ nữ và đàn ông không phải tất cả đều đem hết sức mình để phối hợp chung vào sự luyện tập. "

Như Platon khẳng định, sự hợp tác lẫn nhau và đào tạo chung này liên quan chặt chẽ vào sự thành công của một xã hội. Đối với nhà triết học, thật tới là "vô lý" khi một quốc gia có thể nghĩ cách làm khác đi, bởi lẽ không có sự tham gia của phụ nữ, "một quốc gia chỉ còn một nửa của chính nó, nếu tất cả đều có những công việc như nhau và cùng góp phần vào những trách vụ công cộng". Platon thiết lập sự song song giữa, một mặt là phương pháp tiếp cận toàn diện và bình đẳng , mặt khác là khả năng bắn tên "tự nhiên bằng cả hai tay" của các cung thủ Scythie. Sự khéo léo đến như vậy qủa nhiên thật là cốt yếu trong những cuộc chiến bằng cung tên hoặc phóng lao, và đối với Platon, mỗi cậu bé và mỗi cô bé cần phải khẳn định rằng khi chúng lớn lên có thể sử dụng cả hai tay một cách khéo léo như nhau.

Platon lại nói, người phụ nữ Scythie đã chứng minh rằng có thể và có lợi cho một nhà nước khi quyết định rằng trong “giáo dục và tất cả các vấn đề khác, phụ nữ phải có quyền bình đẳng với nam giới và tuân theo một khuôn mẫu trong cuộc sống như họ."

GIẤC MƠ BÌNH ĐẲNG NAM NỮ

Bình đẳng nam nữ là một khái niệm rất khó hiểu đối với người Hy Lạp cổ đại, nhưng họ lại ưa thích khám phá nó thông qua thần thoại, nghệ thuật, kịch và triết học. Do đó, Athens chứng kiến ​​sự ra đời của những lý tưởng dân chủ ủng hộ bình đẳng, và nhiều nhà viết kịch đã đưa những nhân vật nữ mạnh mẽ và độc lập vào các vở kịch của họ. Vô số huyền thoại về nữ chiến binh Amazones đã cho phép cho những đàn ông , phụ nữ thời đó một lối thoát để tưởng tượng về sự bình đẳng giới tính.

Thông qua những chuyện thần thoại và những "thí nghiệm về tư tưởng" của họ, người Hy Lạp đã tạo ra vương quốc tuyệt vời của người Amazones bằng cách trộn lẫn giữa thực và ảo, một thế giới vẫn còn làm cho chúng ta mê hoặc đến tận ngày nay. Nhiều nữ anh hùng thời hiện đại dựa rất nhiều vào chân dung của các Amazons do thần thoại Hy Lạp vẽ nên. Katniss Everdeen, Buffy và Công chúa Leïa đều là người thừa kế của những chiến binh nổi tiếng này. Hậu duệ trực tiếp nhất chắc chắn là Wonder Woman, một người Amazon mà các vị thần Hy Lạp đã gởi tặng nhiều món quà.

Điểm chung cốt lõi của hầu hết các truyền thuyết về Amazons dường như là sự tìm kiếm vĩnh cửu cho một mối quan hệ hài hòa và cân bằng giữa nam và nữ; một cuộc đấu tranh toàn cầu và vượt thời gian. Các chuyện thuật lại về họ luôn tiết lộ khả năng bình đẳng giới tính qua đó chúng ta có thể kết luận được rằng : những gì có thể có được ở ngày hôm qua vẫn có thể xảy ra ngày hôm nay.

Troyes, 22.30 – 23.12.2020.

theo Adrienne Mayor , sử gia chuyên nghiên cứu triết lý khoa học tại Đại học Stanford HoaKỳ