Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM



KỲ THỨ VI.


THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Việt Văn Mới xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Việt Văn Mới chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ,một bộ tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .

Từ Vũ

VvietartNewvietart 2004-2018
ViệtVănMới 25.6.2020 Troyes-France.



VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG







BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

♣♣♣

NHÓM HÀN THUYÊN

TIẾT 1


CÁC NHÀ VĂN TRONG NHÓM HÀN THUYÊN

Giữa ngày Nhật đặt chân lên mảnh đất Đông Dương, Nhật chia quyền lợi với Pháp. Một số trí thức đệ tứ đứng ra thành lập Hàn Thuyên, với tạp chí Văn Mới cơ quan diễn đạt tư tưởng và nhà Hàn Thuyên in những tác phẩm của anh em trong nhóm. Chủ biên là Nguyễn Đức Quỳnh, một giáo sư nặng phần lý luận, sau ông có cho xuất bản mấy cuốn tiểu thuyết chính trị. Ông điều khiển tâm nhà xuất bản Hàn Thuyên cùng với nhà văn Trương-Tửu. Những nhà văn cộng tác với Hàn Thuyên đều là người cùng chí hướng như Lê Văn Siêu, Chu Thiên, Phạm Ngọc Khuê, Đặng Thái Mai, Nghiêm Tử, Nguyễn Hải Âu, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Tuân, Vi Huyền Đắc, Đồ Phồn, Nguyễn Đổng Chi, Hồ Hữu Tường, Nguyễn Trần Huân… Khác hẳn với Tự Lực văn đoàn, nhóm này mở đầu bằng một loạt biên khảo chính trị; như Nguyễn Đức Quỳnh với Lịch sử Thế giới, Gốc tích loài người, hoặc Nguyễn Bách Khoa với Nhân loại tiến hóa sử; phê bình Văn chương Truyện Kiều; loại kinh tế học như Nguyễn Hải Âu Kinh tế học nhập môn; loại cải tiến xã hội như Lương Đức Thiệp với Xã hội Việt Nam. Nguyễn Tế Mỹ đặt vấn đề nhận thức mới về sự kiện lịch sử Hai Bà Trưng, Phạm Ngọc Khuê tổ chức con người mới Óc Khoa học, dịch thuật và biên khảo như Đặng Thái Mai(14) Ả Q; phương pháp cải tạo thanh niên với lề lối làm việc như Lê Văn Siêu và Thanh niên và Thực nghiệp; Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Tuân, Trương Tửu viết tiểu thuyết theo quan niệm văn nghệ mới: tân nhân bản. Đồ Phồn làm thơ châm biếm, Vi Huyền Đắc viết kịch và họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung trình bày bìa. Một số nhà văn nhóm này muốn giáo dục tư tưởng giai cấp trí thức tiểu tư sản, đối tượng nhằm vào tác phẩm biên khảo nặng tri thức. Nhóm ấy đi sâu vào mọi mặt, lịch sử chính trị, học thuyết kinh tế, phương pháp thực tập con người thời đại mới, giải thích lịch sử theo quan niệm Mác xít. Độc giả nhóm này có trình độ tri thức, không phải độc giả ham mê truyện Tự Lực văn đoàn. Không những độc giả chọn lọc trên phương diện tác phẩm biên khảo; mà đến cả tiểu thuyết của nhóm cũng cần là độc giả chọn lọc. Nguyễn Tuân với loại tâm bút, phải là thế hệ người trải đời, hiểu mình, chán chường nhân tình thế thái, thích ngắm trăng ngắm mây, uống trà tàu, ngâm thơ thời thế; hoặc độc giả có trí óc nhìn xa trông rộng, thì loại truyện này mới hợp với họ. Ngay đến Chu Thiên với phóng sự tiểu thuyết Bút nghiên, tả thời dĩ vãng trường ốc cũ, ông Cử, ông Bảng; thì đâu có phải dành cho thanh niên thiếu nữ mới lớn lên thời bấy giờ. Nguyễn Đức Quỳnh với Thằng Cu So, Thằng Phương, Thằng Kình, tiểu thuyết giáo dục hướng thượng, tuy khô khan: phân tích đời một bé nhà quê lọt lòng cho đến khi học đến lớp nhì A, cần phải tranh đấu với bản thân mình và trường đời ra sao? Thật nhiều tác động chính trị. Thì đó không phải là độc giả của Nửa Chừng Xuân, Hồn Bướm Mơ Tiên. Không có ý so sánh giá trị đối nghịch hai nhóm, mà chỉ so sánh hai loại độc giả hai nhóm khác nhau ra sao? Truyện Chiếc lư đồng mắt cua của Nguyễn Tuân, tác giả chép lại thiên ký sự chặng đời sống phóng túng (libertinage) cũng như Vang bóng một thời… Đến Ngoại Ô, Ngõ hẻm, của Nguyễn Đình Lạp, truyện những người lao động ngoại thành với cuộc thống trị của Pháp ảnh hưởng đến thân phận sống của họ. Tóm lại độc giả của Hàn Thuyên, đối tượng là trí thức hay có tri thức sơ đẳng, mà nhóm này quan niệm có tri thức mới là nòng cốt chủ nghĩa chính trị Hàn Thuyên tung ra sau làm việc nước. Trước khi lướt qua phần sơ lược các tác giả Hàn Thuyên; tất nhiên không thể phê bình một lần cặn kẽ được, nên một số chỉ nói sơ lược.

1. PHẠM NGỌC KHUÊ (19?? – 19??)

Tác giả Một sức khỏe mới, Nghị lực, Óc Khoa học, Cải tạo Sinh lực (Hàn Thuyên xuất bản từ 1941 đến 1944). Ông có phận sự đả phá lề lối giữ sức khỏe cổ hủ của thế hệ dĩ vãng và đưa độc giả theo phương pháp khoa học mới, tạo cho người khỏe về thể xác lẫn tinh thần mới, có như thế mới đủ năng lực phục vụ cho bản thân và tổ quốc. Chúng ta thừa hiểu rằng mỗi nhà văn trong nhóm Hàn Thuyên đều thảo luận về lập trường khi hành động, dầu viết về một cuốn sách với đề tài áp đặt. Vì họ là người viết theo cương lĩnh chung.

2. NGUYỄN TẾ MỸ (19?? – 19??)

Tác giả Hai Bà Trưng (Hàn Thuyên 1944). Giải thích sự kiện lịch sử theo quan niệm mác xít, tất cả sự kiện quá vãng đều được nhào nặn máy móc theo cách nhìn mới. Trong cuốn ấy, ông giới thiệu cuốn ra sau là Lý Thường Kiệt, không biết tác phẩm ấy có xuất bản không? Chúng tôi không được đọc; nhưng lập luận viết hẳn không khác nhỡn quan nhận định về sự kiện lịch sử như cuốn Hai Bà Trưng.

3. NGUYỄN HẢI ÂU (19?? – 19??)

Tên thật là Trần Đình Minh, gốc Nam Bộ. Tác giả Kinh Tế học phổ thông, Học Thuyết Kinh tế tiểu dẫn (Hàn Thuyên)... Cũng như các đồng đội nói ở trên, Nguyễn Hải Âu viết về kinh tế theo con mắt đệ tứ. Viết những tác phẩm này, ông còn là một thanh niên hai mươi. Sau bị Pháp bắn chết ở SàiGòn khoảng sau 1945.

4. LƯƠNG ĐỨC THIỆP (19?? – 19??)

Tác giả những cuốn sách giá trị và công phu khảo cứu, như Xã hội Việt Nam (Hàn Thuyên), Văn Chương và Xã hội (Nhà xuất bản Đại Học)… Những tác phẩm này phân tích về cuộc sống dân Việt Nam ảnh hưởng đến xã hội ra sao, và muốn lập một xã hội mới phải căn cứ trên sự kiện nào. Là sách khảo cứu công phu, khoa học, hệ thống, dẫn giải rành mạch, viết với tinh thần hiểu biết am tường. Nhất là cuốn Việt Nam tiến hóa sử viết theo lập luận xã hội; nhưng là cuốn sách giúp ích cho ai muốn thấu triệt quán xuyến vấn đề mới của xã hội Việt Nam.

5. ĐẶNG THÁI MAI (1902 – 1984)

Như một cây viết triết nổi tiếng còn chuyên dịch sách Tàu và viết khảo luận văn học Chinh Phụ Ngâm. Tác phẩm xuất bản Văn Học và Khái luận (Hàn Thuyên). Ả. Q Chính Truyện dịch của Lỗ Tấn đăng trên báo Thanh Nghị; sau Thời Đại in thành sách. Ông còn dịch các vở kịch Lôi Vũ của Tào Ngu (báo Thanh Nghị 1944). Những tác phẩm của Đặng Thái Mai dịch hay như Ả Q Chính Truyện; nhờ đó chúng ta hiểu được sinh hoạt cách mạng dưới ngòi bút một văn hào Trung Quốc vào năm 1911. Tác phẩm khảo luận văn học Văn học Khái luận chứng tỏ người viết am tường vấn đề hiểu biết, thâu thái ý kiến xác đáng bàn về văn học, phương pháp viết khoa học. Văn dẫn giải hơi tối nghĩa, trình bày theo tinh thần bác học, người đọc mất nhiều thời gian suy ngẫm. Và phải có một trình độ học thức căn bản mới thâu thập được vấn đề văn hóa của ông đưa ra.



6. NGUYỄN ĐỔNG CHI (1913 – 19??)

Là một chuyên viên khảo về dân gian, nên tác phẩm biên khảo chịu ảnh hưởng từ nghề nghiệp. Tác phẩm đã xuất bản Việt Nam văn học cổ sử (Hàn Thuyên), Hát Dậm Nghệ Tĩnh (Tân Việt 1944). Tác phẩm này cho chúng ta hiểu về vốn cũ hát dậm tiền nhân dành lại, như Ngô Tất Tố viết Văn học Việt Nam, qua các thời Trần Lý. Ông là nhà biên khảo có công, uyên thâm Hán học, Tây học, một cộng tác viên có chỗ đứng giá trị riêng biệt trong nhóm Hàn Thuyên.

7. LÊ VĂN SIÊU (1914 – 1995)

Sinh năm 1914 ở Hà Nội. Tác phẩm đã xuất bản: Thanh Niên và Thực Nghiệp (Hàn Thuyên), Hợp Lý Hóa Taylor… Sau tiền chiến viết về văn học và văn minh Việt Nam. Tác phẩm xuất bản ở hậu chiến cứu vãn Lê Văn Siêu phần nào có chỗ đứng trong địa hạt văn học: Văn minh Việt Nam (NXB Phạm Văn Tươi, 1955), Nguồn sống Văn học Việt Nam (NXB Thế Giới, 1956), Văn học thời Bắc Thuộc (NXB Thế Giới), Nếp sống tình cảm của con người Việt Nam ( Hướng Dương, 1956), Văn học Thời Lý (Hướng Dương 1957). Văn Minh Việt Nam là cuốn sách giá trị, tuy nhiên vẫn chưa thoát được duy tâm ảo tưởng khi viết. Mặc dầu ông đã phơi bày lý lẽ, có hình tượng văn minh không thể diễn đạt được vì thuộc loại trừu tượng. Nếp sống tình cảm của người Việt Nam, vì quá đi tìm những cái còn lại về nếp sống cũ người Việt Nam, nên nhiều đoạn viết về phong tục hôn nhân, tang chế, có phần nô lệ Tàu. So sánh quyển này với Văn hóa sử cương của Đào Duy Anh, một học giả đi trước; thì ông chưa vượt được. Những sách viết về Văn học thời Lý chịu ảnh hưởng nhiều tài liệu khác nhau, chưa chế biến. Như mượn của Ngô Tất Tố, Việt Nam văn học, thời Trần và Lý I và II (Mai Lĩnh xuất bản 1943). Tài liệu gốc vẫn là của Thượng tọa Mật Thể. Tuy nhiên cuốn sách trên cũng hữu ích, trong khi chúng ta đang cần sử liệu để khảo về vốn văn cổ. Giá trị Lê Văn Siêu chưa thể là Michelet với Histoire de France; hoặc Buffon với Histoire naturelle, nhưng tạm là nhà văn học có giá trị tương đối, cố gắng học hỏi, sưu tầm, so trước tiến khá xa khi nhập Hàn Thuyên. Sách dịch thô thiển, cổ hủ như Thanh niên và Thực nghiệp hoặc Hợp lý hóa Taylor đến Văn minh Việt Nam, Văn học Thời Lý chứng tỏ sự cố gắng của ông.

8. VI HUYỀN ĐẮC (1899 – 1976)

Sinh năm 1899 ở Hải Ninh, Bắc Phần. Vào làng văn từ năm 1929. Ông còn một biệt hiệu nữa Giới Chi; nhưng ít ai biết đến. Một Vi Huyền Đắc, một Đoàn Phú Tứ là những kịch sĩ nổi tiếng. Tác phẩm đã xuất bản như Hoàng Mộng Điệp diễn ở Nhà Hát Lớn Hà Nội vào năm 1928, sau Thái Dương văn khố xuất bản. Hai tối tân hôn (Thái Dương văn khố Hải phòng xuất bản 1929), Cô đầu Yến (1930); Cô Đốc Minh (1931), Martine (dịch kịch Bernard), Kinh Kha đăng trên Phong Hóa (1935) và một vở kịch viết bằng tiếng Pháp Éternels regrets (1938), Kim Tiền (Ngày Nay) diễn ở Hải Phòng 19-02-1938, Ký Cóp diễn ở Hà Nội 15-10-1948… Sau tiền chiến, ông cho xuất bản vở kịch Thành Cát Tư Hãn (Người Việt Tự do 1956). So vở kịch tiền chiến cho đến nay, Thành Cát Tư Hãn có phần tiến bộ về kỹ thuật. So với sự nghiệp kịch của ông, Thành Cát Tư Hãn không vượt được tác phẩm trước và nếu so sánh chung với tình hình kịch. Kịch tác gia bị chìm trước vở kịch kháng chiến Tiếng Trống Hà Hồi Hoàng Như Mai.

9. ĐỒ PHỒN (1911 – 1990)

Tên thật Bùi Huy Phồn. Tác phẩm hoạt kê châm biếm Một chuỗi cười (Hàn Thuyên). Ông viết truyện trinh thám ký tắt là B.H.P, như Gan dạ đàn bà, Tờ di chúc, Mối thù truyền kiếp… Truyện trinh thám của ông không có gì đặc sắc so với Phạm Cao Củng hay Thế Lữ. Thơ trào phúng Đồ Phồn châm biếm sâu sắc, khí phách ngang tàng. Chúng tôi cho trích bài Giang Hồ Khái, làm bằng chứng về tài châm biếm của một Tú Mỡ Hàn Thuyên:

Trích thơ:

GIANG HỒ KHÁI

Sinh người hà tất lại sinh ông

Thầy chẳng nên thầy thợ cũng không

Hai bữa nếm toàn cơm nội trợ

Góc đời bàn mảnh chuyện Tây Đông

Theo voi đã chán nhai đầu mía

Há miệng dương nằm đợi gốc sung

Chợt vẳng xa nghe thằng bị gậy

Rủ đi ăn vạ với non sông

ĐỒ PHỒN

10. CHU THIÊN (1913 – 1992)

Tên thật Hoàng Minh Giám. Tác phẩm đã xuất bản Lê Thái Tổ, Bà Quận Mỹ (1942)... thuộc loại tiểu thuyết dã sử. Duy tập phóng sự thuyết về thi cử Bút nghiên giá trị hơn cả giữ lại cho ông chỗ đứng trong văn học (Hàn Thuyên xuất bản 1942). Ngô Tất Tố với giọng văn hoài cổ trong Lều chõng, Nguyễn Tuân với Vang bóng một thời đến Chu Thiên với Bút nghiên. Ở Bút nghiên, Chu Thiên không tả nhân vật tài năng như Lều chõng, song phác họa cho nhìn thấy cảnh đi thi mà trong Lều chõng không nói đến. Nhận định về truyện trên, Vũ Ngọc Phan viết: “...Chu Thiên chuyên về mặt khảo cứu nhiều quá, nên trong tập “Bút nghiên” truyện gần như là phụ, hình như tác giả chỉ cần đến việc chỉ cốt là diễn tả cho hết những gì học hỏi lối thi cử của ta thuở xưa cho có thứ, lớp, chứ không phải tác giả muốn dùng việc để viết thành nhưng đoạn có tình tiết, cơ mưu làm cho động tác luôn luôn thay đổi, gây được nhiều cảm hứng cho người đọc. “Bút Nghiên” là một tập tiểu thuyết phóng sự rất phẳng lặng, xét riêng về truyện thì gần như không có gì. Nó chỉ là một truyện có hậu. Một cậu học trò chăm học, thông minh nên đã lấy được vợ đẹp và đỗ sớm...” Ý kiến của Vũ Ngọc Phan đầy đủ giá trị để tóm lược về văn nghiệp Chu Thiên.

TIẾT 2


NGUYỄN ĐÌNH LẠP

(1913-1952)

Tiểu sử.

Nguyễn Đình Lạp quê quán Bạch Mai Hà Nội nhà văn nhóm Hàn Thuyên. Ông chuyên viết về cuộc sống người dân thấp cổ bé miệng, sống luẩn quất ngoại thành Hà Nội. Chịu ảnh hưởng của những đòn chính trị tai ác chà đạp nhân bản dân bị thống trị, nay được ông phơi bày có tình tiết, nghệ thuật diễn tả cao trong tác phẩm của ông.

Tác phẩm.

Tác giả hai cuốn tiểu thuyết Ngoại Ô (Hàn Thuyên 1941), Ngõ hẻm, (Hàn Thuyên 1942). Phần sau, chúng tôi phân tích tỉ mỉ Ngoại Ô, tác phẩm chính của Nguyễn Đình Lạp.

Phân tích tác phẩm chính.

Nguyễn Đình Lạp có khuynh hướng xã hội với con mắt nhìn xã hội chủ nghĩa. Trong khi các nhà văn đồng thời dùng bối cảnh lãng mạn tâm tình dựng tác phẩm mình thì ông theo hướng khác. Trong số nhà văn xã hội, kể đến, như Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng, tất phải kể đến Nguyễn Đình Lạp. Ngõ Hẻm thuộc vào loại tiểu bối cảnh là ngoại ô nhưng so với Ngoại Ô thì không nhiều hình tượng sống đáng nói bằng Ngoại Ô. Chúng ta bắt đầu phân tích Nguyễn Đình Lạp ở Ngoại Ô. Nhân vật chính cốt truyện là vợ chồng bác Vuông. Bác Vuông trai giờ đây lên tiếng giải bày với người đọc về một pha quan viên với cô đầu phố Vạn Thái, ngoại ô Hà Nội:

“...Quả nhiên vừa bước chân vào khỏi ngõ, bác đã nghe thấy có người gọi. Bác theo chân thằng nhỏ, bước vào nhà một cô đầu. Quan viên nhà này đông quá. Trên cái ghế ngựa kê sát ngay cửa ra vào, một người đàn ông nằm cuộn trong chăn bông đầu trở ra ngoài, gối lên đầu. Trông hắn ngồi ta phải nhớ ngay đến con sâu kèn đang thò đầu ra ngọ nguậy. Cuối phòng, bốn năm người trai trẻ khác nằm úp thìa đầu gối lên bụng nhau xung quanh một cái khay thuốc phiện. Giữa phòng, là một sa lông kiểu mới. Hai người đàn ông nằm uốn trên ghế, chân ghếch lên mặt bàn, miệng hát líu lo. Liền ngay đấy, một người thanh niên nữa ôm chặt lấy một cô đầu mà nhảy đầm...”

Hình ảnh số đông thanh niên tăm tối thời đã chết trong nô lệ, ông đã cho chúng ta nhìn thấy thật rõ. Thái độ của một người văn nghệ, có giọng văn hơi căm thù, tác động được người đọc cảnh như thế. Cảnh cô đầu vơi cuộc sống chết trong tay những mụ Tào, tất cả sự thực bỉ ổi, trắng trợn, đểu giả, sống bằng cách nằm ngửa; còn bị bóc lột thặng dư giá trị, qua thủ đoạn lọc lừa du côn, giá trị người sống không hơn con vật. Đó là trong xã hội thực dân thống trị, cho tự do lập khu tự do trụy lạc để quên chống lại chúng. Nguyễn Đình Lạp tả rất linh động:

“...Mụ Tào làm nghề buôn lòng bò và tiết trâu. Nhưng thực ra mụ không sống bằng cái nghề này. Vì ngoài cái nghề làm nặc nô để đi đánh ghen hoặc đòi nợ mướn cho người.

Kể ra những đứa lớn đầu, lóp lép ba mươi tuổi rồi nghĩa là bằng tuổi mụ hoặc chỉ kém một vài tuổi thôi. Chỉ một sự phục tòng ấy cũng đủ chứng tỏ rằng mụ là người có oai đến thế nào?

Nhất là khi mụ đã nốc độ một vài cút rượu, mặt đỏ ngay như quả gấc chín rồi thì lời nói của mụ cũng đắc lực lắm. Lúc ấy mà một đứa đàn em nào dám cưỡng lời mụ hoặc chỉ chậm chạp chưa thi hành ngay cái lệnh của mụ truyền, thì tức khắc mụ túm lấy tóc, dìm đầu xuống đất, rồi cứ tay mụ phang như mưa rào...” Đây là lời Huệ, một cô đầu quen bác Vuông kể lại thành tích mụ Tào đã hành hạ nàng. Cảnh đau ốm vì đòn nhừ tử của mụ bắt đầu hành hạ nàng. Nàng ốm đau, xanh sao, vàng vọt thì lang quân lại lãng quên và tiền nong cũng không. Đi vay tiền là nhục, chẳng lẽ gặp chủ cho vay lại hỏi ngay, phải vào lời bằng câu chuyện con cà, con kê đã như ý để kéo dài thời gian làm đẹp lòng người mình muốn vay tiền; đồng thời có đủ thời giờ khiến như có can đảm cất tiếng hỏi vay tiền. Nguyễn Đình Lạp từng trải cảnh ấy, phơi bày cho chúng ta thấy tâm lý hình tượng sống nhân tình thế thái:

“...Nhưng nếu cứ ốm thế này thì có nghĩ sao được sự phục thù nữa? Tôi cầu trời, khấn Phật cho chóng khỏi. À bác này làm ơn…

Nàng lại im lặng. Và khi bác hàng giò...

Sao thế cô? Có sự gì cô cứ nói.

(.............................................................)

Bác ạ tôi cần phải uống thuốc thì mới mong qua khỏi được. Vậy bác làm ơn cho tôi giật tạm một đồng để lấy thuốc. Tôi đã phải hỏi đến bác là vấn đề bất đắc dĩ.

Huệ vừa nói dứt thì cái ý định phải trang trải tiền nhà, tiền thịt, tiền thuế chợ cũng vụt qua óc bác hàng giò như một luồng chớp nhoáng. Rồi hình ảnh bà cả Nẫn, bà chủ nhà, người xoát vé chợ, hàng gạo, hàng củi lũ lượt hiện ra, bác Vuông rùng mình lo lắng. Nhưng đồng thời bác nhận thấy khuôn mặt Huệ cáng sám ngắt, tiếng ho này càng gấp càng khô khan. Và trên gò má dỗ cao của nàng hai hàng nước mắt tuôn rơi lả chả. Không do dự lấy mười hào trao cho cô Huệ...”

Lòng giúp đỡ giữa kẻ nghèo không tính toán, so kè, hoặc trục lợi; trái lại, kẻ giàu giúp đỡ kẻ nghèo vì lòng thương, vì không tiêu hết tiền, muốn mua hư danh xả kỷ; mà nếu có ít nhất cũng thấy thả con săn bắt cá rô. Nguyễn Đình Lạp phơi bày cho người đọc nhận thấy thế nào là nghĩa sống các giai tầng xã hội thời ấy. Có thể coi Nguyễn Đình Lạp như một Khái Hưng của Hàn Thuyên của giai cấp nghèo nàn.

Tác giả Đẹp lao động là Nguyễn Đình Lạp, còn Đẹp tiểu tư sản trí thức Khái Hưng đã chiếm chỗ. Nam là bạn Biên rồi lấy con gái Biên, dùng tiếng Pháp xưng hô chuyện trò với bố vợ không thẹn mấy, vì xưa họ là bạn. Thì bây giờ tác giả Đẹp lao động quan niệm về Nhớn, bạn bác Vuông khuyên có nên lấy Khuyên con gái của bạn không?

“...Nhớn nghĩ đến, vả lại mình là bạn bố con khuyên. Ai lại lấy con gái bạn bao giờ? Đang là bạn với nhau bỗng dưng tự hạ mình xuống làm con thì coi sao được?

Tuy nói thế, nhưng Nhớn vẫn tiếc rẻ. Đấy là tâm trạng của Nhớn. Nhưng mà lão Mỗ thân với lão Vuông lắm nhé. Thế nào mà lão Vuông chả nể lời bạn mà bằng lòng. Nghe bà Sửu nói thế, bác Nhớn tự nhiên kém hẳn vui. Dù Nhớn không có ý định lấy cái Khuyên và cũng hôm nay là lần đầu tiên Nhớn để ý tới cái Khuyên. Nhưng hắn cũng băn khoăn nhủ thầm: “Quái cái Khuyên xinh xẻo thế kia mà lấy cái thằng Pháo thật là vô lý quá. Thằng oắt con thế kia mà tốt số...”

Nguyễn Đình Lạp rất tâm lý, tả mối tình sơ khởi đến khi Nhớn bỏ Tình yêu Khuyên và trốn theo Khuyên sau này thật tha thiết, cảm động. Phải thừa nhận rằng ông nghiên cứu nhân vật rất kỹ, đi vào tận cỗi rễ đời sống lao động. Ông tả em của Khuyên, cái Còi thích cho chị lấy Pháo, chỉ vì trông thấy mối lợi nho nhỏ trước mắt; mà quên rằng bố mẹ mình đặt chị mình ngồi đâu thì được ngồi đấy, dầu đó lạc hậu đi nữa! Nếp sống phác họa rất đơn giản, của phần diễn tả tâm lý rất trẻ con cũng được Nguyễn Đình Lạp đưa vào văn chương vô cùng đặc sắc:

“...Trong gia đình bác Vuông có lẽ cái Còi muốn cho chị nó lấy thằng Pháo hơn cả. Thỉnh thoảng mua phở, nó vẫn được thằng Pháo chọn cho chỗ thịt ngon và bán rất rẻ. Nếu bây giờ chị nó lấy thằng Pháo thì ngày ngày nó tha hồ ăn phở, khỏi phải lo không có tiền…”

Lại đến vai Tham Nhân, đại diện thư lại tham biện thời thực dân. Tham Nhân là tình nhân của Huệ. Khi Huệ đẹp hắn say mê, đến khi Huệ ốm thì hắn lảng trốn. Sau khi Huệ bị đánh lần thứ hai nhờ có bác Vuông mà Huệ thoát nạn, thì Tham Nhân lại đến tìm Huệ giữa lúc Huệ tiếp chuyện bác Vuông. Đây là đoạn tác giả cho chúng ta thấy cảnh thưởng tiền của một giai cấp quan lại thí cho bác Vuông, giai tầng bị khinh bỉ, xác nhận sự phân biệt rõ tác phong của giàu và nghèo, sang và hèn, thống trị và bị thống trị:

"...Tham Nhân rút cái ví da ở túi áo lấy ra một tập giấy năm đồng đếm đi đếm lại. Chợt Tham Nhân nhìn lên bắt gặp cặp mắt nẩy lửa của bà khiến bà ngượng nghịu cúi xuống tảng lờ nói:

- Kìa Huệ. Quan Tham sai đi mua gì kìa!

Huệ đang ân cần mời bác Vuông thuốc lá, nghe tiếng chủ, quay lại hỏi:

- Gì kia ạ?

Được dịp để khoe mình rộng rãi kể cả, Tham Nhân lạnh lùng nói:

- Không mua gì cả. Huệ cằm lấy hai giấy năm đồng thưởng cho bác hàng giò...

Câu nói ấy khiến cho bác Vuông đỏ ửng mặt. Bác đã toan cự lại một câu tàn tệ nhưng chẳng hiểu như thế nào bác ngồi yên lặng đánh rơi điếu thuốc lá xuống chiếu. Bà chủ đon đã tiến lại:

- Kìa quan Tham đã cho.

Bà đỡ hai tờ giấy trong tay Nhân rồi quay về phía bác Vuông:

- Đây bác cầm lấy, Quan Tham ngài rộng quá. Bác cám ơn quan Tham đi.

Không nói một lời, bác Vuông lạnh lùng đứng dậy, hai mắt nhìn thẳng vào mặt Nhân cầm lấy hai tờ năm đồng vò nhầu vào hai bàn tay. Và giữa lúc bác định giơ tay ném trả lại thì một ý nghĩ thoáng qua trong đầu. Cái ý nghĩ sắp phải làm một bữa cổ sang trọng nhân dịp đón vợ lẽ về nhà. Mà hiện giờ bác hãy còn thiếu tiền. Bác mỉm cười hạ tay xuống, nhét vội tiền vào túi áo, giọng chua chát:

- Chào Ngài, chào cả nhà.

Rồi bác đi ra cửa…”

Có một điều làm mất ý nghĩa, tuy ở đây biểu hiện đúng - mà ông bắt nhân vật phải dẹp lòng tự ái, vì thiếu tiền sửa soạn bữa cỗ cưới vợ lẽ thật linh đình, khiến người đọc bị giảm mất sự thù hằn của kiếp nghèo mà bán tư tưởng cao thượng - nhân sinh vị nghệ thuật - để thỏa hiệp vị lợi nhỏ nhen không đáng. Ta sẽ thấy trong Thằng Kình của Nguyễn Đức Quỳnh được học bổng mà họ xoi mói, khiến nó khinh bạc cái nghèo hèn, nó định từ chối; khi nghĩ đến đại hạn mất mùa đành quên đau khổ, sỉ nhục mà nhận phần thưởng. Cũng là hai lẽ chịu đựng, nhưng ở tác giả Thằng Kình có lý lớn hơn, nghệ thuật cao hơn ở chỗ đó. Vì lẽ Thằng Kình của Nguyễn Đức Quỳnh nghĩ đến gia đình (chung) hơn là bác Vuông của Nguyễn Đình Lạp thừa tiền dùng vào việc cưới vợ lẽ linh đình (riêng tư); như thế hà tất phải chịu đựng Tham Nhân với một thái độ không cần nhịn nhục, lại được dịp tỏ lộ lòng công phẫn đúng chỗ.

Tác giả Ngoại Ô cho chúng ta nghĩ về Pháo, anh chồng mà cha mẹ Khuyên chót hứa nhận gả nàng. Ông viết rất đặc sắc:

“… Sao Pháo lại không như bác Sẹo… hay bác Nhớn. Ừ, sao chồng mình không như bác Nhớn vừa lạnh lẹ, vừa cao lớn vừa khỏe mạnh. Khuôn mặt lúc nào cũng hồng tươi. Đôi mắt lúc nào cũng long lanh sáng. Ừ sao chồng mình lại không như bác Nhớn. Có phải không ai chê vào đâu không?...”

Con gái chúa hay so sánh, trông núi này thấp hơn núi nọ, nhất là tâm trạng cô gái quê ở ngoại ô Hà Nội (Bạch Mai) thì luân lý cổ truyền co dãn, không ăn sâu vào trí não cô gái nhiều; nên sự đặt con gái ngồi ở đâu theo ý của bố mẹ không chắc đã hiệu nghiệm?

Bây giờ Nguyễn Đình Lạp cho người đọc thấy điểm vô lý chính tác giả thiếu nhận xét tinh vi, khi viết về nhân vật Ả Quay, chồng trước vợ lẽ bác Vuông:

“…Ban ngày nó giả làm ông lang đi chữa bệnh bằng khoa thuốc châm cứu. Nhưng ban đêm, hắn chuyên đi thả mồi trộm bằng cách trộn xa tiền, nhân ngôn, thính và thịt để đánh bả chó. Vô phúc con chó nào ăn phải thì chỉ có việc uống nước no bụng trương to lên to bằng bụng con bò rồi lăn đùng ra chết. Thế là hắn đàng hoàng ném con chó vào cái thùng, đậy vỉ buồm kín mít, rồi đợi đi bán cho hàng thịt chó quen...”

Bởi vì ăn cắp cho như Ả Quay, chú Ba Tàu của ông quá dễ dàng đến vô lý. Đến nỗi chẳng bao giờ có nghệ thuật ăn cắp lấy được một con chó. Con chó ăn bả không chết ngay, mà thời gian đủ để trương bụng, lại sẽ chết ở một chỗ khác; một chỗ có lẽ Ả Quay cứ theo đuổi một con chó giãy chết chạy lung tung và đợi cho đến bao giờ?

Nhưng dưới đây, tác giả lại cho chúng ta thưởng thức một pha rất thực tiễn, linh động vô cùng. Thực dân ra lệnh không cho xe kéo ngoại thành vào nội thành, cũng như hàng giò chả ngoại ô, cấm không được đem vào nội thành Hà Nội bán. Vì thế bác Vuông trai không theo trọn được nghề, đành để vợ làm nghề bán thịt lậu. Cùng chứng kiến một đoạn não lòng tác giả thuật lại rất khéo, điển hình cho hàng trăm, nghìn, hàng vạn, triệu vụ bắt bớ dã man tương tự:

“…Hai người đàn ông vội vã quay lại phía người đàn bà ngồi núp ở góc tường khóc thút thít. Một bàn tay nắm chặt lấy cánh tay người đàn bà kéo mạnh cho người ấy dứng dậy:

- Cởi áo ra để quan khám.

Người đàn bà giơ bàn tay lóng cóng hắt mớ tóc ra sau lưng. Một khuôn mặt tái nhợt hiện ra. Đôi mắt ướt nhòe những lệ lơ láo nhìn một cách sợ sệt lo ngại van xin:

- Kìa mày không cởi hả?

Cái gân bò nằm trong tay người đàn ông giơ cao lên, nhắm thẳng đỉnh đầu người đàn bà:

- Vút.

- Úi giời ôi! Con xin cởi. Con xin cởi.

Hai bàn tay run lật bật vội vã vân vê mấy cái khuy đồng. Cái áo nâu dài rơi xuống đất, cái áo cánh trắng cũng rơi theo. Rồi cái yếm xô xuống cái quần thâm. Mấy giọt nước mắt lăn từ gò má xuống ngực hòa vào những giọt mồ hôi, quằn quại chảy từ ngực ra đầu vú rồi từ đầu vú rơi thẳng xuống bụng.

- Cởi nốt quần ra.

Mấy ngón tay cóng lại vội vã tìm đầu giải để rút.

- Phịch.

Người đàn bà khóc nấc lên một tiếng. Hai bàn tay vội vã xoắn lấy cạp quần. Nhưng bàn tay to lớn của một người đàn ông đã thò vào nắm lấy giằng ra. Cái quần tụt xuống đất. Cái bụng chửa phơi ra.

Không phải cái bụng chửa đâu? Đó là những miếng thịt lợn to tướng buộc chằng chịt lấy nhau che lấy cái bụng ngoài. Người đàn ông bận âu phục chống hai tay xuống thành ghế bành, đứng vùng dậy. Hắn với lấy cái gậy ở góc tường. Hắn cười tít mắt, giơ thẳng gậy thong thả tiến đến.

Người đàn bà khiếp sợ. Hai bàn tay xòe ra, giơ thẳng về phía trước mắt. Hai mắt tròn xoe, trừng trợn. Cái đầu gậy đã đâm thẳng vào bụng người khốn nạn. Một miếng thịt rơi xuống đất. Rồi dăm bảy miếng khác rơi lả tả xuống theo. Người đàn bà lùi lại một bước nhưng đập vào tường miệng thét lên một tiếng rồi cả người lẫn thịt ngã vật xuống đất…”

Tác giả thắt nút, cởi nút rất thoát và chỉ ít dòng chữ như thế đủ cho người đọc đầy đủ cảm giác về sự chà đạp nhân bản giữa đồng chủng làm tay sai đối với đồng chủng. Từ chỗ cấm thịt ở ngoại ô không được bán ở nội thành đến cảnh buôn bán lẩn lút bị khám phá. Nhưng Nguyễn Đình Lạp thiếu một chút nghệ thuật ở đoạn trên, là tác giả nhảy vào giải thích, mà thiết tưởng không cần cho sự không thể hiểu của độc giả. Ở chỗ: không phải cái bụng chửa đâu?

Bác Vuông giúp đỡ Huệ, Huệ giúp đỡ lại bác Vuông. Sự tương trợ người lao động thành phố với nhau một đằng bác Vuông, mồ hôi lao động, một đằng kỹ nữ, lao động vật chất, khai thác bản thân. Đây là đoạn Tham Nhân có cử chỉ lịch thiệp (cho bác Vuông hai tờ giấy năm đồng) nhưng biết đâu rằng chúng hối lộ được hàng trăm trước đó. Tác giả diễn tả rất đầy đủ cho thấy mánh khóe tiểu xảo bọn thư lại đại bịp tư sản mại bản, lưu manh đến chừng nào! Nếu có đãi lại một hai đồng, giả vờ bỏ quên trong túi áo, túi quần, cho bồi bếp vú em (cho gián tiếp) thì mình vội vã cho rằng Tây và các quan ta tốt. Nhưng đâu có biết rằng chúng thu thuế, chúng bóc lột bằng kinh tế độc quyền, xuất nhập cảng độc quyền, chúng hạn chế sự phát triển kỹ nghệ của mình…Bây giờ chúng ta nghe Nguyễn Đình Lạp thông ngôn cho người đọc thấy mặt trái bọn tư sản mại bản lưu manh mà Huệ là nhân chứng:

"...Chẳng qua chúng thấy bác tin nên chúng nó xoay,(sau khi bác Vuông gái bị thắt buôn thịt lậu, đồng đảng Tham Nhân dọa bỏ tù nên hối lộ một trăm đồng) nói quấy quá để lấy tiền đó thôi. Chớ chúng nó cũng chẳng thế lực gì mà chạy chọt được cả. Chính Tham Nhân đã nói với Phán Hạnh. Mày nên đánh mạnh vào. Bọn ấy xem chúng có thể bóp được đấy. Tội gì, tha hồ mà hát mày ạ...”

Chúng hành lạc trên mồ hôi, máu mắt lao động, ông rất tinh tế với giọng văn thúc đẩy căm thù kết thúc tha hồ đi hát mày ạ. Phường thư lại sống chết mặc bay làm cho đồng chủng phẫn nộ đó là thành công của văn chương gián tiếp thúc đẩy cách mạng của Nguyễn Đình Lạp.

Bác Vuông gái cả sau chết về bệnh dịch. Tục quê hương không muốn rằng chiếc xe nhà binh màu xanh chất xác rồi đổ vôi lên; nên khi bác Vuông trai thuê xe chở người ốm về quê, chẳng may có mệnh hệ nào còn được chôn cất ở quê nhà. Giữa đường bác Vuông gái tắt thở, chúng ta thưởng thức mẩu chuyện kiếm cớ xoay tiền, thủ đoạn của bọn chánh, phó lý khai thác xác chết để có tiền chè rượu:

“…Một tên tuần đã bấm ông Phó ra một chỗ rồi nói nhỏ:

- Bẩm Thầy, có lẽ con mụ này chết vì dịch thầy ạ. Con thấy áo quần thằng chồng bê bết những phân. Viên Phó lý nhìn bác Vuông từ đầu đến chân. Đoạn hắn gật đầu mỉm cười tỏ ý công nhận. Hắn bước về chỗ cũ nói theo viên lý trưởng.

- Phải đấy ông Lý ạ, việc này thế nào cũng phải làm biên bản. Tôi ngờ đàn bà này có lẽ chết về bệnh thời khí.

Bác Vuông tái xanh mặt khẩn khoản nói:

- Lạy hai ông, hai ông thương cho phần nào, nhà cháu được nhờ phần ấy. Việc này mà hai ông làm biên bản trình quan thì thật rầy ra cho nhà cháu lắm. Lạy hai ông.

- Lạy với lục gì. Cái nhà anh này lôi thôi quá. Tôi nói cho anh biết anh mang người chết dịch về đây để định làm khổ cả làng hả. Bệnh đang hoành hành khắp mọi nơi không đủ ư? Mà anh lại còn mang người chết về để truyền nhiễm nữa.

Rồi ông Lý quay về phía tuần tráng quát to:

- Tuần đâu. Chúng bay phải cắt nhau đứng canh cái nhà này nghe không? Thôi ông Phó lý về với tôi đi, ta còn đi trình quan Huyện.

Dứt lời, hai ông Chánh phó lý đùng đùng đi ra, miệng hãy còn hậm hực:

- Đi bán sống bán chết một năm không sao, động về đến nhà là y làm bận đến người ta.

Bác Vuông giọt lệ ngắn dài, lẽo đẽo chạy theo sau năn nỉ:

- Thôi lạy hai ông tha nhà cháu làm phúc.

Hai ông Chánh phó lý thản nhiên đi, bàn chuyện ngày rằm tới này thì ông Tiên chỉ sẽ khao tám mươi. Ngày ấy tha hồ mà chén, mà sóc đĩa, cô đầu. Thật vui như tết…”

Người đọc dừng lại ở đây để thấy hai cảnh tượng: một xác chết trương có đàn ruồi nhặng, nhặng xanh chúa tể đang dạo nhạc bâu trên xác chết, hút những máu còn rỉ ở thân xác. Cảnh Chánh phó lý như bọn nhặng xanh gây khó dễ, nào là bệnh dịch đang hoành hành đem xác chết về, thì bệnh truyền nhiễm sẽ lan rộng làm khổ dân làng. Không phải là thương dân, yêu nòi giống, mà là thủ đoạn làm tiền của chúng đã bị Nguyễn Đình Lạp lột trần, từ thái độ tế nhị nho nhỏ: "Chúng đã kháo với nhau nào là ngày ông Tiên chỉ khao tám mươi, tha hồ sóc đĩa, cô đầu"; thì bác Vuông cần phải đút chúng tiền bạc, chúng mới cho phép chôn xác chết. Đây:

“...Bọn hương chức bằng lòng cho phép chôn, thôi không làm bản trình quan sở tại, bằng cái giá ba mươi đồng. Vì phải chờ đợi lâu thế, nên đến khi nhập quan thi thể bác Vuông gái đã trương to, da chân, da tay, da mặt đã nứt nở và tuột ra từng chỗ…”

Đó là tác giả trả lời chúng ta, đọc Ngoại Ô của Nguyễn Đình Lạp, người đọc sáng suốt nhận định ra rằng cốt truyện bố cục chặt chẽ. Sau khi Nhớn và Khuyên yêu nhau bỏ đi Hòn Gay, bác Vuông trai buồn về cảnh gia đình, vợ chết rồi bác Thịnh (một tay hảo hán đã từng đánh nhau thuê với Tào, bởi vì bác Vuông nhờ can thiệp hộ Huệ và cuối cùng đi tù, tội ăn cắp hai nghìn đồng). Bác Vuông hóa điên dại rồi phải điều trị ở nhà thương vôi một thời gian. Bố cục Ngoại Ô chỉ có đoạn lỏng lẻo nhỏ; đó là bác Thịnh, mà tác giả muốn tạo cho một cá tính anh hùng. Song không phải cứ thằng ăn cắp sẽ không thể trở thành anh hùng, lẽ tác giả không muốn biết đặt cho nó một vai anh hùng có cá tính:

“...Là thằng ăn trộm chứ gì? Nhưng cô ạ, bác ta là một thằng ăn trộm phi thường. Một thằng ăn trộm chuyên đi ăn trộm để lấy tiền cứu mạng người nghèo khó. Khắp xóm Văn Chỉ không một ai là không chịu ơn của bác ta. Kẻ thì được bác ta giúp tiền, kẻ thì được bác ta giúp quần áo, gạo củi…”

Tác giả tả cuộc giao tranh giữa mẹ Tào hành hung Huệ, Thịnh và bác Vuông hiệp lại đánh trả bọn kia.

Trong lúc đánh nhau, Nhớn và bác Vuông bị vỡ đầu mới nhận ra nhau. Hai người cùng ngưng tay, tay hảo hán dám bênh vực Huệ là Thịnh. Hai bên xử hòa. Ấy giản dị như thế, lại đánh nhau toán loạn như trong truyện Thủy Hử, mà không có lý do chính đáng, trở thành hề. Diễn tả cử chỉ anh hùng của Thịnh, ông viết: “...Bác Vuông và bác Nhơn đứng vào giữa bọn người nhốn nháo giang tay giới thiệu:

- Đây là bác Thịnh.

Nhớn trợn mắt nhanh nhảu hỏi:

- Có phải bác Thịnh ở Văn Chỉ?

- Phải.

- Trời ơi! Nghe đồn danh của đại huynh mà bây giờ mới gặp.

Hoặc mụ Tào khen phục:

- Bác Thịnh thì còn phải kể, chúng tôi tôn bố lên làm trùm...”

Mụ Tào, trùm nặc nô ở Bạch Mai mà tôn bác Thịnh lên làm trùm khác gì cá mè một lứa. Nhân vật anh hùng xả kỷ của Nguyễn Đình Lạp thất bại hoàn toàn trong Ngoại Ô. Phê bình Nguyễn Đình Lạp, Vũ Ngọc Phan viết: Đọc quyển “Ngoại Ô” của ông, người ta thấy ông không hề phẫn nộ giai cấp". Vũ Ngọc Phan nhận định sai lầm về điểm này, chúng tôi thấy không cần trở lại giải thích. Trong đoạn phê bình thái độ thưởng tiền của Tham Nhân, bác Vuông gái bị bắt, buôn thịt lậu cũng nhận định được sự phẫn nộ có hay không rồi? Bất tất phải tranh luận thêm. Bây giờ cùng thưởng thức một đoạn văn cảm động, cũng là kết thúc mối tình lao động thành phố so sánh với nông thôn, cha mẹ đặt con gái đâu ngồi đấy. Nguyễn Đình Lạp là nhà văn xã hội biết khai thác xã hội Ngoại Ô trong văn chương. Xã hội tính trong văn linh động, tình tiết hấp dẫn, linh hoạt, cách diễn đạt thoát, chứng tỏ ông là nhà văn có tài, xứng đáng nổi tiếng tiền chiến:

“...Đôi bạn đứng trước một cái mả mới, bên trên có một nắm cỏ trôn và những thỏi vàng bằng thỏi vàng bằng giấy. Lạ lùng Sẹo hỏi dồn:

- Mày định làm gì?

Không trả nhời, Nhớn đã tháo cái gói nhật trình cầm trong tay đó là cái cuốc. Hắn lại giằng lấy gói trong tay Sẹo. Hắn lật đật mở ra, một cái sẻng.

- Mày làm gì mà quái gở thế này?

Nhớn lạnh lùng nói:

- Mày có thương cái cảnh chúng tao bây giờ không? Có hở? Vậy thì xin mày cứ làm theo tao. Đừng hỏi han gì nữa. Đây cuốc mày cuốc đi.

Nhời nói của Nhớn như có một sức mạnh gì, Sẹo ngoan ngoãn theo. Thế là đôi bạn hì hục đào cái mả đất mới đắp nên đào rất dễ, chỉ đầy mười lăm phút cuốc của Sẹo chạm vào một vật dắn và rỗng, tiếng kêu bục bục. Nhớn khẽ reo:

- Tới ván thiên rồi.

- À đây rồi. Một và hai. Đủ cả, thàng cha thế mà nói đúng.

Tiếng Sẹo gọi giật bạn:

- Nhớn?

- Gì? - Mày làm tao ghê quá!

Nhớn bấm lấy đèn bin chiếu vào ngón tay đeo hai cái nhẫn vàng chạm “lưỡng long chầu nguyệt” lóng lánh dằn từng tiếng nói:

- Tao có muốn thế đâu? Nhưng hai cái nhẫn này có thể làm cho tao và cái Khuyên được sung sướng thì tội gì mà lại bỏ phí hoài trong mồm một cái thây ma.

Rồi hắn cười gằn, tiếng cười ròn sắc nghe mà rùng mình. Đôi bạn lại lặng lẽ đi. Sương mỗi lúc một sa xuống nhiều hơn. Trong rặng tre, mấy con gà đã cục cù gáy sáng.

Khuyên trốn nhà đi theo Nhớn đã được ngót một tháng nay. Bác Vuông buồn bã tức giận”....

NGUYỄN ĐÌNH LẠP

(Trích Ngoại Ô)

TIẾT 3

NGUYỄN TUÂN

(1910 – 1987)

Tiểu sử.

Nguyễn Tuân sinh 1910 ở Thanh Hóa. Sau khi học hết bậc tiểu học ở quê nhà, ông ra Hà Nội và sống ở đây lâu năm. Bắt đầu viết từ 1938. Là nhà văn độc lập, tuy nhiên có thể liệt vào Hàn Thuyên, vì đường lối của ông và nhà văn trong nhóm vẫn thường sinh hoạt, thảo luận chung; mặc dầu ông chỉ có một hai cuốn sách do nhà xuất bản Hàn Thuyên ấn hành, như Chiếc lư đồng mắt cua chẳng hạn... Nguyễn Tuân có lối văn đặc biệt, nôi dung hoài dĩ vãng, tiếc tháng năm trôi trên bước giang hồ.

Tác phẩm.

Vang bóng một thời, (NXB Tân Dân 1940), Tiếng quê hương (NXB Anh Hoa 1943), Một chuyến đi (Tân Dân 1941), Tùy bút I và II, NXB Cộng Lực 1941, Chiếc lư đồng mắt cua (NXB Hàn Thuyên), Ngọn đèn dầu lạc (Mai Lĩnh 1943), Tóc Chị Hoài, (Lượm Lúa vàng 1944), Chùa Đàn, (Quốc Học 1946), Sông Đà (tiểu thuyết, Hà Nội 1954), và những truyện ngắn, truyện vừa đăng trên các báo Thanh Nghị như Hai tấm vé số, Xác Ngọc Lam...

Khuynh hướng.

Phần nhiều tác phẩm Nguyễn Tuân đều mang tính chất khinh bạc cuộc đời và tả lại thú giang hồ lang bạt. Từ cái giọng khinh bạc của Cụ Hai đến Cụ Sáu, chúng ta nhận định được tất cả tư tưởng chán chường nhân thế, chua chát con người giao thời, đã qua đi một dĩ vãng như khúc phim mờ. Bối cảnh truyện tùy thuộc vào dĩ vãng, hình ảnh chìm đắm, mỗi khi nhắc lại khiến người ta thở phào luyến tiếc. Nhân vật Nguyễn Tuân cá biệt, vì lẽ chẳng giống nhân vật của nhà văn nào đương thời với ông, không là người hùng như Lê Văn Trương, không đài điếm phong nhã đương thời như nhân vật Khái Hưng. Nhân vật của ông đài điếm quý phái rất cổ kính, ưa khinh bạc, phóng túng. Vũ Ngọc Phan viết về ông trong Nhà văn hiện đại cho rằng ông chịu ảnh hưởng Marcel Proust, điều này đúng. Bởi Đi tìm thời gian đã mất cũng có giọng ai oán, hờn căm, chua chát, và cộng thêm thú giang hồ Paul Morand nữa:

“...Nguyễn Tuân như người ta đã thấy là một nhà văn đứng riêng hẳn về một phái. Những tạp văn đầu tay của ông, dầu không phải là tùy bút cũng ngả về tùy bút chẳng ít thì nhiều, ông lại không thể nào bỏ được cái lối phiếm luận, cái giọng khinh bạc bất cứ về việc gì nên có nhiều đoạn thật lê thê. Nhưng dù lê thê hay gọn gàng, đọc Nguyễn Tuân bao giờ người ta cũng thấy một hứng thú đặc biệt, đó là sự thâm trầm trong ý nghĩ, sự lọc lõi trong quan sát, sự hành văn của một cách hoàn toàn Việt Nam. Nguyễn Tuân là một nhà văn theo thuyết hoài nghi, ông có chủ nghĩa về chủ nghĩa vật chất và gần như muốn tin ở cái ma lực của bản năng, ông lại ưa thích cái cố hữu nên là người tuy luôn luôn xê dịch, tuy tự nhận mình là một kẻ giang hồ, nhưng sự thật thì chỉ những khi viết về cái xưa cũ, nhưng cái thuộc vế quê hương, đất nước hay những cái có thể tưởng nhớ quê hương đất nước, ông mới viết tinh vi sâu sắc. Ông là một nhà văn đặc Việt Nam, có tính hào hoa và cái giọng khinh bạc đệ nhất trong văn giới Việt Nam hiện đại. Nói như thế , người ta mới hiểu được cái thân thế và văn ông, vì nhân thế và văn ông theo như bóng với người. Chỉ người ta ưa suy xét, đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức. Một ngày không xa, khi mà văn chương Việt Nam được người Việt Nam ham chuộng như bây giờ, tôi dám chắc văn phẩm của Nguyễn Tuân sẽ còn có một địa vị xứng đáng hơn nữa. Người ta hay nói đến những cái lôi thôi, những cái dài dòng trong văn chương của Nguyễn Tuân, nhưng người ta quên không nhớ rằng Marcel Proust hoặc Tourguenieff còn dài dòng hơn nhiều, mà đó chỉ là những sự diễn tả thành thực của tâm hồn…”

Chịu ảnh hưởng Đông Phương.

Nếu Khái Hưng, Nhất Linh, Xuân Diệu, Thế Lữ bị ảnh hưởng Tây Phương, trái lại Nguyễn Tuân, Lưu Trọng Lư chịu ảnh hưởng Đông Phương. Thể tâm bút của ông viết trong Vang bóng một thời hoặc Chùa Đàn hoặc Nguyễn, Chiếc lư đồng mắt cua; là những mẩu tâm tư giống như văn Ba Kim, Lố Tấn với Ả Q Chính Truyện. Hoặc tản văn của Ba Kim trong U Linh, Thèm khát Tự do cũng vậy. Chịu ảnh hưởng Trung Hoa và Nhật Bản nhiều nhất, không phải ở hình thức viết, mà kể cả tâm hồn con người, kể cả truyền thống sống, ít nhiều tác phong Đông phương, gần gũi nhất là Tàu. Nói về cái thú uống trà Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên đã trở thành một nghệ thuật. Nên tác phẩm những nước kế bên, chúng ta thường thấy nhà văn ca tụng thú uống trà thật nhàn tản và kiêu hãnh. Thì ở Việt Nam, một Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời (Những chiếc ấm đất) cho ta hưởng phút khoan khoái, thanh tao uống trà, một hình tượng văn minh cổ truyền thanh nhã. Tùy Bút là những mẩu tâm tư nói lên tâm trạng ưa thích dĩ vãng, hoài cảm hình tượng sống đã lùi xa. Tập truyện Những dịp còi, Những ngày Thanh Hóa, Những ngọn đèn xanh... tả tiếng còi báo động có âm thanh ghê rợn đến cảm giác buồn của đêm não nuột tàn thu khi trời trở lạnh. Bao nhiêu màu sắc, cảnh vật thiên nhiên đượm buồn, hình tượng khinh bạc, kiêu sa con người ưa trăng gió, ưa thú lang thang trên nẻo đường có thác ghềnh, rừng núi. Hơi văn ấy rất linh hoạt dưới ngòi bút tài hoa Nguyễn Tuân. Thiếu quê hương cũng tương tự như thế. Chẳng là chúng ta hiểu Nguyễn Tuân qua Tùy bút, và muốn hiểu Nguyễn Tuân sâu rộng đến chân tơ kẽ tóc, không phải chỉ vài chục trang giấy là đủ. Chúng ta phải viết riêng một cuốn sách đầy hàng năm trăm trang, mới mong xét về Nguyễn Tuân tương đối đầy đủ, nói về cuộc đời cũng như thú lang thang của Nguyễn Tuân trong văn phẩm. Văn phẩm chọn lọc Vang bóng một thời, chúng tôi sẽ phân tích ở tiểu mục sau và được coi như là tác phẩm chính Nguyễn Tuân.

Trong Thiếu quê hương, vào đề bằng: “Ta muốn sau khi ta chết đi, có người thuộc da ta làm chiếc va li” của Paul Morand. Và hạnh phúc chỉ tìm thấy ở nhà ga, mới hiểu hưởng lạc thú đời qua hai nghĩa bi và lạc quan, đầy đủ cảm giác lưu luyến đơn côi. Cuộc đời ông, lối sống ông phản ánh nhiều trong văn chương, nên sau này du lịch tới ga nào, xin được nhà ga đóng dấu lên chiếc va li ấy. Du lịch trong Thiếu Quê hương là động cơ chính của chàng thanh niên có óc nay đây mai đó, nay thưởng thức cảnh chiều đẹp của nơi rừng khói ấm, mai vào một sáng tinh sương mịt mùng ngang biển. Đi và đi, không hẳn là cứu cánh của mình, nhưng để trải trên những con đường heo hút như vô tận. Một kẻ chán mình, chán thời thế muốn quên và trốn. Đó cũng là một thái độ sống với một ý nghĩ cá biệt. Tập này so với văn phẩm chung của ông không có gì đặc sắc lắm.

Chiếc lư đồng mắt cua cũng vào đề bằng: "Trong tập này cũng lại chỉ là những trang tùy bút chép lại một ít tâm trạng tôi trong những ngày phóng túng hình hài".

Tả một nhà báo tỉnh lỵ, kẻ lãng tử muốn vào Nam lập nghiệp; nhưng rồi lại ra Vinh, Thanh Hóa rồi ở lại Vinh. Ở đâu thì cũng chỉ một vài hôm rồi lại lên đường, việc này xảy ra như cơm bữa trong đời tác giả.

Phân tích tác phẩm chính.

Vang bóng một thời tác phẩm đầu tay của tác giả, chính lại là tác phẩm đưa ông đến mức thành công cao nhất trong văn học thời ấy, cũng như về sau. Có thể nói là tác phẩm đẹp gần toàn diện. Một Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân trải một chiếu riêng trong nền văn học Việt Nam. Chúng tôi phân tích từng truyện, để hiểu rõ ông, hiểu những gì là tinh hoa của đạo Khổng, sân Trình; cùng căn bệnh chán đời vào giai đoạn chính trị mới xâm nhập, và muốn cho hình hài mình sống mà đang chết trong thanh cao. Có thể nói thêm rằng, nhân vật của ông sống trong đau khổ, nhưng chết dần mòn tươi đẹp như thiên thần. Vang bóng một thời gồm Chém treo ngành, Những chiếc ấm đất. Thả thơ, Đánh thơ, Ngôi mả cũ, Hương Cuội, Chữ Người tử tù, Chén trà trong sương sớm, Một cảnh thu muộn, Báo oán (Tân Dân in năm 1940), Chính Ký tái bản năm 1953 ở Hà Nội).

Chém treo ngành cốt truyện giản dị tả một bọn tù ái quốc bị thực dân Pháp bắt được đem xử tử. Không phải như lối chịu án tử hình bằng những viên đạn đồng, mà chúng giao cho một tổng đốc người Việt quản nhiệm xử giảo. Bát Lê, người vác dao chém treo ngành được vời đến. Vào đầu, ông cho người đọc thấy một cảnh ghê rợn, nơi dùng để tập xử giảo những người yêu nước sau này:

"...Phía Tây thành B, trên một nền đất rộng, đổ sát vào thành cho lằn gạch ngoài thành được thêm vững chãi, tàn lá rộng và không bao giờ sợ gió đánh rách, che kín cả vòng mặt trời. Trên áng cỏ bốn mùa ẩm ướt loài nấm dại nở hết sức bừa bộn.

Khoảng đất ấy ở phía sau kho lúa xây trong thành quanh năm không có vết chân người.

Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định vào vườn chuối âm u này để ngủ.

Những thân chuối cao vút và tàu lá chuối trống trải không đủ nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi lại bay qua thành.

Vườn chuối im lìm, bữa nay có tiếng hát. Chính là những lời xám hối của một người lúc đương thời sống không bao giờ oán nhau nhưng phải giết nhau. Tiếng hát của người lính cơ ấy: Ta hoa thanh quất. Cỏ xanh đổi màu. Sống không thù nhau…”

Tiếng hát người lính cơ thừa lệnh trên làm việc, Nguyễn Tuân tưởng tượng cảnh xử giảo rất tài tình, chúng ta cảm thấy ghê rợn, nào là múa thanh quất từng giọt máu chảy đầm đìa. Tâm trạng lính cơ thanh minh với người bị xử giảo , ông tả rất đúng ý nghĩ của kẻ phải làm theo mệnh lệnh, hẳn là thái độ tắc trách. Đến lúc người xử giảo dẫn nạn nhân đến pháp trường, Nguyễn Tuân viết linh động như:

“Người ngồi cho vững, cho ngọt nhát đao.”

Cảm tưởng độc giả bị ám ảnh bởi lời khuyên của kẻ sống không oán thù, chết phải giết nhau: “Anh ngồi cho yên, cho đao ngọt lưỡi, anh chết ngay cho đỡ phải đau khổ, nhận thêm phút sống ngây ngất ê trề”. Tình thương đồng loại hòa vào tình cảm chân thành; trước khi xử người, lính cơ là bác Lê đau khổ lắm. Nguyễn Tuân cho Bác Lê đọc kinh sám hối trước kẻ sắp phải chết đi, hiểu rõ tâm trạng đau khổ của người cầm đao. Ông còn nhắc lại ở đoạn cuối:

“...Buổi sáng hôm sau, bọn vợ lính cơ thêm được ít người tò mò nữa kéo đến vườn dâu ngoại thành, và nghe rõ người ta chặt chuối trên mặt thành với những câu hát rõ mồn một: “Ta hoa thanh quất. Cỏ xanh đổi màu. Sống không thù nhau. Chết không oán nhau”. Khi nghỉ ngơi, lúc họ mang chuyện đó về nhà, thì những người lính cơ đều ra vẻ cảm động sở hãi và cắt nghĩa:

- Ông Bát Lê sắp làm việc đấy.

- ???

- Ông lớn sắp đem mười mấy người ra chém. Và tiếng người hát trên mặt thành là tiếng ông Bát Lê đang múa thanh quất ở vườn chuối đấy”

Tới đoạn giới thiệu tài chém treo ngành Bát Lê, ông viết rất tự nhiên, tả anh lính giảng giải cho vợ: “...U mày không hiểu. Lâu nay ông Bát không phải khai đao vì ông lớn thấy già yếu nên muốn cho nghỉ đấy. Mỗi lần có án trảm, ông Bát chỉ phải ra pháp trường cho có mặt thôi. Còn công việc thì đã có người khác thay thế. Nhưng vẫn cứ được phần thưởng. Đã đến gần một năm nay, ông Bát không cầm đến thanh quất. Không hiểu tại sao lần này ông lớn lại cho gởi ông Bát ra cho kỳ được và xem chừng như Ngài săn sóc đến cái vụ xử trảm này nhiều lắm...”

Từ chỗ giới thiệu Bát Lê là tay xử trảm với thanh đao tài tình, cho đến khi báo tin cho biết vụ xử trảm thật quan trọng, Nguyễn Tuân rất nghệ thuật khi chuyển tiếp, gợi tò mò người đọc. Hoàn cảnh xã hội vào 1940, khi Pháp Nhật thông đồng thống trị, không thể nào có giọng văn căm hờn lộ liễu mà sách xuất bản được.

Ở đây, ông chỉ tả sơ lược vài nét, qua vóc dáng tổng đốc sang trọng, kiêu kỳ; nhưng lại toát ra đầy đủ ý nghĩa mỉa mai thâm thù:

“...Bẩm lạy ông lớn, ít lâu nay con về quê. Giá như ngày trước có khi nào con dám đi xa? Sớm tối con cũng phải ở trong nội thành phòng những lúc ông lớn bất thần gọi đến. Nhưng từ hồi gần đây ông lớn thương phần già nua cho con nghỉ tay đao, con có mạn phép về thăm nhà. Được tin ông lớn cho đòi, con vội vã vào hầu, xin ông lớn tha tội cho con. Con chờ lệnh ông lớn truyền xuống.

- Thôi cho đứng dậy.

Quan Đổng lý quan vụ ngả mình trên ghế bành vàng và son, hất hàm hỏi tên bát phẩm đầy tớ già đang co ro ngồi bên chiếc cột:

- Liệu bây giờ còn chém mát tay nữa không?

- Dạ.

- Dạ sao? Chú có biết ta sắp cho xuống cái lệnh chi không?

- Dạ...”

Lối xưng hô Bát Lê khúm núm trước quan Đại thần, từ thái độ hạ nhân phẩm xuống, đề cao quan trên, chúng ta hiểu thêm được rằng Quân vụ thị trấn càng oai vệ bao nhiêu, thì chức tước quan Pháp ban cho chúng càng hống hách bấy nhiêu. Như là trà đạp tinh thần cách mệnh gián tiếp gây căm thù, cũng là lối văn thúc đẩy cách mệnh, Nguyễn Tuân chỉ cần đưa một vài nét lồng vào lời nói quan Quân vụ. Bề ngoài thật là giọng văn cung kính, suy xét kỹ hơn thấy Nguyễn Tuân phản lại với hậu quả rất tế nhị. Thái độ quan Quân vụ thị trấn đối với quan Công sứ, nào khác gì Bát Lê đối với quan Tổng đốc:

“...Có mười hai tên tử tù sắp phải hành hình. Quan Công sứ muốn được thị kiến lúc bọn hắn chịu án trảm. Người chém thế nào cho gọn thì chém, hễ chém một đầu đến hai nhát thì không những là truất tiền mà còn bị quở nữa. Chém cho thực ngọt.

- Dạ.

- Tiền thưởng này chính quan Công sứ cho. Ta muốn giữ phần cho người, nên ta gọi mà lĩnh việc này, gọi là kiếm một chút bổng để dưỡng cái tuổi già. Chú phải biết khi nhận lấy mười hai tên tử tù là chú phải làm việc cho đầy đủ. Chớ để phiền đến ta. Ta đã chót khoe khoang cái tài chém treo ngành của chú với quan Công sứ. Chú nghĩ thế nào?...”

Người đọc một phen thấy sự trắng trợn của tên phong kiến gian ngoan, muốn rằng vụ xử mười hai tên tử tù thật ngọt, để cầu mong gián tiếp quan cho lên chức. Tả tâm lý viên tổng đốc, Nguyễn Tuân đã có nghệ thuật biểu hiện, tuy che lấp cái bợ đỡ của tổng đốc với quan Công sứ, nhưng ra lệnh cho viên bát phẩm, thì hiểu được đó cũng là cách gián tiếp đề cao, nịnh bợ quan Tây. Như câu quan thương mà muốn cho hắn lĩnh phần thưởng dưỡng già. Tác giả lột trần được cái gì thật bỉ ổi thầm kín cả hai mặt. Ở đoạn sau, ông viết:

“...Nếu cái nghề chém đặc biệt của chú không thể truyền lại cho một người nào được, thì một lần cuối cùng nữa chú cũng nên cho một vị quan Tây ở đây thấy rõ cái cách chém xưa của một người đầy tớ hầu cận của ta là như thế nào?...”

Bây giờ đến tâm trạng Bát Lê, Nguyễn Tuân tả sự điên cuồng của người phải thừa hành mệnh lệnh, bị dằn vặt khi làm một việc mà chính kẻ cầm thanh đao không muốn:

“...Trên đống thân cây trơn ướt, Bát Lê vẫn làm việc nhẩy nhót như một kẻ điên cuồng. Cứ mỗi một cây chuối gẫy gục xuống cỏ roạt một cái thì Bát Lê lại cất tiếng hát:

“Sống không thù nhau…chết không oán nhau...”

Ông tả lại cảnh sầu não ở pháp trường thật rùng rợn, và nhận xét về mầu sắc rất tinh tế chuyên môn:

“...Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thì sáng hơn là nền trời. Nền trời vẫn những đám mây tím đổ về đủ mọi hình thức quái lạ. Những bức tranh mây chói mầu thẫm hạ thấp thêm và đè nặng xuống pháp trường oi bức và sáng gắt...”

Tiếp theo, Nguyễn Tuân đưa chúng ta đến kết thúc, mười hai tên tử tù bắt đầu sắp sửa ra pháp trường. Ông tả rất tỷ mỷ, nhận xét từ một thái độ cỏn con điển hình về sự chém giết sắp diễn ra, âm thanh ghê rợn của gông cùm, tiếng va chạm của kim khí cọ sát với da thịt:

“...Mọi người chờ đợi một cái gì. Từ phía nhà ngục, mười hai con người chằm chặp tiến tới giữa hai tốp lính áp giải. Bãi cỏ im lìm đến nỗi tiếng gông lũ tù, giây va chạm vào nhau theo một dịp bước rụt rè nghe cứ rõ mồn một như tiếng sênh người chấp hiệu định liệu bước đi cho cỗ đòn đám.

Không biết từ đâu ra, ông Bát Lê đứng sẵn bên cọc tre và trong một lát đã buộc xong bọn người đợi chết vào cọc. Lũ tử tù bị trói rật cánh khủy gối trên mặt đất, khom khom lưng xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp. Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp họng, nắm xương cổ và tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù. Họ cần ôm thế nào cho tội nhân lúc quỳ phải để được gót chân ngửa đúng vào cái mẩu xương cụt nơi hậu môn. Như thế tử tù sẽ phải rướn mình lên mà nhận lấy lưỡi dao thả mạnh xuống cái cổ căng thẳng. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng như đã thoát hết khỏi hồn họ.

Trông xa, họ có cái cứng thản nhiên của những tượng đá tạc hình người Chiêm Thành quỳ trước sân đền vua Lý.

Tiếng nhạc bắt đầu thổi bài Lưu Thủy trường ca gần mãi lại. Rồi trong một giây phút mọi người lắng rõ tiếng sênh tiền. Ai nấy nín thở. Trông ra cờ quạt kín cả nền trời và lính tráng kín cả mặt cỏ. Bụi cát bay mù như lúc có cuộc hành quân. Quan Công sứ mặc đồ binh phục có ngù kim tuyến đi ngang hàng cùng quan Tổng đốc. Hai quan đầu tỉnh – một người đi ghệt – một người đi ủng – đều gò bước đi cho nó ăn nhập, với cái long trọng của pháp trường. Những tên lính tỉnh gầy ốm che sát vào người hai ông lớn mọi thứ tàn vàng tán tía lọng xanh.

Cái quần chúng không dám phạm thượng cúi đầu mặt xuống đất nhìn cỏ may chọc thủng ống quần mình. - Những người sắp bị hành hình kia là dư giặc Bãi Sậy...”

Lòng yêu nước của những đồng chủng phẫn uất trước sự chết đau đớn anh hùng Bãi Sậy, Nguyễn Tuân đã giới thiệu họ với chúng ta họ là anh hùng, chí khí sắt thép như tượng tạc Chiêm Thành quỳ trước đền vua Lý. Nhưng có một điều, tả lòng yêu nước sơ sài; thiếu trầm mặc, nghiêm trang, và lại quá ôn hòa. Nguyễn Tuân tả cái chết ấy đúng phải rất khinh bạc, kiêu sa. Kết thúc Chém treo ngành, Nguyễn Tuân động viên tiềm thức người đọc với giọng văn căm thù:

"...Lúc quan Lưu trú gần cầm mũ áo trở về Tòa sứ, quan Đổng Lý quân vụ còn ân cần buộc ông thông ôn Nam Kỳ dịch cho đủ câu này:

- Bẩm quan lớn, chém treo ngành như thế này phải lựa vào những lúc việc quân quốc thanh thản số tử tù ít ít thôi. Vào những lúc nhốn nháo quá, tử tù đông quá, thì ty chức đã có cách khác. Là chẻ đôi cây tre đực dài cặp vào cổ tử tù xếp hàng và nối đuôi quỳ hướng về một chiều. Đại để nó cũng như là cái lối cặp gắp chả chim mà nướng ấy. Rồi Bát Lê sẽ cầm gươm mà dóc ngang như người ta dóc mía.

Lúc quan Công sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn dính máu vào cổ người chết quỳ kia, giữa pháp trường sắp giải tán nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh. Thường những lúc xuất quân bất lợi, tưởng cơn gió lốc cuốn gãy ngọn cờ súy, hút cát bụi lên, xoay vong quanh đám tử thi.

Bấy giờ vào khoảng giữa giờ thân…”

Nguyễn Tuân không xui người đồng chủng làm cách mệnh, chính giọng văn căm thù và chính sự không cần kết thúc đổ xương máu; thì bất cứ ai đã đọc xong đoạn văn có giòng máu muốn bảo tồn giòng giống, quê hương đều đi đến kết luận làm cách mệnh.

Đến Người tử tù, Nguyễn Tuân tả vẻ hiên nganh tên tù ấy. Đi sâu vào hành động tâm tư, phân tích tâm sự một kẻ khinh bạc kiêu sa trước cái chết, vì chính bản thân đã thất bại. Không trả nợ cho đất nước được, Huấn Cao, người tử tù ấy vẫn còn tác phong hiên ngang, cũng như viên quản ngục, vì thừa lệnh phải thực hiện những gì là: khi sống không oán nhau, chết không oán nhau. Độc giả không được thưởng thức phút rùng rợn như Chém treo ngành; và hiểu được chiều sâu tâm tư thầm kín viên quản ngục lẫn kẻ tử tù. Tả chòi canh tử tù, Nguyễn Tuân viết:

“...Tiếng trống thành phủ gần đây đã bắt đầu thu không. Trên bốn chòi canh ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái quạnh quẽ của trời đất tối mịt những tiếng kẻng và mõ rất đều đặn và rất thưa thớt. Lướt qua cái thăm thẳm của nơi cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen và thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao hôm nhấm nháy như muốn trút xuống phía chân trời không định. Tiếng dội chó sủa ma, tiếng trống thành phủ, tiếng kẻng mõ canh nổi lên nhiều nhiều. Bấy nhiêu âm thanh phức tạp bay cao lẩn lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị từ biệt vũ trụ…”

Nguyễn Tuân tả cảnh trên đây thật đẹp, văn phong bay bướm, ý trầm thoang thoảng, cảnh nên thơ; vũ trụ phóng túng đến tận trăng sao. Những nốt nhạc trầm bản đàn ảo não, u buồn, sầu dằng dặc, đau khổ mênh mông đất nước thiếu tự do lắng sâu vào lòng người đọc. Tả gông cùm lim nặng của tử tù đeo, ông châm biếm vô cùng cay đắng:

“...Sáu phạm nhân đều mang chung một chiếc gông dài đến tám thước. Cái thang gỗ lim nặng, đóng khung lấy sáu cái cổ phiến loạn, nếu đem ra cân có thể nặng đến bảy tám tạ. Thật là một cái gông đã cũ và mồ hôi cổ mà tay kẻ phải đeo nó đã phủ lên một nước sơn bóng nhoáng. Những đoạn gông đã bóng thì loáng như có người đánh bằng lá chuối khô. Những đoạn không bóng thì sỉn lại những chất ghét đen xanh...”

Tả lính áp giải tử tù, tác giả vẽ lại tác phong chú đầu bếp thời phong kiến: đỏng đảnh, hóm hỉnh, kiêu ngạo mà nào có biết chỉ hơn lính lệ một bậc:

“...Các người chả tập nữa. Mai mốt chi đây sẽ có người sành sỏi dẫn các người ra làm trò ở pháp trường. Bấy giờ tha hồ mà tập. Đứng dậy, không ông lại phết cho mấy hèo bây giờ…”

Về cách dửng dưng tử tù thì hiên ngang đến độ:

“...Huấn Cao lãnh đạm, không thèm đáp chỉ chúc mãi gông nặng xuống thềm đá tảng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống đấy đánh thuỳnh một cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh đập vào cổ năm người sau làm cho họ nhăn mặt. Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm những điểm nâu đen (…) Khi nói câu mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến đâu, ông Huấn đã đợi trận lôi đình báo thù và những thủ đoạn tàn bạo của quan bị sỉ nhục. Nhưng cái chết chém ông còn chẳng sợ nữa là những trò tiểu nhân thị oai này. Ngục quan đã làm cho ông Huấn bực mình thêm khi nghe xong câu trả lời, y chỉ nhã nhặn lùi ra với một câu “Tôi xin lĩnh ý”. Và từ hôm ấy cơm rượu vẫn lại đưa đến đều và có phần hậu hơn trước nữa, tuy chỉ có y là không hề để chân vào buồng giam ông Huấn. Ông Huấn càng ngạc nhiên nhiều nhiều: năm bạn thân của ông cũng đều được biệt đãi như ông…”

Nguyễn Tuân có ý tả cho người đọc hiểu được rằng quản ngục mến tài Huấn Cao, không chỉ là đảng viên phản nghịch chống triều đình ở mạn Sơn Tây, mà còn là nho sĩ văn hay chữ tốt. Bao nhiêu lần y hy vọng tử tù dịu bớt tính nết, để y nhờ Huấn Cao viết cho y mấy chữ trên tấm lụa trắng mua sẵn. Nguyễn Tuân diễn tả vai trò y, một tên quản ngục còn biết chuộng văn hay chữ tốt, còn biết kính trọng giá trị nho sĩ; hơn nữa cũng là để đưa giá trị của nho sĩ tài giỏi nhưng không bao giờ thèm còng lưng ham quan tước, mua danh vọng hão huyền:

"...Biết đọc vỡ nghĩa thánh hiền từ ngày nào, cái sở nguyện của viên cai ngục này là có một ngày kia được treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao: đẹp lắm, mộng lắm. Tính ông khoảnh, từ chỗ tri kỷ, ông ít chịu cho chữ. Có được chữ ông Huấn mà treo là một vật báu trên đời. Viên quản ngục khổ tâm nhất là làm thế nào xin được chữ. Không can đảm giáp mặt một người xa cách y hàng bao nhiêu thế kỷ tài học, y chỉ lo mai mốt đây, ông Huấn bị hành hình thì cái thèm muốn kia chỉ là một cái mộng...”

Tới quan Hình bộ Thượng Thư bắt giam tử tù đưa vào Kinh, Nguyễn Tuân tả tâm trạng viên quản ngục lo âu, sợ không bao giờ còn xin được chữ người tài giỏi ấy! Với cách tả và giọng văn lưu loát, ý tưởng xúc tích:

“...Viên quản ngục vốn đã tìm được thầy thơ lại, cho gọi lính lên kể rõ tâm sự mình. Thầy thơ lại cảm động nghe xong chuyện, nói được một câu: “Dạ bẩm ngài yên tâm, đã có tôi”. Rồi ù té chạy…”

Bây giờ được thưởng thức lần cuối cảnh tử tù chính là nghĩa sĩ văn hay sắp hạ hút. Khiến Nguyễn Tuân chạnh nhớ đến, để rồi cho người đọc cùng nghĩ đến: Muốn cho Lý Bạch đề thơ./ Kẻ nâng nghiên bút người đưa mực Tàu”:

"...Trong một không khí khói tỏa như đám cháy, ánh sáng tỏ ngòm của một bó đuốc tẩm dầu rọi lên ba cái đầu người đang chăm chú trên một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn lằn hồ. Khói bốc tỏa cay mắt làm họ dụi mắt lia lịa. Một tên tử tù đeo gông, chân vướng siềng đang đậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng thẳng trên mặt ván. Tên tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ đặt trên phiến lụa ong. Và cái thầy thơ lại gầy gò, thì run run bưng chậu nước…”

Đến Những chiếc ấm đất, Nguyễn Tuân cho thấy hai cảnh tượng: cụ Sáu với tháng ngày phiêu lưu và ngày tàn tạ. Nhân vật của ông, dù ở hoàn cảnh nào, cũng khinh bạc đời, muôn mầu, muôn vẻ khác nhau. Khi phú quí, cái phú quý của nho sĩ hiền triết, thanh cao và đến khi tàn lụi, cũng vẫn mang nặng trong tâm hồn và ngoài cuộc đời nghĩa khí cho dầu chịu ảnh hưởng tinh hoa lẫn hậu họa cửa Khổng sân Trình ở buổi giao thời va chạm với văn minh Tây Phương. Ông viết tâm trạng ông Sáu của tháng ngày phong lưu nhất mực:

“...Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn nhờn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng sâu thăm thẳm gần đến hai con sào và nói: “Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng nhà chùa đấy. Tôi sở dĩ không đi đâu xa được là vì không đem theo được nước giếng này đi để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu thế này. Là giếng nhà chùa mà cạn thì tôi sẽ không cho người nào muốn xin bộ đồ trà quý của tôi, chỉ có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ, chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này xem có thể dụng võ được”.

Đến ngày tàn tạ cuối cùng Nguyễn Tuân viết:

“...Phải bây giờ ông Cụ Sáu sa sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm cũng khó, chứ đừng nói đến chuyện uống trà tàu. Thỉnh thoảng có xin được người nào quen một vài ấm trà, cụ lấy làm quý lắm: gói giấy dắt kỹ trong mình, đợi lúc nào vắng vẻ một mình đem ra pha uống. Vốn cái thói phong lưu, nhiều khi qua chơi ao sen nhà ai, gặp màu hoa nở cụ lại cố bứt lấy ít nhị đem ướp luôn vào gói trà dắt trong mình, nếu đây là trà mạn cũ…”

Nhân vật Nguyễn Tuân luôn trung thành kiếp phận đa mang trong đời cho đến chót. Ông Sáu trong Những chiếc ấm đất tàn tạ đến hồi phải xin trà uống, bây giờ bản rẻ ấm ở phiên chợ trước, cất nắp dành phiên chợ sau được giá hơn. Con cháu Khổng Nho đến thời tàn lụi vật chất:

“...Có thế mới được giá. Có cái thân ấm rồi, chẳng nhẽ không mua cái nắp vừa vặn sao? Bán thân ấm, rồi đến lúc bán nắp ấm, mới là lúc bán giá đắt...”

Có thể nói rằng Nguyễn Tuân đã được chứng kiến đời tàn lụi gia phong, bạn cụ thân sinh ra ông, thế hệ giao thời. Thân sinh tác giả là ông Tú nho sĩ chán đời, lịch lãm, hào hao từ huyết thống tồn truyền. Và Nguyễn Tuân chứng kiến cảnh sống, được kể lại rất tỷ mỷ sẵn trong mình nghiệp văn chương, ông đem kinh nghiệm rất sống ấy cùng gia phong, cộng thêm năng khiếu văn chương phong phú, kết tụ trong Vang bóng một thời.

Nhìn cảnh sa sút của gia đình quan Án, chỉ còn lại chị Tú, cậu Chiêu và cụ Hổ, thầy địa lý là bạn quan Án ngày xưa. Thú tiêu dao thầy bói từ làng nay sang làng khác, chọn đất, tìm gia đình phúc đức có đất hướng thượng, để mồ mả cho họ thì ngày sau sẽ phát xán lạn. Cảnh nào đẹp hơn ông Tiên trần giới đi ban ân và hạnh phúc cho loài người.

Cậu Chiêu và chị Tú sa sút thê lương, được Nguyễn Tuân ghi lại cảnh nghèo đến mức thấp tuyệt đối: “..Rồi cậu Chiêu vẫn không quen cái cảnh màn trời, chiếu đất của ngày bé bỏng. Dưới cái màn trời triền miên, những kinh động ngời sợ ánh sáng tối và ẩm ướt của rừng tị nạn đổ xuống một cái đầu xanh đang ngậm chùm tóc mới vừa tơ mà đã nhuộm mầu tang. Trên cái chiếu đất dằng dặc mùi côi cút, một cặp chân có khóa bạc vòng vàng đang in đôi gót đỏ như son lên cái rêu nhầy nhờn của ngày đau khổ và lẩn lút. Có những ngày liên tiếp cậu Chiêu và chị, cô Tú phải nấu củ rừng ăn với cháo chó, những con chó trung thành cũng theo chủ vào ruột rừng Hưng Hoá..."

Cô Tú trong Ngôi mả cũ, Nguyễn Tuân cho người đọc mến và kính nhân vật. Nàng hy sinh hạnh phúc riêng tư nuôi em hy vọng em nối được nghiệp gia đình. Vài ba nét nói về cô Tú, Nguyễn Tuân mê say người đọc qua giọng cô đọng đầy chân thành:

“...Với cô Tú, cuộc đời đến giờ đã hết tất cả xán lạn rồi. Bởi vì đời đã sớm đòi hỏi cô nhiều về bổn phận. Cô nhất định không đi lấy chồng và vui lòng sống vậy cho đến lúc nào cậu Chiêu đi thi được và làm nên được. Ở trong cảnh côi cút với sự thanh bạch. Cô Tú ngày ngày dệt vải, khâu thuê vá mướn cho người hàng xóm và những lúc rỗi tay thôi thì cô lại lên tiếng ngầy ngà đến người em lúc quên mất chữ sách hay là bỏ dở một trang quyển bài viết. Cái bây giờ của cô Tú đã là không đáng kể và chỉ có sống bằng mộng cho về cái mai sau của cậu Chiêu. Dưới cái quang đèn dầu bông, nhiều khi người dem đã rầu lòng tỏ lời hối lỗi, vì những lúc làm phiền lòng cô Tú mà cậu coi là mẹ, một người mẹ rất trẻ, đầy âu yếm và thừa thãi kỳ vọng nơi mình..."

Cái đáng quý hy sinh tuổi trẻ bản thân để gây dựng cho em cô Tú, giữa xã hội đầy rẫy giả dối, lừa lọc, đảo điên, thì thủy chung hy sinh như cô Tú càng đáng quý hơn nữa; coi như kinh nhật tụng cho ai muốn tránh khỏi cảnh đời bỉ ổi, nhố nhăng. Cô Tú ngoài việc nuôi em vẫn không quên thăm mồ mả thân phụ. Cảnh rau cháo nuôi thầy địa lý, cụ Hổ Viễn, bạn cũ quan Án thuở bình sinh thật làm cho người đọc mủi lòng. Đây là đoạn cuối của đời thầy địa lý trước kia là quân Cờ Đen từ giã gia đình có hai chị em mà chị như là một nàng Tiên:

“...Ngày mai, tôi xuống thăm lại cái kiểu đất ở Đồng Cồn. Xong rồi tôi xuôi luôn Hà Nội. Tháng sau tôi sẽ về qua đây để chỉ bao xoay lại ngôi mộ. Cô đừng nên nói chuyện tạ ơn. Còn về lâu dài, đáng lẽ bộ chén ngọc tôi không nhận đâu. Lấy những cái gì là gia bảo của người, làm của mình là một cái tội. Nhưng vì nghĩ rằng trong lúc chị em cô còn nhỏ tuổi chưa chắc giữ nổi, thiếu gì kẻ nhòm ngó. Thôi tôi cũng giữ hộ cho cô cậu. Độ mười năm sau, lúc đất có thể phát được rồi, tôi sẽ trở lại đây. Lúc bây giờ tôi sẽ trả lại cô Tú và cậu Chiêu bộ chén ngọc lựu. Cụ Án nhà lúc sinh thời quý nó lắm. Đi lại với cụ luôn luôn, mà cụ nhà chỉ mang chén ra dùng với tôi có hai lần. Nếu tôi không sống được đến ngày đó, mấy đứa con tôi xem chừng cũng bạc lắm. Có lẽ là đến đời con tôi là không còn gì nữa. Cô Tú và cậu Chiêu nhờ hộ tôi câu nói chi tình này…”

Truyện Vang Bóng Một Thời là tập sách văn chương chép giấc mơ đẹp quá vãng. Đọc xong, người đọc có cảm giác rằng vừa qua một cơn mộng tuyệt đích thú vị, ở một thế giới đã xa hẳn thế giới chúng ta. Như một bộ đồ tra ngọc chén lựu, trên và dưới, xung quanh còn vết chạm trổ nét tuyệt mỹ từ thế kỷ xa xôi. Mộng đẹp đến chừng nào, cũng không thể không có ác mộng, thì cái ấy không khiến cho ta hoàn toàn được hưởng thuyết vị, cái đẹp và cái gợn làm giảm đẹp, tôi muốn nhấn mạnh đến văn chương Nguyễn Tuân. Chúng ta không nên và không có quyền đòi hỏi quá nhiều ở một thiên tài Nguyễn Tuân, văn chương sự nghiệp gần như ngọc toàn bích. Trong Vang bóng một thời, hầu hết chuyện hay, trội như nhau cả: Ném bút chì, Hương cuội, Chén trà trong sương sớm, Một cảnh thu muộn. Âm hưởng thế hệ qua lâu rồi. Thế hệ quan lại, nho sĩ, Nguyễn Tuân ghi lại gần như đầy đủ, từ bước giang hồ kỳ thú của Cụ Hai đầy nho nhã khí phách, cho đến cảnh bỉ ổi khinh thị quan Tổng Đốc trong Chém treo ngành, đến Huấn Cao, tên tử tù đều có nét tao nhã riêng. Đáng lẽ phải dành cho Nguyễn Tuân nhiều trang hơn nữa, để phân tích cái hay trong văn chương Nguyễn Tuân. Đọc Một cảnh thu muộn tưởng chừng như lạc vào thế giới đầy đủ cảnh nên thơ, sống bình thản trong tâm hồn, thanh cao tư tưởng thuần khiết. Thế giới nào đầy rẫy ảnh hình tao nhã đạo Nho, của văn chương, nghĩa lý nào đã hết. Làm sao người đọc không thèm tiếc sống ở địa ngục văn minh vật chất làm lạc mất nhân bản.

Còn truyện cổ tích của Nguyễn Tuân, đề cao tiểu công nghệ quê hương một cách rất văn chương, nghĩa lý của nghề làm giấy bản họ Chu và cô Dó Thần trong truyện ngắn Xác Ngọc lam, một sự thêu dệt về một giai thoại rất đẹp của trang văn chương quý báu. Giấy dó Hà đông trong Xác Ngọc lam còn mai mỉa bọn thư lại yếu hèn như Maxime Gorki mai mỉa lính Cosaques yếu đuối trong Chuyện nàng tiên và anh chàng mục đồng (La petite fée et le jeune pâtre). Xác Ngọc lam có hơi văn Liêu trai, nhưng là truyện ngắn đẹp, cả hình thức lẫn văn chương biền ngẫu, nội dung đề cao quê hương. Nguyễn Tuân đạt được mục đích văn chương trong truyện cổ tích này.

Trong kháng chiến, Nguyễn Tuân viết được nhiều truyện tách riêng trong cái chung áp đặt tuyên truyền; như tâm bút Gió Lào, có thể liệt vào tâm bút kiệt tác. Là nhà văn thiên tài như Nguyễn Tuân; lịch sử văn chương Việt Nam ghi tên hàng đầu trong nhà văn hàng đầu thật xứng đáng.

Trích văn:

NHỮNG CHIẾC ẤM ĐẤT

Sư cụ chùa Đồi Mai nhìn thấy bóng nắng đã đúng đỉnh đầu, thủng thẳng trở về trai phòng. Nhà sư già gỡ chiếc nón tu khỏi đầu, sắp ngồi vào thụ trai thì có tiếng con trẻ gọi ở ngoài cổng chùa. Một chú tiểu lễ phép bước lên tam cấp:

- Bạch cụ, có người con trai cụ Sáu xin vào.

- Vậy chú vẫn đóng cửa chùa sao? Chú ra mở mau không có người ta phải đứng nắng lâu. Cổng nhà chùa bao giờ cũng nên để ngỏ. Từ giờ chú nên nhớ: Sáng sớm, tụng kinh nhật tụng và thỉnh chuông xong là phải mở rộng cửa chùa và tối đến, lúc nào học xong kệ thì mới đóng. Kẻo nữa khách thập phương dị nghị.

Tiểu ra được một lát thì một người con trai trạc mười bẩy tuổi, xúng xính trong chiếc áo dài thâm, chân xéo lấm, tay bưng cái khay tiến vào tăng xá, vái sư cụ:

- Bạch cụ, thầy con cho con mang xuống biếu cụ bình trà đầu xuân. Và xin phép cụ cho ra giếng chùa nhà gánh một gánh nước.

Nhà sư già đã quen với việc biếu xén và xin nước này ở dưới cụ Sáu, khẽ cất tiếng cười. Trên khuôn mặt khô sác, nụ cười không có gì là ấm áp, là thiết tha. Nó chỉ đủ là hiền lành thôi.

- Thế cháu đựng nước bằng cái gì?

- Dạ, có người nhà quảy nồi và gánh đi theo còn chờ ở ngoài.

- A Di Đà Phật! Nắng này mà đi từ làng trên xuống tận đây lấy nước, cụ Sáu nhà có công quá. Cháu ngồi nghỉ chân đã. Để già bảo chú tiểu đưa tên bộc ra giếng. Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi: sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật.

- Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ.

Sư phụ chùa Đồi Mai không nài thêm và vẫn chỉ cười rất thuần hậu.

- Cháu có biết cụ Sáu nhà đến xin nước ở chùa đây đã mấy năm rồi không? Gần mười năm. Uống trà tầu như thầy cháu thì cũng có một. Cứ nước giếng chùa đây mới chịu pha trà. Lắm lúc già tự hỏi về cái tiền thân của thầy cháu xem là như thế nào? Nghĩ đến cái nhân duyên của thầy cháu với nhà chùa đây, thực cũng là bền và kỳ lắm cháu ạ!

Thoáng thấy tên lão bộc đã quảy xong gánh nước đang ngơ ngác tìm mình và làm ướt cả khoảng giữa sân chùa lát toàn đá tảng xanh, người con cụ Sáu, với cái từ tốn của một thư sinh ngồi hầu chuyện bậc phụ chấp đã xuất gia, liền vội vàng đứng dậy xin phép về.

- Bạch cụ, cháu vội phải về, vì ở nhà hôm nay có khách uống trà. Có lẽ thầy cháu ở nhà đang mỏi mắt chờ gánh nước.

Nhà sư già cũng vội theo bọn xin nước ra tới thềm ngoài. Sư cụ rút trong tay áo vải rộng ra một chiếc quạt thước, xòe rộng hết cả nan quạt, nghiêng che đầu cho đỡ nắng và bảo chú tiểu:

- Chú chạy mau ra vườn bẻ mấy cành lá đào.

Rồi cụ giữ con cụ Sáu lại:

- Ấy, ấy, thong thả một chút. Thả mấy cành đào có lá vào nồi nước, lúc gánh đi đường xa nó đỡ sóng ra ngoài và về đến nhà, nước vẫn mát.

Bọn xin nước vái chào nhà sư. Trên con đường đất cát khô, nồi nước tròng trành theo bước chân mau của tên lão bộc gánh rỏ xuống mặt đường những hình ngôi sao ướt nối nhau trên một quang đường dài ngoằn ngoèo như lối đi của loài rắn vì buổi trưa hè này là một đêm có bóng trăng giải lạnh lùng và vì cổng chùa Đồi Mai là một cửa non đào thì những giọt sao kia có đủ cái thi vị một cuộc đánh dấu con đường về của khách tục trở lại trần sau khi chia tay cùng chúa động.

Ánh nắng già dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi, làm rung rinh lớp không khí bốc từ mặt đất vá giống như vệt khói nhờ nhờ vờn qua những màu xanh bóng loáng của một dãy xóm làng cây cối im lìm. Đứng trong cổng chùa từ bề cao nhìn xuống cái thấp dưới chân mình, nhà sư già hấp háy cặp mắt, nhìn cái nắng sáng lòa. Bọn người xin nước chỉ còn là mấy cái chấm đen, mỗi lúc cử động lại làm tung lại phía sau mình một chùm cát bụi mờ mờ. Gió nồm thổi mạnh nhiều cơn đã đem cả mảnh bụi trần kia vào lọt cổng ngôi chùa cao ráo. Nhà sư nghĩ đến cụ Sáu và thở dài tỏ ý tiếc cho một kiếp chúng sinh vướng phải vòng nghiệp chướng.

Cụ Sáu vốn đi lại với chùa đây kể ra đã lâu lắm, từ trước hồi nhà sư già tới trụ trì. Mấy cái pho tượng Phật Tam Thế bằng gỗ mít đặt ở trên bệ và mấy pho kinh in giấy đại thừa là của cụ Sáu cúng đã có từ lâu. Cái chuông treo ở trên nhà phương trượng cũng là của ông cụ Sáu cúng vào hồi trùng tu lại chùa đấy. Và mỗi lần nhà chùa lập phả khuyến thí, ông cụ Sáu đứng đầu sổ. Chùa Đồi Mai vốn ở xa làng mạc và biệt lập trên một khu đồi nên cũng ít bị phiền nhiễu bởi bọn tạp khách. Thỉnh thoảng trong bọn khách đến chơi, ông cụ Sáu được sư cụ biệt đãi nhất. Độ một tháng một lần, nhà sư già lại giữ ông cụ Sáu lại ăn một bữa cơm chay và lần nào từ biệt, nhà sư cũng chân thành tặng khách một giò Chu Mặc Lan. Thường mỗi lần gặp gỡ, thế nào hai ông già cũng kéo nhau ra cái giếng nước chuyện vãn rất lâu. Nhà sư rất ít nhời thường hay trầm tĩnh ngắm bóng mình trong lòng đáy giếng. Cái bóng nhà sư già ít khi được đậu hình cho lâu trong phiến gương nước giếng mát lạnh: Chốc chốc một vài giọt nước ngọt lại rời mạch đá tổ ong, thánh thót rớt xuống, tiếng kêu bì bõm. Ông cụ Sáu tỳ tay vào thành giếng nhờn nhờn rêu xanh, chỉ ngón tay xuống lòng giếng sâu thăm thẳm đến gần hai con sào và nói: “Chùa nhà ta có cái giếng này quý lắm. Nước rất ngọt. Có lẽ tôi nghiện trà tàu vì nước giếng chùa nhà đây. Tôi sở dĩ không đi đâu xa được là vì không đem theo được nước giếng này để pha trà. Bạch sư cụ, sư cụ nhớ hộ tôi câu này: là giếng chùa nhà mà cạn thì tôi sẽ cho không người nào muốn xin bộ đồ trà rất quý của tôi. Chỉ có nước giếng đây là pha trà không bao giờ lạc mất hương vị. Mà bạch cụ chúng tôi không hiểu tại sao ngọn đồi này cao mà thủy lại tụ. Địa thế chùa này, xem có thể dụng võ được…”. Chừng như sợ cụ Sáu bàn rộng tới những chuyện không nên trao đổi với kẻ tu hành đã lánh khỏi việc đời sống rồi, sư cụ vội nói lảng sang chuyện mấy cây mít nhà chùa năm nay sai quả lắm và kéo ông cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước. Theo một ước lệ rất đáng yêu đặt ra từ ngày mới làm quen với nhau, đã mươi năm nay, bao giờ uống nước trà của nhà chùa, ông cụ Sáu cũng được cái vinh dự pha trà và chuyên trà thay chủ tự.

Dạo này, chắc ông cụ Sáu bận việc nhiều nên đã mấy tuần trăng rồi mà không thấy vãn cảnh chùa uống nước thăm hoa, để cho sư cụ cứ nhìn thấy chậu Mặc Lan giò trổ hoa mà tặc lưỡi mỗi khi cùng bất đắc dĩ phải ngắt cắm vào lọ con. Dạo này cụ Sáu chỉ cho người nhà xuống xin nước giếng thôi. Và trưa hôm nay lúc lặng ngắm hai thầy trò người con ông cụ Sáu đem nước ra khỏi chùa, lúc trở vào, nhà sư già thở dài cùng sư bác chờ đấy:

- Ông cụ Sáu này, nếu không đam mê cái phong vị trà tầu, đam mê đến nhiều khi lầm lỗi, nếu ông ta bỏ được thì cũng thành một ông sư tại gia. Danh và lợi, ông ta không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú quý nhãn tiền không bằng một ấm trà tầu. Nhưng một ngày kia, nếu không có trà tầu mà uống nữa thì cái ông cụ Sáu này sẽ khổ đến bậc nào. Phật dạy rằng hễ muốn là khổ. Biết đâu trong bốn đại dương nước mắt chúng sinh của thế giới ba nghìn sau đây lại chẳng có một phần to nước mắt của một ông già năng lên chùa xin nước ngọt về để uống trà tầu. Mô Phật!

Ông cụ Sáu, hôm nay lấy làm thích cái người khách lạ đó lắm. Vì người khách vừa kể cho chủ nhân nghe một câu chuyện cổ tích. Lê trôn chén vào lợi chiếc đĩa cổ vài ba lần, khách kể:

– Ngày xưa, có một tên ăn mày cổ quái. Làm cái nghề hành khất là phải cầm bằng rằng mình không dám coi ai là thường nữa; thế mà hắn còn chọn lựa từng cửa rồi mới vào ăn xin. Hắn toàn vào xin những nhà đại gia thôi và cố làm thế nào cho gặp được mặt chủ nhân rồi xin gì thì hắn mới xin. Có một lần hắn lần vào đến nhà một nhà phú hộ kia giữa lúc chủ nhân cùng một vài quý khách đang ngồi uống trà buổi sớm. Mọi người thấy hắn mon men lên thềm, và ngồi thu hình ở chân cột một cách ngoan ngoãn, mọi người không nói gì cả để xem tên ăn mày định giở trò gì. Hắn chả làm gì cả, chỉ nhìn mọi người khoan khoái uống trà. Hắn đánh hơi mũi, và cũng tỏ vẻ khoan khoái hít được nhiều hương trà nóng tản bay trong phòng. Thấy mặt mũi tên ăn mày đã đứng tuổi không đến nỗi bẩn thỉu quá, chủ nhân bèn hỏi xem hắn muốn xin cơm thừa hay canh cặn, hay là hơn nữa, hắn còn muốn đòi xôi gấc. Hắn gãi tai, tiến gần lại, tủm tỉm và lễ phép xin chủ nhân cho hắn uống trà tầu với! Mọi người tưởng hắn điên. Nhưng tại sao không ai nỡ đuổi hắn ra và còn gọi hắn lại phía bàn cho hắn nhận lấy chén trà nóng. Hắn rụt rè xin lỗi và ngỏ ý muốn được uống nguyên một ấm trà mới kia. Hắn nói xong, dỡ cái bị ăn mày của hắn, cẩn thận lấy ra một cái ấm đất độc ẩm. Thấy cũng vui vui và lạ lạ, mọi người lại đưa cho hắn mượn cả khay trà và phát than tầu cho hắn đủ quạt một ấm nước sôi, thử xem hắn định đùa với bọn họ đến bực nào mới chịu thôi. Hắn xin phép đâu đấy rồi là ngồi bắt chân chữ ngũ, tráng ấm chén, chén trà từ chén tống sang chén quân, trông xinh đáo để. Lúc này không ai bảo hắn là ăn mày, mặc dầu quần áo hắn rách như tổ đỉa. Uống một chén thứ nhất xong, uống đến chén thứ nhì, bỗng hắn nheo mắt lại, chép môi đứng dậy, chắp tay vào nhau mà thưa với chủ nhân:

"Là thân phận một kẻ ăn mày như tôi được các ngài cao quý rủ lòng thương, thực kẻ ty tiện này không có điều gì dám kêu ca nữa. Chỉ hiềm rằng bình trà của ngài có lẫn mùi trấu ở trong. Cho nên bề dưới chưa được lấy gì làm khoái hoạt lắm”.

Hắn lạy tạ, tráng ấm chén lau khay hoàn lại nhà chủ. Lau xong cái ấm độc ẩm của hắn, hắn thổi cái vòi ấm rất kỹ lưỡng, cất vào bị; thế rồi xách nón, xách gậy, vái lại chủ nhân và quan khách xong hắn tập tễnh lên đường. Mọi người cho là một thằng điên không để ý đến. Nhưng buổi chiều hôm ấy cả nhà đều lấy làm sợ tên ăn mày vì ở lọ trà đánh đổ tung vãi ở mặt bàn, chủ nhân đã lượm được ra đến mươi mảnh trấu.

Ông cụ Sáu nghe khách kể đến đấy thích quá vỗ đùi khách mà kêu:

- Giá cái lão ăn mày đó sinh vào thời này thì tôi mời hắn ta đến ở luôn với tôi để sớm tối có nhau và thưởng thức trà ngon. Nhà này phần nhiều lại toàn là ấm song ẩm quý.

- Cổ nhân cũng bịa ra một truyện cổ tích thế để làm vui thêm cái việc uống một tuần trước đấy thôi, chứ cụ tính làm gì ra những thứ người ấy. Ta chỉ nên cho nó là một câu giai thoại.

- Không, có thể như thế được lắm mà. Tôi chắc cái lão ăn mày này đã tiêu cả một sản nghiệp vào rừng trà Vũ Di Sơn nên hắn mới sành thế và mới đến nỗi cầm bị gậy. Chắc những thứ trà Bạch Mao Hầu và trà Trảm Mã, hắn cũng đã uống rồi đấy ông khách ạ. Nhưng mà ông khách này, chúng ta phải uống một ấm trà thứ hai nữa chứ. Chả nhẽ nghe một câu truyện thú như thế mà chỉ uống với nhau có một ấm thôi sao?

- Thế rồi trong khi cụ Sáu tháo bã trà vào cái bát cổ rộng miệng vẽ Liễu Mã, ông khách nâng cái ấm quần ẩm lên, ngắm nghía mãi và khen:

- Cái ấm của cụ quý lắm đấy. Thực ra là ấm Thế Đức màu gan gà. “Thứ nhất Thế Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạnh Thần”. Cái Thế Đức của cụ cao nhiều lắm rồi. Cái Mạnh Thần song ẩm của tôi ở nhà mới dùng nên cũng chưa có cao mấy.

Cụ Sáu vội đổ hết nước sôi vào ấm chuyên, giơ cái ấm đồng cò bay vào sát mặt khách.

- Ông khách có trông rõ mấy cái mấu sùi ở trong lòng ấm đồng không? Tầu nó gọi là cái kim hỏa. Có kim hỏa thì nước mau sủi lắm. Đủ năm cái kim hỏa đấy.

- Thế cụ có phân biệt thế nào là nước sôi già và nước mới sủi không?

- Lại “ngư nhãn, giải nhãn” chứ gì. Cứ nhìn tăm nước to được bằng cái mắt cua thì là sủi vừa và khi mà cái tăm nước to bằng cái mắt cá thì là nước già chứ gì nữa.

Chủ khách cả cười uống thêm mỗi người hai chén nữa. Cụ Sáu tiễn khách ra cổng với một câu:

- Thỉnh thoảng có đi qua tệ ấp, xin mời ông khách ghé thăm tôi như một người bạn cũ; mỗi lần gặp, ta lại uống vài tuần nước. Hà, hà.

Năm ấy nước sông Nhị Hà lên to. Thảo nào mấy nghìn gốc nhãn trồng trên mặt đê quanh vùng, vụ đó sai quả ạ! Cái đê kiên cố đã vỡ. Nhưng vốn ở cuối dòng nước chảy xiết, nhà cửa cụ Sáu chưa đến nỗi cuốn phăng đi. Lúc nước rút, ở cái cổng gạch nguyên vẹn, hai mảnh giấy hồng đều của đôi câu đối dán cửa vẫn còn lành lặn và nét chữ vẫn rõ ràng:

Họ lịch sự như tiên, phú quý như giời,

Quất con ngựa rong chơi ngoài ngõ liễu.

Ta trồng cỏ đầy vườn, vãi hoa đầy đất,

Gọi hề đồng pha nước trước hiên mai (15)

NGUYỄN TUÂN

(Trích Vang Bóng Một Thời)

TIẾT 4

NGUYỄN ĐỨC QUỲNH

(1909 -1974)

Tiểu sử:

Ông sinh ngày 20-11-1909 ở Trà Bồ, Hưng Yên. Thuở nhỏ ông học ở nước ngoài, sau đậu kỹ sư điện học. Tác phẩm đầu tay của ông là Sống mà yêu, Bốn biển không nhà, viết về đời sống quân đội Lê dương ở Pháp, Bắc Phi, Trung đông. Tập thơ Mình với Ta tả đời sống chiến sĩ tả đối lập ở Xiêm La, Miến Điện, Ai Lao. Sau về nước, chủ trương Khoa học tạp chí (1931 -33) với Nguyễn Công Tiễn. Từ năm 1934 đến 1934 chủ trương Tiếng Trẻ, Thời Thế, Quốc Gia với Hàn Thuyên, tạp chí Văn Mới. Năm 1945 ông là một chiến sĩ văn hóa kháng chiến, cùng với các nhà văn của nhóm Hàn Thuyên như Nguyễn Đình Lạp, Trương Tửu, Đặng Thái Mai, Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Tuân...

Năm 1952 về Hà Nội, sau vào Huế, Sàigòn. Viết cho báo Đời Mới của Trần Văn Ân, từ đấy đổi bút hiệu: Hà Việt Phương, Hoài Đồng Vọng, Vương Thương Thương, Hoài Nam Hoài, Cung Phúc Chung vv... Cuốn truyện mới nhất vừa xuất bản Ai có qua cầu (ký Hoài Đồng Vọng) (Quan điểm loại mới, 1957).

Tác phẩm:

Nguyễn Đức Quỳnh viết khảo luận, làm thơ, viết tiểu thuyết. Loại biên khảo của ông rất công phu, tỏ ra là nhà văn biên khảo có trình độ và biết áp dụng sự hiểu biết vấn đề viết sách. Năm 1929 xuất bản Ta và Mọi, Phong Trào Tân Kỳ 1920, Các dân tộc lạc hậu miền Thượng du (1930), Khoa học phổ thông 1930, Kỹ nghệ làm pin điện (Giải thưởng Khai Trí Tiến Đức 1932), Nguồn sống Thái cổ, 1942, Ai cập cổ sử, 1943, Cận đông sử, 1943, Tây Phương cổ sử, 1944, Lịch sử thế giới, 1944, và tác phẩm như Mình với Ta (thơ, 1930) Bốn biển không nhà (1930), Những kẻ lạc đường (kịch, Giải thưởng Les Amis de l’Art Saigon 1939), Thằng Cu So (1941), Thằng Phượng, (1941), Thằng Kình (1942), (3 tập) Sắt đã vào lò (1943)… Đến nay, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết chính trị Ai có qua cầu (Quan Điểm loại mới, 1957) dưới bút hiệu Hoài Đồng Vọng.

Khuynh hướng:

Nguyễn Đức Quỳnh là nhà tiểu thuyết chính trị đúng nghĩa hơn là một nhà tiểu thuyết giáo dục. So những tác phẩm của ông, biên khảo và truyện chính trị luận đề, cả hai loại sáng tác giá trị và khảo cứu cùng một nghĩa, loại nào ông cũng tỏ ra có sở trường. Ông là nhà văn nhạy cảm, tưởng tượng phong phú, vốn học siêu đẳng, biết chế biến hiểu biết, thu thập viết theo lập trường định sẵn nuôi dưỡng trong bộ truyện Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình. Đó là một tập truyện trường giang tự sự đời ông. Thằng Cu So tên của họ Nguyễn Đắc đặt cho đứa bé mới chào đời. Sau đặt tên Phượng. Cho đến ngày làm giấy khai sinh, tên là Nguyễn Đắc Kình sinh ngày 20 tháng 11 năm 1911 ở Trà Bồ, tổng Ba Đông, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên (cùng với ngày sinh và ít hơn hai năm sinh tác giả). Ghi lại tục lệ thôn quê, qua hình tượng sống hào hứng, và ông đả phá mê tín, hủ tục, đôi khi cực đoan quá trớn (nhìn theo con mắt xã hội chủ nghĩa Trotsky) nặng phần lý luận chính trị, nên đôi khi làm giảm giá trị tiểu thuyết một phần nào (nghệ thuật viết truyện chính trị chưa cao độ). Tiểu thuyết của ông chịu ảnh hưởng lối viết Ma vie (Đời tôi) của Léon Trotsky(17); đôi khi thoát được méo mó nghề nghiệp, vì ông viết biên khảo như Ai Cập cổ sử, Lịch sử thế giới… đều có mục đích hướng dẫn người đọc tới lúc nhìn vào sinh hoạt tiến bộ thế giới với con mắt của chủ nghĩa xã hội, để canh tân xã hội.

Phân tích tác phẩm chính.

Điển hình cho tư tưởng văn nghiệp ông, ý chí nung nấu tư tưởng cải tiến xã hội mai hậu, người đọc có thể tìm hiểu ông, nói riêng, Hàn Thuyên, nói chung qua bộ tiểu thuyết chính trị tự luận Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình. Điển hình lập luận tìm hiểu chính trị, quốc gia với quốc tế, người đọc có thể đọc sách biên khảo của ông.

Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình, cuộc đời tác giả và anh em đồng thuyền (sau này) từ khi lọt lòng, đến lúc học lớp nhất tỉnh lỵ Hưng Yên. Đầu tiên, ông muốn đả phá mê tín của dân nông thôn. Không phải lối kêu gào ầm ỹ, nhưng bằng thái độ, hình tượng và rung cảm. Cùng đọc một đoạn, ông nói về hậu quả người đàn bà vượt cạn, truy nguyên từ đâu đến; và cảnh khổ thế nào?:

“...Ai lại mỗi bận chị ta có thể mang thì thôi, cái gì cũng tắc lẻm đả tuốt. Ăn cứ bất thùng chi thình, la liếm tuốt tuột. Rồi thỗng thễnh, chẳng chịu nén cho cái bụng nó bớt sưng sỉa lên. Giải rút bỏ lỏng, đi đâu là cứ phưỡn ra như ôm cái trống cái đại. Lại chẳng chịu mó vào việc gì để cho cái thai nó xắt lại một tý. Thế cho nên lúc đẻ mới bỏ mẹ...”

Ông tả chị Phó Thợn đến thăm bà Ký thằng Phượng như thế nào:

“...Rồi là bò rống lên vang cả xóm làng. Mà kể nó cũng liều thật. Ăn thì cái gì cũng biết ăn, mà lúc đau đớn cái thân xác một tý thì không chịu được.

Ối giời ơi! Mỗi lần nhà chị ta mà giở dạ thì cả tổng cũng biết tiếng. Mà chị ta đã giở dạ năm lượt rồi. Mà bận nào cũng như bận nào hễ quặn đau là cái mồm ngoạc ra, nó khóc, nó mếu, nó lẩm nhẩm như chửi cái đau, chửi đứa con trong bụng và lẽ dĩ nhiên chửi thậm tệ cái người đã làm cho nó đau: “Anh chồng lại là anh chồng lành như củ nâu. Ai đời con vợ nó cứ túm lấy cu cậu nó cấu, nó cắn, nó sỉa sói vào mặt”. Chỉ tại cái mặt mày. Mày làm khổ bà. Bà đã bảo mày, bà đã van lạy mày rằng đừng! Thế nhưng nó có nghe lời tôi đâu, ôi làng nước ơi! Bây giờ tôi khổ thế này thì nó có thương tôi đâu! Nó có đẻ đâu mà nó biết thương người đẻ! Ối chồng ơi là chồng, ôi hàng xóm điếc tai nhức óc… Rồi nó xé áo xé quần, vú vê cứ thỗn thện…”

Nguyễn Đức Quỳnh cho người đọc thấy một xen điển hình của bác Xã, bác Phó ở thôn quê không biết gìn giữ, thiếu kinh nghiệm ngay cả trong bổn phận của người đàn bà. Ông muốn cải tiến họ, bằng nhiều cách của xã hội dành cho họ. Đoạn văn trên, chứng tỏ ông là người nhận xét tỷ mỷ. Song chịu ảnh hưởng lối nhìn sự vật qua nhỡn kính phân tâm học Freud; nhiều khi đem vào văn chương cái thật không đẹp, không làm hài lòng cho thẩm mỹ quan nghệ thuật. Và đoạn trên cũng còn là gián tiếp ca tụng hình tượng mới mà tác giả muốn làm mẫu để tả sự nhẫn nại của bà Ký khi đẻ thằng Cu So:

“… Nghĩ đến chị Phó cắn chồng ấy, các bà lại tấm tắc khen bà Lý tốt nết…”

Ông Ký, chồng bà Ký, nhân vật điển hình người buổi giao thời, từ văn minh Khổng Mạnh đụng chạm với Tây học, tràn nhập vào nước ta của Chính phủ Bảo hộ. Điển hình cá tính, lối sống ông Ký được phô diễn qua hai mặt: chịu ảnh hưởng Nho học đến Tây học. Tân học phá nho học, ông muốn tìm một lối thoát cho con người bị thống trị. Ông phân tích nhân vật điển hình trong xã hội, nhất là vào thời kỳ nhố nhăng. Vì thế, con người ông Ký là con người sống trong lề lối nho học, muốn giữ nghĩa khí nho sinh. Nào trai tài dăm bẩy thiếp, cuộc sống của vợ lẽ không cần đếm xỉa tới: cơm thừa, canh cặn, ngủ nhà ngoài. Nói như lối thơ Hồ Xuân Hương:

“Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh lùng

Chém cha cái kiếp lấy chồng chung”

Nên Nguyễn Đức Quỳnh diễn tại cảnh đó là thế đấy:

"...Ấy ông Ký đã lấy vợ tỉnh rồi lại có vợ lẽ nhà quê, rồi phải bỏ vợ tỉnh vì "cô ấy không chịu làm lẽ" ai cũng chỉ vì bà Ký mảnh người. Mà bà Ký hai bây giờ đã chịu cực nhọc bao nhiêu năm, mới được ông Ký nhận cho làm đầy tớ không công. Vì mỗi lần có ai hỏi đến bà là bà Cả nói: "Ấy nhà neo người làm nên tôi cho nó về giúp đỡ tôi để hầu hạ thầy nó và các cháu". Mà mỗi lần xích mích với bà Cả về chuyện bà Hai thì ông Ký lại trì triết “bà lấy nó bà mua nó về chứ tôi mua, tôi lấy về, đấy à? Mà bà phải lôi thôi với tôi. Nhưng dù sao bà Hai cũng đã biết ngậm đắng nuốt cay, biết chan cơm bằng nước mắt, luôn mười ba năm trời rồi mới được hai mặt con với ông Ký. Vô duyên cho bà, cái thằng Bờm nó lại lác mắt thành thử cuộc đời buồn tẻ của bà lại buồn thêm, bà chỉ biết cắn răng chịu vậy, chứ biết làm sao?

Bà Hai đành yên phận nuôi con chồng, có phải lại chăm bẳm hơn con mình. Vì đã luôn mười ba năm nay, người ta dạy bà bổn phận kẻ làm lẽ là thế nào phải coi con mình là con thêm, con vợ cả mới chính là con thật. Bà đã bồng bế, nâng niu người con cả bà Ký. Rồi đến người con gái thứ hai, bà cũng lại bú mớm vì cùng năm bà Cả sinh con này, thì bà Hai cũng mớm con thật mình bằng gạo sống, để dành sữa cho con họ. Vì bà Cả bao giờ, cũng vẫn không bao giờ đủ sữa nuôi con…”

Quan niệm lấy vợ lẽ, bà Cả bao giờ cũng giữ vai quan trọng (có khi chồng chọn, phải được bà cả phó thự) hoặc bà cả chọn, để giữ thứ bậc trong gia đình. Lấy vợ lẽ cho chồng lại còn được họ hàng tôn sùng là vợ cả biết điều, chia sẻ yêu đương, không tham lam. Có như thế thì: “Đồn vui nào thấy đâu vui. Bưởi non tháng tám có cùi không tôm”. Giàu có mà không năm thê, bẩy thiếp, chưa danh tiếng, cũng như phải có chức bát phẩm mua cũng hả lòng. Như Nguyễn Đình Lạp tả cảnh đi lấy vợ lẽ cho chồng (bác Vuông) trong Ngoại Ô, không khác gì bà Cả lấy vợ lẽ cho chồng: (lấy vợ là mượn đứa ở không công)

“...Nuôi người ở thì vừa mất tiền công, vừa không được chắc chắn. Chỉ cưới cho chồng vợ lẽ là tiện hơn, là lợi hơn cả mọi bề. Bác thịt trâu đã mách cho một đám… Sỡ dĩ bác gái định làm sang trọng là vì bác muốn cho bác Chương Tròn biết tay mình, phải kiêng mình là một gái đảm có thể gánh vác được giang sơn nhà chồng...”

(Ngoại Ô, trang 94)

Tả sự mê tín (quá tin tưởng vào huyền bí, mất lý lẽ) ông cho ta hiểu thêm một nhân vật bên hàng xóm (bà Quản) khoán thằng bé cho Trời Phật. Tục lệ này rất đúng với nhà hiếm con, thường gửi con cho Trời, Phật, hoặc làm con nuôi cho gia đình mắn con, cho là dễ nuôi. Nguyễn Đức Quỳnh nhận xét về phong tục này, đồng thời đả kích rất có lý do:

“...Bà lại còn cẩn thận hơn nữa lấy bùa và thuốc trừ tà về đeo vào cổ thằng Cu. Không biết bà đã tích trữ từ bao giờ những xác rắn cạp nong, cạp nia rồi đem ngâm vào máu kinh nguyệt, bây giờ mang ra vắt vào hàng rào vào kẽ tường hoa quanh nhà ông Ký để cho ma quỷ xa lánh các vật tạp uế kia. Bà tin là cháu bà thế nào cũng ăn chơi như thường. Vì ngoài phép đã dùng bà lại còn sợ cả tranh ông tướng vẫn dán ở cánh cửa đền chùa mang về đốt lên, pha cho cháu uống cơ mà…”

Thằng Cu So đầy tháng phải làm mâm cơm cúng, Nguyễn Đức Quỳnh không bỏ sót cả cái hắt hơi đứa trẻ, xong tiếp theo “Sống lâu trăm tuổi”. Ai ở nhà quê, ai đã ở trong cảnh có con cầu tự, ai đã thấy sự nuông chiều con của các bà con một (con trai) tất nhiên sẽ phục Nguyễn Đức Quỳnh đã tỷ mỷ:

“...Trên một mâm đồng đánh sạch bóng lộn lên, bà đã bày đủ thứ bẩy nắm xôi gấc, bẩy con cua thật to luộc chín, bẩy quả trứng gà nhuộm đỏ…”

Tả một buổi ăn cỗ, họ đã nắm xôi hay gắp thịt đấm miệng cho Thằng Cu So. Cu So thấy họ dử rồi thì có thái độ gì? Ông viết với giọng mai mỉa, châm biếm sâu độc. Nhưng đúng:

“...Lúc người nhà ăn cỗ, họ đã nắm xôi hay gắp thịt đấm miệng cho thằng Cu So, Cu So thấy họ dử dử, tưởng đâu là vú, cong môi lên đớp, họ phá ra cười, khen thằng bé láu quá… Các cô mới về nhà chồng, tranh nhau hít cu nó, cứ hôn má nó chùn chụt làm đôi má đỏ hồng sẵn lại đỏ rực lên. Họ cắn đùi nó. Họ ngậm vào bụng nó rồi thổi ra kêu phì phì. Họ vần, họ mơn, họ vỗ nó. Họ tranh nhau bế nó, nựng nó, chòng nó. Cô nào được nó phát vốn cho một bãi nước đái thì đắc ý khoe ầm lên để người ta nếu “Có thế mới được lây. Phải gái có con như bồ hòn có rễ, ai lấy chồng mà chẳng mong có con” Lại có con kháu khỉnh như Cu So. Thế cho nên mỗi lần nó rỉ nước đái ra, các cô cậu lại bảo nhau “Này may chửa”. Nhưng có cô chưa có chồng con bè hè thì các bà kia đều đồng thanh dạy khôn “Thôi xin chị rồi mai kia sớm lại không vừa và cơm vừa bốc cứt ấy à?...”

Người đọc sáng tác của Nguyễn Đức Quỳnh không thấy cái đẹp thôn quê, hình ảnh nông thôn quyến rũ như Quê mẹ của Thanh Tịnh; hoặc không phải là lối đề cao cần cù nông thôn như Con trâu của Trần Tiêu. Nguyễn Đức Quỳnh đưa ra cổ hủ, xấu xa mà ông cho là tàn tích, mê tín, định mệnh, phúc đức tổ tiên đáng bỏ. Cái máy móc con người ăn sâu trong máu chủ nghĩa xã hội, nên nặng phần lý luận, bài xích tất cả những gì là nền móng gia đình, xã hội và cả đến lòng tin tưởng con người (không phải là mê tín).

Quyển Thằng Cu So dầy 186 trang, ông viết hoàn toàn về cuộc đời đứa trẻ lọt lòng cho đến khi lên năm, sáu. Tổng quát, có những đoạn đặc sắc, giọng văn đặc Việt Nam; đầy hình ảnh quê hương, dân tộc; nhưng giọng văn toàn cuốn truyện khô khan, kém phần hứng thú. Cuốn này là phản đề của tiểu thuyết. Thằng Phượng lên tám (1917) có người anh cả học Trường Bưởi Hà Nội về, anh Trân. Dưới con mắt ông chịu ảnh hưởng Âu học toàn diện; con người sống theo tác phong máy móc, ước lệ, thiếu tinh thần Đông Phương. Nên ông Ký không được mãn nguyện lắm, sau này Trân không thể nối nghiệp bố. Sở dĩ thế, bố cũng đành lòng và vui lòng cho con học đến nơi đến chốn, sau có thể làm quan với phe thống trị. Bố vẫn chiều chuộng con là vậy.

Rồi Thằng Phượng lên tỉnh Hưng Yên, Nguyễn Đức Quỳnh cho thằng Phượng tin về sức mạnh, chí khí, trước đó thằng Cu So không tin định mệnh. Nào là phúc đức hão huyền, e dè người Đông Phương, khi bà Lý dắt con qua phố, thằng Phượng bị bọn trẻ con tỉnh lỵ chế giễu rằng, gọi mẹ là bu, thằng Phượng bực mình đánh nhau với chúng. Ông thuật lại ra sao? hãy cùng đọc:

“À thằng Phượng láo nhỉ? dám đánh em tao à?

Phượng hất hàm:

- Tao đánh đấy!

Thằng kia sấn lại gần:

- Ừ có giỏi mày đánh nữa đi tao xem. Phượng quai luôn một đấm vào cằm thằng kia. Thằng đó xoa má kêu: “Mày đánh nữa đi ông xem nào”? Phượng lại quai một quai hàm nữa. Thằng kia đau quá ôm đầu chạy la “Ừ được ông biết mày đánh ông nhé”. Lũ trẻ nhà giàu thấy đụng đến thân có phần nguy, nhớn nhác gọi nhau về bảo:

- Về mách ba cho nó.

Phượng chống tay ngang vế, hếch mắt ngó theo quát:

- Ông thách đấy.

Nhưng bà Ký đã cúi xuống âu yếm bảo con:

- Thôi tha cho chúng nó con ạ.

Bà Ký dưng dưng nước mắt. Bà mừng rằng thằng Phượng sẽ không như ông Ký, một mình dám chống chọi với cả làng suốt cả đời mà lúc nhắm mắt còn dặn con cháu “Bất độc bất anh hùng”. Lúc ấy bà mới phục tài xem tướng của chồng, vì ông Ký đã chẳng bảo là bao nhiêu lần rằng “Thằng Phượng tất là phải xuất chúng”. Cái giọng nói của nó đĩnh đạc lắm, nó không lèm bèm một tí nào. Cái mắt nó già dặn gân guốc lắm, nó không ton hoẻn, nó không đạo đức(18) . Nó rồi nó khá to. Mà thực đấy...!

Có lẽ muốn thằng Phượng tin vào sức mạnh, nên Nguyễn Đức Quỳnh cho thằng Phượng như thế là anh hùng. Không phê phán anh hùng tính cần phải có trong con người, dầu còn bé đi nữa; nhưng phê bình tác giả cho Phượng anh-hùng-hóa không đúng chỗ, không đúng lúc. Vì thế lố bịch, phản lại anh-hùng-tính của nó, dầu thắng bọn nhà giàu chăng nữa. Bằng sức mạnh thật, bọn nhà giàu nhát gan thật, nhưng tác giả quên hẳn sự có mặt bà Ký ở đấy, đã có thể tin rằng sức mạnh là gà cậy gần chuồng. Người đọc sẽ phải hiểu rằng sở dĩ bọn kia không dám đánh lại thằng Phượng, rất có thể vì sự có mặt bà Ký ở đó. Và nếu bà Ký dễ tin con có sức mạnh như thế, thì tâm lý nhân vật người mẹ trong đoạn này hỏng, nông nổi quá! Một vài đoạn nữa, Nguyễn Đức Quỳnh bài bác những định mệnh, phúc đức, đôi khi hành động quá trớn, cực đoan, ghép cho đúng ý nghĩ, tư tưởng, lập trường, thái độ, hành động chưa được khảo nghiệm, so thực tế liệu có thể xảy ra như vậy ở tương lai không?… Người đọc thấy hẳn thiếu nghệ thuật truyện tự luận; hơn nữa còn mất hẳn tính chất tự sự là phải thật, rất thật:

“...Thế cho nên trông thấy cha nó là thấy số, mặc dầu chẳng hiểu số là thế nào? Là ra sao? Mãi rồi cũng quen đi, nó nhận mang máng thấy rằng: cái gì nó muốn, hay cái gì xảy ra tự nhiên là số cả. Rồi hễ nó đứt tay khi người chơi dao là nó bảo số đấy, hễ nó vấp ngã vỡ mày vì hấp tấp là nó bảo số đấy. Cái sẹo ở ngay dưới con mắt nó, dài bằng đốt tay, cái sẹo suýt nữa làm cho nó chết toi, cái sẹo đã là kỷ niệm hôm 5 tháng 5, nó lên năm nó giành với anh nó bưng bát rượu nếp rồi ngã, rồi vật má vào mảnh bát, cái sẹo đó nó cũng bảo số đấy. Có một hôm nó đứng đái bậy ngay ở đầu phố, gặp một thầy đội xếp quất cho cu cậu một roi quắn đít, thằng Phượng thản nhiên hạ một câu “số đấy” làm cho viên cảnh sát ngơ ngác ngó thằng bé mới lên 8, 9 đó…”

Ngoài số đoạn rườm rà vô lý, Nguyễn Đức Quỳnh chỉ nhằm một tác dụng: đả phá mê tín dị đoan. Nhưng thái độ hình tượng trên không mảy may ảnh hưởng gì đến kết thúc mà Nguyễn Đức Quỳnh muốn thâu lượm; hóa ra chỉ làm độc giả buồn cười, đọc xong quên đi cách nhanh chóng.

Nhưng Nguyễn Đức Quỳnh lại cho chúng ta thú vị và có cảm tình với ông hơn: là ở đoạn dưới đây, trả lại cho thằng Phượng đúng với nguồn rung cảm chân thành ở tuổi nó:

“…Thế cho nên hễ gần mẹ nó là nó thấy đức, nó thấy rằng ngay thẳng, tử tế, tốt là rồi được sung sướng, mặc nó chẳng hiểu thế nào là phúc đức. Vì vậy mà nó hay cho ăn mày cơm nguội, nó hay chơi với bọn ăn mày, bọn nghèo khó, nó chỉ muốn hóa ra ngay Thạch Sanh, ra Hoàng Trừu, ra Phạm Công. Vì vậy mà nó ghét cay ghét đắng bọn nhà giàu..."

Phúc đức tại mẫu, hoặc con hư tại mẹ, cháu hư tại bà, ca dao phương châm xử thế của người Việt nhận chân giá trị nhân sinh quan là vậy. Ở đây ông bắt đầu hướng dẫn thằng Phượng cần phải hiểu tư tưởng bọn nhà giàu; mà theo ông, giai cấp, lập trường ấy đều nên khinh bạc. Trong Thằng Kình về sau rất nhiều hành động chống đối tiếp nối. Cho nên kẻ trọc phú ngày nay đứng tuổi có hành động đê hèn, đốn mạt, nhát gan, sa đọa; người đọc không lấy làm gì lạ, vì Nguyễn Đức Quỳnh nhận xét có lý để cho rằng con người thành hình tinh thần từ năm mười tuổi, phân tích cho thấy thế giới bọn nhà giàu hun đúc hệ thống tinh thần giai cấp (dù là hèn nhát, ích kỷ có lợi riêng) sa sụp từ lúc nhỏ. Nguyễn Đức Quỳnh tiếp nguồn rung cảm đúng xác, hợp thời gian, tuổi tác. Ở đây với tuổi suy luận hợp với tuổi Phượng:

“… Thằng Phượng yêu mẹ nó vì nó thấy bà Ký không hề bao giờ làm việc gì, nói câu gì đáng kể cho nó ghét cả. Đã nhiều lúc bà mắng nó, bà đánh nó, bà bắt nó chịu nhịn đói, bà không cho nó theo bà ra chợ để vòi quà. Tuy nó giận, nó đòi, nó bùng bỉu, dậm chân, vò đầu, nó sụt sùi, mếu máo, nhưng xong lúc đó thì thôi, gần bà nó lại thấy sung sướng lắm, yên ổn, êm đềm, chắc chắn lắm. Mỗi buổi tối được bà phe phẩy, quạt đuổi muỗi cho nó thì nó thấy hình như nó có đủ cả mọi thứ, nó không cần đến cái gì nữa, giá thầy nó đi vắng, nó cũng không cần, giá lũ trẻ đi chơi hết cả, nó cũng không cần, giá bãi tập bắn trong Thành, giá chùa Chuông, Văn Miếu, giá cầu sông Cái không có nữa, nó cũng không cần. Bu nó là tất cả đối với nó…” Đến đoạn tả quyến luyến của người mẹ phải tránh con; ông đưa người đọc trở về với cảm giác thật đúng, thật thực, thật hay, đối với ai qua cầu. Đây:

“…Mãi sau này, bà Ký mỗi lần muốn về quê lại phải tìm ra một kế riêng. Vì trốn thằng Phượng thì không nổi - hình như nó có khiếu biết trước ngày mẹ nó về quê, nên ngay từ tối hôm trước ngày bà Ký định thu xếp đi là thôi đó, dù ngoài phố có rước đèn, có hòn lăn đường, có xe bình bịch nổ ầm lên nó cũng vẫn ở chịt trong nhà, bu nó đi đâu nó đi đấy, bu nó ngồi đâu nó ngồi đấy thật là một cái đuôi! Tha hồ cho bà Ký quát tháo, mắng riếc thằng Phượng cứ như con đỉa đói nhằng nhằng bám riết lấy mẹ

- Ô hay! Hôm nay làm thế thì còn làm ăn gì nữa, hở cái thằng này?

- Con có làm gì đâu?

- Mày làm người ta thiu thịt suốt ngày suốt đêm.

- Con có quấy gì đâu?

- Thế mày không rời tao ra nửa bước là “ngãi”(19) làm sao kia chú?

- Có phải mai bu về quê không nào?

- Ai bảo mày thế?

- Không, chẳng ai bảo con cả.

- Thế sao mày biết?

- Con biết vì con thấy như mai bu về ấy… con biết.

- Không, bu không về đâu.

- Thế thực bu không về à? Bu đừng về đấy nhé.

- Ừ, bu không về. Phượng cứ đi ngủ ngoan thì bu không về nữa. Đi.

- Ừ, thế là bu không về đấy, thực đấy bu nhá!

Thế là thằng Phượng yên trí đi ngủ thẳng một mạch đến sáng không hề vẫy tai.

Hôm sau nó lại hí hởn vui mừng vì nó cũng được về quê với bu nó. Bà Ký chất đầy lên xe toàn những bị, những bao tải, những tay nải, những đồ để về quê, tải gạo tỉnh về cho cả nhà ăn.

Cỗ xe cũ cạch cạch cứ rên rỉ trên con đường gồ ghề. Nó sóc như nhẩy cỡn. Nó vật bên này, vật bên kia, lảo đảo như say. Bà Ký đi bộ với bu bé. Bu bé cõng thằng Phượng vừa đi vừa kể chuyện cổ tích cho nó nghe.

Bùi tai, cậu ta ngủ trên vai bu bé. Khi cậu ngủ đã say, bu cậu mới lên xe, còn bu bé lại cõng cậu trở trở lại tỉnh, trả lại thành phố đứa con thành phố…”

Bây giờ Nguyễn Đức Quỳnh không tả thuở ông lên tám nữa, cho thằng bé nghĩ như lúc ông ba mươi. Lại thấy ông đưa thằng Phượng vào con đường của triết gia thích suy luận, như cô Lan của Đẹp tiểu tư sản Khái Hưng khi nói chuyện với Nam về hội họa, về văn chương, như lúc Lan không ở cái tuổi 17; mà là người đã từng trải qua tất cả nhân tình thế thái:

“…Thế cho nên hễ gần anh Trân nó, là nó thấy Chí là cần, là đủ, Chí là tất cả. Có chí là phải thuộc… ư ư. Có chí là phải đỗ sép phi ca. Có chí là phải học trường Bảo Hộ. Có chí là làm ký lục, thông phán, quan lớn…!... Ai cũng khen nó, nhưng ai có biết đâu rằng lối học tắt như thế, lối học chữ như trước khi học vần như thế? Đã có ảnh hưởng rất lớn đến đời thằng bé kỳ khôi ấy? Có ai biết đâu rồi đây, trong mọi trường hợp thằng Phượng đã xét đời bằng lối xét tắt, nghĩa là lấy kết quả suy việc làm, nó lấy quả mà xét nhân, nó chỉ nhận được cái gì là đúng khi cái đó đã thành rồi. Sau này học tính nó tìm ra câu giải rồi mới mặt tính, học máy, nó tìm ra bộ máy đã áp dụng những phép khoa học nào rồi mới đến các phép kia. Tóm lại suốt đời thằng Phượng rồi đây nó chỉ sống bằng lối sống tắt, nó chỉ ưa theo con đường tắt, nó ghét con đường thẳng mà dài…”

Thằng bé lên tám biết hành động rồi mới suy luận quả là thằng bé chủ nghĩa chính trị máy móc! Qua phút lý luận buồn tẻ, và không đúng chỗ, không hợp tâm trạng thằng Phượng, thì Nguyễn Đức Quỳnh đền bù cho thưởng thức đoạn văn dí dỏm, hóm của thằng bé cũng lý luận, nhưng đúng với mức hiểu biết. Người đọc cảm được sinh động hiểu thêm nếp sống quê hương ở thôn quê.

“… Năm nay thằng Phượng đã lớn, rồi nó mới hiểu hai tiếng “Thành hoàng” nó vẫn dùng để chửi rủa chúng bạn, là hai tiếng mà dân làng hễ ai nói tới đều có vẻ kính cẩn, sợ sệt, là hai tiếng thiêng liêng. Thành hoàng là một vị thần coi cả một làng. Ngài ngự ở trong đình. Cả làng phải tế lễ ngài. Ấy thế mà xưa nay thằng Phượng lại coi "Thành hoàng" cũng thường như tiếng "Tiên sư", "Tổ sư", "Cái cóc", "Cái đếch" ấy. Thế có chết không chứ. Thì ra ngài là một vị thần có sắc vua. Ngài oai linh lắm. Dân làng làm ăn mát mẻ cũng nhờ ngài.

- Đấy con có thấy cái kia không?

- Đâu hở thầy?

- Đấy cái bia bằng đá ở bên kia kìa.

- Trông như cái cột lô mét ấy phải không thầy?

- Thằng này chỉ ví sằng ví bậy thôi nào, phải tội chết!

- Sao lại phải tội hở thầy?

- Vì bia thuộc về đình, đình là nơi thờ thần, không được nói nhảm.

- Ờ, ờ bia thuộc về đình, đình là nơi thờ thần, không được nói nhảm.

- Bia lại có cả chữ nữa thầy ạ.

- Ừ hai chữ hạ mã đấy.

- Hạ mã là gì hả thầy?

- Là xuống ngựa. Ai qua đình phải xuống ngựa.

- Sao lại phải xuống ngựa?

- Vì không thì Ngài vật chết tươi.

- Ngài là ai hở thầy?

- Ngài là ngài Thành hoàng chứ là ai nữa?

- Thế Ngài ra ngài vật à?

- Không việc gì phải ra. Ngài ra oai vật…

- Thế thì lạ quá nhỉ! Thế nhưng nhỡ đi xe qua.

- Thì phải xuống xe.

- Thế đi xe đạp?

- Cũng phải xuống xe đạp.

- Thế nhỡ đi tu bin chạy thật nhanh?

- Đi tu bin cũng phải xuống.

- Nhưng nhỡ chạy nhanh quá không trông thấy bia rồi cứ phóng bừa đi sao, hở thầy?

- Thì Ngài vật chết.

- Thế thì Ngài đuổi kịp cả tu bin cơ à thầy?

- Kịp lắm chứ lỵ. Này. Vào đình con phải lễ phép, đừng có lấc cấc rồi lại oan gia đấy, Phượng nhé.

- Vâng, nhưng còn oan gia là thế nào hở thầy?

- Oan gia là nhỡ ra mày láo lếu rồi Ngài…

- À con biết rồi. Hễ con nghịch ngợm thế là Ngài…

- Thôi đừng nói dại nữa đi con. Cứ bảo ngồi đâu thì con ngồi đó thế là Ngài không… không phạt đấy nghe chưa?

Thằng Phượng tần ngần vừa thấy cha nó bước qua cổng đình mà không xuống kịp. Đến giữa sân, sắp vào đình thì bỗng nó kéo áo ông Ký hỏi:

- Thầy! Thế nhỡ đi tàu bay thì hạ mã thế nào được?

- Đi tàu bay, ai đi tàu bay?

- Con hỏi: thế nhỡ đi tàu bay thì hạ mã thế nào được?

- Mày tẩn mẩn quá, đi tàu bay… ai lại đi tàu bay qua cửa đình An Nam, ta lại có ai đi tàu bay? Mà dù có người đi tàu bay thì họ bay ở trên giời, qua thế nào được cửa đình mà hạ tàu bay.

- À ra thế. Bay ở trên thì ra không việc gì.

- Giữa lúc ấy, ông Ký xách thằng Phượng qua bậu cửa bức bàn vào đình thì thằng con của ông nó nghĩ thầm: "Được" mai kia mình phải đi tàu bay trên giời cho khỏi phải vật chết tươi..."

Mặc dầu Nguyễn Đức Quỳnh lồng tư tưởng chính trị nhìn bằng con mắt tiến bộ xã hội chủ nghĩa, vào hành động, thái độ của Phượng; nhưng là một xen rất tâm lý, đả phá có hệ thống, rất thực; rất sát trình độ hiểu lý luận của Phượng. Bời vì, ông dẫn chứng, chúng ta đi từ một thái độ mê tín đến lẽ, mà ông không cần nói ra sự đả kích, lại là đả kích sự vô lý với một nghệ thuật tiểu thuyết cao. Có ai lại nghĩ đến hạ mã với một chiếc phi cơ, đi qua đình phải hạ mã; vậy phi cơ bay trên đình thì vô lễ biết bao nhiêu?

Nguyễn Đức Quỳnh diễn tả thù hận truyền thống dân nông thôn, cha truyền con nối, tả rất linh hoạt, biểu hiện rất sống:

“...Hai đứa trẻ đã trở nên đôi bạn thân. Chúng ăn kẹo chung với nhau. Chúng cầm tay nhau rung răng rung rẻ, nhảy lò cò trên sân đình. Hình như chúng quyến luyến nhau lắm.

Ấy thế mà họ Nguyễn đắc (Phượng) Nguyễn hưng (bạn Phượng) thù nhau từ kiếp nào người ta không biết nữa. Rồi hai người của họ không được giao thiệp với nhau người này không lảng sang giới phận người kia thì vỡ đầu, vỡ mặt. Hai đứa trẻ không bao giờ biết đến... “Nhưng “Chú Phượng”...Thằng Phượng quay lại thấy thằng cháu nó, thằng Ương là đứa đã làm cho nó khóc hôm mồng năm với chuyện hai cây lô mét, đang chu chéo gọi nó. Thằng Phượng rời tay bạn xóm Trại ra, chạy tới cổng. Thằng Ương vẻ mặt hầm hầm gắt:

- Ai bảo chú được chơi với nó?

- …

- Nó là cánh Nguyễn hưng đây. Chú chết, hễ ông mà biết chú chết.

- Thằng ấy là cánh họ Nguyễn hưng.

- Thì nó ở xóm Trại mà lỵ. Chú thì chết với ông.

Thằng Phượng cắm đầu chạy miết đến trước mặt thằng bé kia, hằn học nói:

- Mày họ Nguyễn hưng phải không?

- Ừ tớ họ Nguyễn hưng đấy.

- Hừ! Thế thì họ Nguyễn hưng mày đã ném xương vào mặt họ Nguyễn đắc tao rồi. Thế thì họ mày đã bỏ tù bác ruột tao. Họ mày đã làm cho bác ruột tao chết bỏ làng, chết mất xác! Ai bảo mày lại ở họ Nguyễn hưng? Thôi thế tao không thể chơi với mày được nữa?..."

Có đoạn đặc sắc đến thế, giọng văn không thể một nhà văn có, đó là bản sắc độc đáo của ông. Như Nguyễn Tuân và giọng khinh bạc kiêu sa ấy, không dễ có ai thay thế được! Vì người đọc không cần bình luận thêm, tự hiểu thêm thù hận cha truyền con nối, đào sâu chôn chặt như thế nào rồi? Tiếp đoạn dưới, Nguyễn Đức Quỳnh ba mươi khi viết sách tự luận, lại cho Nguyễn Đức Quỳnh sớm suy nghĩ xa nên lại thấy ông trở về với lối viết tự sự luận đề chính trị thiếu nghệ thuật cao, kém hay và phi lý. Vì thế giả tạo, trơ trẽn. Chúng ta từng biết rằng đại văn sĩ triết gia J.J. Rousseau còn mắc lỗi khi viết Les confessions (Những lời tự thú) cùng lỗi tương tự.

“...Thằng Phượng cũng như đám dân ngu ngốc, đã thù người khác họ, khác tên với mình, rồi thì như mù, như điếc, nó ruồng rẫy cả bạn nó…”

Người đọc có bao giờ trách, tại sao chúng nó lại không chơi với nhau đâu? Vì họ cũng tự hiểu rằng sự biết vượt xa thằng bé có thể có được; nhưng với tuổi nó, sự biết vượt là giỏi rồi, còn hành động vượt muốn có; làm sao đứa trẻ thực hiện được? Lẽ, bao nhiêu cản trở gia đình, bố mẹ; bản thân nó còn phải sống nhờ.

Ông cho câu truyện trong Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình tiến điều hòa theo thời gian (hành động diễn tiến thời gian) với suy ngẫm, hành động, nghĩa là tiệm tiến tình cảm, lý trí với tháng ngày, thì tiểu thuyết tự luận mới không mắc phải bệnh viết tự truyện phi lý, giả tạo, bịa đặt thiếu uyên nguyên chính đáng. Ấy thế mà ông lại cho người đọc thấy truyện ấy kể lại như hồi ký, nên mất hẳn nghệ thuật và tỏ rõ kỹ thuật đoạn này kém:

“… Chính việc ấy mà Kình, (Bây giờ Phượng đổi tên) đã có một người bạn thân RỒI SAU ĐÂY SẼ AN ỦI NÂNG ĐỠ NÓ “GẦN NỬA KIẾP NGƯỜI”(20)

Có phải đây là hồi ký không? Nó đang ở tuổi lên mười, nó làm sao biết được Trấn (bạn nó) sau này sẽ an ủi nâng đỡ nó phía sau của NỬA KIẾP NGƯỜI? Cũng vẫn mắc khuyết điểm, muốn viết cuộc đời Kình tiệm tiến, lại cho thằng Kình hiểu biết sự kiện trước xảy ra trong tương lai (J.J. Rousseau cũng mắc lỗi này trong Les Confessions) như nhắc ở trên:

“… Lần đầu tiên nó đứng cạnh một người con gái lạ. Sao mà người ấy lại giống Chiêu Quân, giống Mạnh Lệ Quân, giống Phàn Lê Huê, giống Ngu Cơ, giống Hạnh Nguyên, giống Kiều Nguyệt Nga, giống Vương Thúy Kiều đến thế..."

Người đọc có cảm tưởng Kình là một ông Thánh đọc sử Tàu, văn chương ta vanh vách như ông cụ năm bảy mươi lão luyện văn chương, chữ nghĩa, hứng cảm, chán chường nhân tính thế thái, ẩn dật cao sơn để bây giờ luận về hình ảnh ấy…

Thằng Phượng (215 trang), ông viết hấp dẫn linh động hơn Thằng Cu So, người đọc thấy lối kể lại (conte) tâm tư biểu hiện tiểu thuyết hơn. Hy vọng thằng Phượng, cứu cánh lý tưởng đời mai hậu, ông kết luận. Bằng:

“...Thưa con chỉ muốn làm một việc đẹp đẽ như khi vua Quang Trung cưỡi voi vào cửa Ngọ Môn, đón nàng Ngọc Hân về làm Hoàng Hậu…”

Hy vọng tác giả không nhỏ, mà thằng Phượng tuổi ấy làm sao mà biết được thế, ông chưa cho người đọc biết trước nó có ý ấy để hợp lý, hợp tình, hợp cảnh hơn. Thế thôi.

Thằng Kinh (396 trang) bộ truyện tự luận dầy viết đời thằng bé từ lọt lòng đến năm lên mười. Tác giả rất giàu tưởng tượng. Bây giờ, phân tích Thằng Kình đời sống giáo dục cuộc đời nó bước va chạm đầu tiên ra sao? Người đọc nhận thấy tác giả sang phần hướng dẫn nhân vật tranh đấu giữa hai giai cấp giàu nghèo. Đi vào phần đặt vấn đề và đồng thời ở cuối tổng hợp. Giai cấp nghèo sống thế nào? Suy tưởng, hành động ra sao? Giai cấp mại bản tư sản, thư lại phong kiến sống ra sao? Ảnh hưởng hai bên sống chung va chạm thế nào? Sự thẩm thấm nhu cầu tương phản (réciproque) đến đâu? Con đường hai giai cấp hướng về nẻo nào? Sử Điền cho rằng: "Trời không cho riêng một ai giàu, ý định Trời muốn ký thác cho người nghèo, Trời không dành riêng cho một ai sang, ý Trời muốn ký thác cho những kẻ hèn đấy" Thằng Kình, đại diện giai cấp nghèo có tinh thần hướng thượng, Chiêu Quân (Ngọc) đại diện cho sự giầu (có thêm Trấn). Hai nhân vật điển hình giầu có là bạn với Kình, giai cấp nghèo được lâu bền không? Sự xung đột ra sao?

Thằng Kình học giỏi nhất lớp nhì trường tỉnh Hưng Yên. Hãy nghe quan Đốc học đọc diễn văn, khi Kình được thưởng:

“...Chắc các anh cũng thừa biết rằng Chính phủ để ý thưởng học trò... nhất là học trò nghèo. Nên các anh đã biết mỗi năm nhà nước có trích công quỹ hàng tỉnh một món tiền kha khá, nhất là đối với học trò nghèo ít nhiều bao nhiêu mà chẳng là quý… Vì nhà nước cấp đến… một món tiền như thế, kể cũng quá lắm rồi, các anh thử tính xem nước ta có bao nhiêu tỉnh, mỗi tỉnh có bao nhiêu phủ huyện, mỗi phủ huyện có bao nhiêu tổng…”

Nguyễn Đức Quỳnh châm biếm bọn thư lại rất sâu độc, ông đã thành công trong việc diễn tả nhân vật cần đả phá, đả phá bằng hình tượng, không lý luận, giải thích (khách quan trong sự kiện chọn lọc có chủ quan định hướng nghệ thuật cao; mà ông không cần lộ diện qua tư tưởng suy luận). Cùng đọc:

“...Quan Đốc bỗng ngắt lại. Bộ máy lỏng cốt. Chỉ vì quan Đốc không quen nói tiếng ta…”

Chỉ cần vài dòng như thế, người đọc căm hờn bọn thư lại phong kiến mất gốc; ấy giọng văn căm hờn, nói theo Lỗ Tấn đạt được tức là đưa con người đi làm cách mệnh. Đây là tác phong mất gốc của chúng qua giọng văn căm thù. Đây là tác phong con cháu thư lại, mà ngày còn bé hiểu thương người là làm phúc, thương người mà cho học bổng:

“...Trấn tỏ vẻ hả hê vì đã thương thầm một thằng bạn nghèo là nó, khi nó thấy ông Đốc gật đầu tỏ vẻ cảm phục, thằng Trấn đã biết thương một đứa nghèo nàn hơn mình…”

Rồi đến tác phong đứa học trò nghèo có thể làm bạn với con nhà giàu, hay phản ứng trò nghèo là thằng Kình:

“...Sao nó lại nghèo. Thì ra từ trước đến giờ bao giờ bao nhiêu lần thằng Trấn nhường nhịn nó, bao nhiêu lần thằng Trấn mỉm cười với nó là bấy nhiêu lần thằng Trấn thương nó đấy thôi. Trời ơi sao nó lại nghèo?... Chẳng nhận ơn là gì? Chẳng thi ơn là gì? Người thừa không bao giờ biết, không bao giờ cần, không bao giờ phải hy sinh với người thiếu, giàu không bao giờ thương người nghèo, người giàu, người thừa chỉ có thể thương, và chỉ có thể thương, chỉ có thể cho người nghèo, người thiếu thôi…”

Ông phân tích cá tính xấu xa bọn giàu rất đúng – đúng thực tiễn – thương mà cho, thương mà làm cách mệnh cho người nghèo. Lòng thương của chúng bao giờ cũng có căn nguyên, chỉ khi nào có lợi chúng mới thương (óc trục lợi và tính toán). Thằng Kình nghèo, biết rằng nghèo là mất hào khí, phải câm miệng, mím răng chịu đựng; Nguyễn Đức Quỳnh diễn tả, biểu hiện về khía cạnh ấy:

“...Lần đầu tiên Thằng Kình thấy Trấn xa lạ quá, lần đầu tiên nó thấy rõ hai đứa ngồi thích cánh nhau cùng thở trong bầu không khí mà giữa hai đứa, có cả một bức tường cao cao quá, có cả một khu vực sâu sâu quá. Nó thấy hình như thằng Trấn phải cúi xuống mới nhìn thấy nó. Nó chóng mặt. Nó muốn đứng dậy lắm, nhưng nó vẫn ngồi im. Vì trong lòng nó vừa nổi dậy một trận cuồng phong. Nếu nó từ chối món học bổng thì nó...dạo này mùa màng thất bát, nay đại hạn, mai hồng thủy, công việc kiện tụng chẳng có gì, nhà nó một ngày một túng quẫn... thoáng hiện lên trong óc nó cả một viễn ảnh tối tăm: hết hè này nó phải thôi học, ở nhà học thuốc Bắc, thầy nó dạy cho, hay ra Hải Phòng học làm nghề thợ máy ở nhà máy Tơ với anh Lý Dũng hay lên ở nhà anh đội Lan tiêm thuốc phiện hầu anh, để đợi ngày nào lớn đủ tuổi, anh sẽ xin cho vào trại lính khố xanh, hay theo chú Cai Phèo sang tận nước Sàigòn buôn tơ lụa, hay đi làm con nuôi ông Lý Thái Bình theo đạo Gia Tô, để kiếm cơm theo đạo và muốn đi đằng nào rồi cũng phải bỏ học, xa thầy Chu, xa bố mẹ và hỡi ơi! Nó chưa nghĩ đến xa Chiêu Quân…”

Giọng văn căm thù, châm biếm cực kỳ mai mỉa đến tột độ rồi! Than kiếp nghèo có chí khí của một đứa trẻ thông minh tài năng như Thằng Kình nhóc thế là sâu lắm! Theo Đạo Gia Tô kiếm cơm, ca dao ta có câu theo đạo kiếm gạo mà ăn, theo ông Đội để được tiêm hầu thuốc phiện chờ đủ tuổi vào lính khố xanh, muốn từ chối học bổng, hòng cứu vãn danh dự cho thằng người biết suy nghĩ (Le malheur d’avoir de l’esprit). (21) Đại hạn hồng thuỷ… Điển hình về thái độ chống đối tinh tế, truyền cảm của kẻ bị thống trị phải đầu hàng, dù là Thằng Kình, được ông lột tả, biểu hiện nhân chứng thời đại – kể là nghệ thuật viết rất cao của Nguyễn Đức Quỳnh. Ông hiểu được nhiều nghĩa, sống nhiều khía cạnh, biểu hiện nhiều giọng văn, cùng mục đích vẫn là một xã hội công bằng. Nghèo đã là một ách lo lắng, nhục là một ách to lớn dằn vặt trăm lần hơn. Từ sự bị hắt hủi trí thông minh của Kình đới với Trấn, với Chiêu Quân; hẳn Kình có biết chỉ vì cái khó bó cái khôn. Cho nên… đành nhận.

Bây giờ ông cho thấy Kình bị ảnh hưởng từ cuộc sống chung chạ với giai cấp giầu (chịu ảnh hưởng bọn con thư lại về hình thức):

"...Ấy thế mà với giầy ấy, với quần ấy, áo ấy. Nó vẫn đứng đắn nghiêm trang, bệ vệ. Là vì nó có một người bạn trai là Trấn, nó có một người bạn gái là Chiêu Quân. Cả hai người đó đều là người của quyền quý, của đài các, của lịch sự, gần hai người, nó thấy cần ăn mặc, nếu không sang trọng cũng phải chau chuốt, cử chỉ; nếu không hào hoa cũng phải lễ độ, nói năng không kiểu cách cũng phải nhũn nhặn..."

Tác phong của con thư lại bị thằng Kình đồng hóa, nhưng không phải là cách ăn mặc rồi, cách xử thế bề ngoài; mà là đời sống nội tâm. Cái sâu xa của Nguyễn Đức Quỳnh muốn giáo hóa tinh thần; vì đời sống tinh thần khó thay đổi như áo quần, nhanh chóng trong nửa tuần hay hai, ba ngày một lần:

“...Nếu Chiêu Quân và Trấn đã hoán cải ít nhiều về hình thức cử chỉ thì thằng Kình nó cũng đã làm cho cuộc đời hai bạn nó xáo loạn lên ít lâu. Nó chịu ảnh hưởng của hai người nói tục, bề mặt – nghĩa là toàn về bề ngoài – còn hai người kia lại chịu ảnh hưởng của nó về bề sâu nghĩa là toàn về bề trong. Nên ai cũng chỉ thấy Kình thay đổi chứ ai biết đâu Chiêu Quân và Trấn còn thay đổi vì Kình nhiều lắm. Nếu thằng Kình thay đổi về tính thì hai người kia thay đổi về nết. Nếu thằng Kình đã bớt văng tực nói sẵng thì hai người kia cũng đã bớt khinh khỉnh kiêu căng. Nếu thằng Kình đã bớt đánh nhau, cãi nhau thì hai người kia đã bớt kiểu cách rụt rè. Giữa ba trẻ cái thái quá đã tìm cái bất cấp để dung hòa thành cái trung dung..." Ông phân tích hai bên chịu ảnh hưởng lẫn nhau, khoa học lắm. Đó là nói về ý. Còn nghệ thuật viết đoạn văn này như không có, tác giả làm công việc thay Kình, nhẩy vào giải thích lia lịa lại chẳng rung cảm chút nào!

Trong thế giới trẻ con ấy, trẻ con cũng sống có hệ thống xã hội như người lớn, giống nhau một phần nào về hình thức tổ chức. Sự yêu đương của người lớn sau này là hậu đoạn thuở nhỏ, Nguyễn Đức Quỳnh minh chứng rằng đây là ý đó, tình yêu cậu công tử bột:

“… Thằng Thành thì mang tiền ra dụ con Hồng. Con Hồng “bồ sứt cạp” vì nhà nghèo nên phải hy sinh lấy tấm thân to béo ra rút ruột, rút gan thằng công tử bột, rồi vừa thu đồ “su-vơ-nia” rất đắt nữa. Thỉnh thoảng lại được quai cái mồm ra chửi cái thằng sỏ lá có ngành có ngọn lên mà thằng Sở Khanh cũng chỉ biết có việc toét miệng ra cười hềnh hệch mà thôi. Thằng Thành đi với con Hồng rồi mà, vì không ăn đạp đổ, nó luôn luôn tìm cách ám muội nói xấu thằng Kình. Mảnh giấy viết bằng tay trái kia chính là một lời nặc danh đầu thú của cậu quý công tử con ông Nghị đó...”

Xã hội ấy mai hậu, Hồng, Thành, người lớn sau này. Người đọc cũng cảm thấy thương hại hoàn cảnh Hồng như kỹ nữ. Hồng như con đĩ bán thể xác, để bòn tiền rút ruột con quan Nghị nhà giầu, để vá víu cuộc đời vật chất thiếu thốn của cô bé. Chỉ khác về tuổi Hồng chưa cơ hội, sớm thể hiện ái tình vật chất mà thôi. Thành chưa đến tuổi bị dục vọng đòi hỏi trao đổi (cho nên sự mua bán ái tình ấy còn trong phạm vi trao đổi vật kỷ niệm, dắt tay nhau chơi dạo). Thế giới choai choai ấy, có con nhà nghèo có chí (Kình) có Hồng tập sa đọa – Trấn, Chiêu Quân, Thành (con nhà giàu). Và tác giả cho thấy ảnh hình một văn sĩ lỏi mới lọt lòng tập tễnh đánh đĩ danh. Thì sau nay ra đời nào có khác hơn:

“…Thằng Hải văn sĩ, vì hèn nên không đử sức dèm pha thằng Kình chỉ còn mỗi một cách là tuần tuần chép nhặt ở truyện, ở báo, lấy mấy vần thơ thật du dương, thật mơ mộng để quyến rũ nàng Tiên thường ham mê tiểu thuyết, rồi lúc vắng người lén gấp vào sách hay luồn vào dù, vào ngăn bàn Chiêu Quân mà lần nào cũng như lần nào, những bài thơ chắp nối kia toàn bị xé vụn ném vào nấm mồ vô chủ là cái bồ đựng giấy của nhà trường”.

Hải lên mười, văn sĩ lỏi, đã có cuộc sống tinh thần như thế; ắt hẳn sau này, mươi mười lăm năm sau, sẽ là văn sĩ cuộc đời rộng lớn, thì Hải bồi văn, tinh thần mượn nhặt, làm sao có hy vọng kỹ sư tâm hồn đa mang hậu thế sau này. Sự thành hình tư tưởng bọn lên mười có thể đưa đến thực thụ của hai mươi năm sau. Tác phong sống cũng vậy, dễ mấy ai lên mười hèn, mà hai mươi thành anh hùng được! Bọn nghèo vật chất, tinh thần, không qua mắt được Nguyễn Đức Quỳnh. Đây là hình ảnh chúng:

“... Tụi thằng Rinh tiểu lâu la, thì đã lâu cũng hết nhăn nhó, hết nhấm nháy với Chiêu Quân, vì bọn thằng Kình nó nẹt cho trên mười lần nên thân rồi, bây giờ chúng hùa nhau đi phá bọn con Mùi ghẻ tàu, con Liên bà cụ – mới ba tuổi ranh mà trông cứ như bà cụ tám mươi tuổi khiến cho bọn con trai đã phải gán cho cái tên hiệu là mụ Liên, bà Liên, cụ Liên, rồi nghe đâu chúng vừa đổi ra là cậu Liên. Con Mỹ chuột bạch cứ lùn tè tè, trông như con vịt bầu loại bạch tạng… cả ba con cùng với con Hồng đều là học trò lớp Nhì A ngồi chung bàn với Chiêu Quân. Cả bốn con cùng lãng mạn thành thần, chua ngoa ra mặt, một ngày cứ nhí nha nhí nhảnh, nói tục, nói tằn, đỏng đa đỏng đảnh, nghèo sơ lại chỉ ưa làm đỏm, xấu như quỷ dạ xoa lại thích bọn con trai dòm dỏ, làm cho nhiều lần thằng Kình nóng mặt lên nó đã mắng cho thậm tệ nó lại riếc bắn tin các cô nhiều lần “Liệu cái thần hồn. Mấy con đĩ non làm nhục bọn học trò nghèo chúng ông…”

Trai tứ chiếng, gái giang hồ, vỏ quít dày móng tay nhọn; có những cậu trai đái sằng, có những cô gái chịu đòn. Nguyễn Đức Quỳnh biểu hiện hình hài chúng với bao lời mỉa mai:

“… Bọn con trai tướng cướp mấy thằng kiềng mặt Thuận, kiềng mặt bọn Thuận vì nếu đả động đến, Thuận rút guốc, vác ô choảng liền đến nỗi tụi thằng Rinh đã phải thốt ra câu: “Thôi cánh này chịu hàng. Tay ấy là Lưu Kim Đĩnh phục sinh đấy”. Tay ấy bốc sơ hạng “pun”(22) đấy để nhại như “cốc” đấy. Anh em chờ chơi với tay ấy".

Chính Thuận đã một vài lần bênh vực cả Chiêu Quân nữa…”

Và mối tình đầu, làm sao ai thoát khỏi ở tuổi thanh xuân đến và chỉ có một lần. Cảm giác yêu đương thuở ban đầu ấy của những ngày hương mới tỏa; ở đây Nguyễn Đức Quỳnh diễn tả cho thưởng thức nàng Chiêu Quân nghĩ sao về mối tình đầu của mình? Một đoạn văn biểu hiện tình yêu thơ mộng ấy:

“… Trong lúc tâm thần xáo loạn, nàng mong gặp Kình quá. Gặp Kình, gặp Trấn để tìm một lời an ủi, một lời khuyên khích, một lời khuyên dỗ. Nàng chỉ là một người con gái thôi. Tự nhiên nàng thấy cần phải gần Ba, Mẹ, gần ai có thể luôn nâng đỡ mình. Nàng cần phải gần Kình, gần Kình trong lúc này và trong những lúc mình quạnh hiu với bóng, lẻ loi chống chọi với người đời… gần Kình mãi mãi ! Sung sướng thay, nếu được chung sống với Kình.

Trong một tíc tắc, nàng say sưa sống thực với giấc mộng vừa xây. Cũng trong tíc tắc đó, tay phải nàng vịu lấy mép bàn cho qua cơn ngây ngất, rồi vô tình nàng lấy ngón tay út ấn theo một đường kẻ ngoằn ngoèo nổi trên mặt gỗ bất giác nàng giật mình vội vàng cúi sát ria ngăn bàn. Thì trên ria ngăn bàn nàng đọc rõ ràng hai chữ N.K. ai đã khéo trổ bông lên hai chữ N.K. khắc kết lại với nhau… Rồi một nụ cười e thẹn, Chiêu Quân nhắm mắt khẽ gật đầu, khẽ lẩm bẩm thật nhanh như muốn tai mình đừng nghe thấy lời ở miệng mình thốt ra “Biết đâu đấy…”

Đến xung đột giữa hai giai cấp, giầu nghèo; nghèo và giầu đã bắt đầu ăn sâu trong tâm trí Kình, ông viết:

“...Vì anh bảo lại chơi với bọn du côn!

- Du côn. Chơi cho cả lớp chứ du côn nào?...”

Sự mâu thuẫn ấy, Trấn phái nhà giầu cho rằng thể thao, việc nhỏ mọn không đáng kể, Kình thì trái lại.

Cuối cùng Kình vẫn giữ lập trường của mình:

“...Thôi tôi van anh đi. Vâng, thì tôi chơi với bọn du côn. Bạn tôi toàn là du côn cả. Nhưng du côn cũng có danh dự của du côn anh Trấn ạ!

Kình nói mát, mỉa mai. Nhưng Trấn không nghĩ thế; thằng Trấn lầu bầu "Danh dự, danh dự" rồi vừa cười nhạt vừa quay nhìn Kình gật gật cái đầu "Phải lắm, danh dự, hì hì..."

Một quyển tiểu thuyết tả trong vòng bốn mươi lăm phút đồng hồ với sáu trăm trang, thật nhiều rung cảm và tưởng tượng. Nhà văn quốc tế trước thời đại chiến chỉ có thể chịu ảnh hưởng hai phái: một là Freud, hai là Dostoievskð. Tôi không hoàn toàn tin đúng, nhưng chưa tìm được lối nào nhìn khác hơn. Ở đây, Nguyễn Đức Quỳnh đôi khi cũng dùng phân tâm học (pschycanalyse) để phân tích những phút trong mẩu đời sống linh động, sống tận hưởng nhất. Ông cho rằng (gián tiếp) sống nhiều, dài mà chả thi vị cũng vô ích. Nên ông mới dẫn tới đoạn văn nói về phân chia giai cấp, thằng Kình nhất quốc văn, khiến Trấn ghen tị. Bênh vực Trấn ông có nhận xét thật giá trị sâu sắc:

“… Một mình với vắng vẻ, tâm trí Trấn tuy đã nguôi nhưng lởn vởn thoáng hiện lên trong óc nó một mối tình không phải là tính ghen tị nữa mà cũng chưa phải là tính ghen tuông. Kình nghèo thì bổn phận Kình phải cố gắng học giỏi hơn nó, chăm chỉ hơn nó mới đáng được chơi với nó… nó cần gì phải ghen tị với Kình…”

Quan niệm giáo dục Nguyễn Đức Quỳnh ảnh hưởng nhiều trong khi hướng dẫn người đọc qua truyện. Đời sống phải tùy thuộc vào sự sống của giai cấp tạo nên. Mô tả nếp sống nhà quan lại, Ngọc đẹp, lãng mạn, tất nhiên; vì đời sống văn hóa do giai cấp ấy đào tạo thành:

“… Ngày ấy là ngày Ngọc gặp Kình trước tấm bảng đen trường nữ học. Ngày đó là ngày Ngọc gửi cho Kình mấy lời khuyên nhủ viết sau mảnh tranh tre Triệu Tử Long phò A Đẩu. Ngày đó là ngày tâm hồn Ngọc rung động trước những hành vị của các tay võ hiệp trong truyện, trước lời lẽ gãy gọn, trước giáng điệu ngang tàng trước nét mặt dắn dỏi của Kình. Vì vậy Ngọc mến Kình… Nàng trở lại với bản tính, nàng trở lại với Từ Trẫm Á, với Tuyết Hồng Lệ Sử trung thành sốt sắng hơn Mộng Hà trong truyện bây giờ không phải là một Mộng Hà mộng, một Mộng Hà chỉ thỉnh thoảng hiện lên trong những giấc mơ hoa, mà bây giờ Mộng Hà là một Mộng Hà thật…”

Quan niệm ấy phân tích theo phân tâm học, lối nhìn duy vật nhưng đúng. Văn học ảnh hưởng đời sống, nhất là văn học lãng mạn dễ đánh vào tâm não người lãng mạn; để đào luyện con người sống như người thật ngoài đời.

Thằng Kình (396 trang); tả cuộc đời một thằng bé, nhưng là một cuộc đời đào tạo mẫu người sống theo một tập hợp có đường lối, có tư tưởng chính trị xã hội của tác giả và đồng thuyền. Nhưng nếu một Les Confessions chưa đủ để biết rõ cuộc đời thực, thực thụ của tác giả biểu hiện trong đời sống qua văn chương; thì đó là một ý nghĩa với Thằng Cu So, Thằng Phượng, Thằng Kình của Nguyễn Đức Quỳnh.

Kết luận.

Nghệ thuật viết Nguyễn Đức Quỳnh biểu hiện theo lập trường nhìn riêng tác giả và đồng thuyền chung lối nhìn ấy. Song lối viết, kỹ thuật chưa hoàn hảo lắm khi xét toàn diện. Đã đành độc giả Hàn Thuyên không là Tự Lực văn đoàn, song với tầm thưởng thức độc giả trí thức chưa mãn nguyện lắm. Có lẽ khi viết đến dòng này, chúng tôi muốn so sánh với truyện ngoại quốc. Theo mắt nhìn trong nước, ông là một nhà văn rất giá trị. Chúng tôi đôi khi thầm nghĩ, lãng mạn thuần triết như Tự Lực văn đoàn cũng lợi, tuy nhiên đường lối đi có vu vơ. Như truyện Khái Hưng đào sâu chiều nội tâm con người là cần, song đặt câu hỏi rằng một nước bị nô lệ, ta nên làm việc nào trước tiên, giọng văn căm thù dẫn tới cách mệnh hay là giọng văn quyến rũ để làm phai nhạt chí hướng đa số con người.

Nguyễn Đức Quỳnh ngoài văn chương ra, còn là một nhà văn học khảo cứu giá trị, có kiến thức siêu đẳng; cùng với Trường Tửu, Đặng Thái Mai vun đắp Hàn Thuyên. Ảnh hưởng tác phẩm biên khảo của ông đã tác dụng lớn lao người đương thời, so sánh tác dụng ở tiểu thuyết. Ít người biết Nguyễn Đức Quỳnh tác giả bộ truyện tự luận giá trị lên tới tám trăm trang. Truyện và thi phẩm của ông không ăn sâu vào người đọc ngay được; thơ chưa là thơ; thơ trở thành khẩu hiệu. Thơ thì vậy, truyện luận đề chở lý luận quá nhiều; đôi khi quên hẳn tâm lý nhân vật. Giai đoạn tiểu thuyết của Hàn Thuyên hoàn toàn bị chìm; nhưng truyện của Hàn Thuyên với Trương Tửu, thì Hàn Thuyên gây được thế về sau hơn. Nguyễn Đức Quỳnh dùng bối cảnh xã hội, dùng kỹ thuật nhìn của Freud, hòa với Marx (freudo-marxisme). Cho nên Thằng Kình chỉ sống 45 phút, sống thực, khi nó đặt mình vào lý tưởng. Lối phân tâm học chữa bệnh tinh thần bằng cách nói lên băn khoăn, ẩn ức chìm để ẩn ức tiềm tàng được bộc phát. Sự băn khoăn, đây là thân phận kẻ nghèo trong tình trạng chính trị bị thống trị, muốn tranh đấu để giải phóng cá nhân và quốc gia. Ông là một kỹ sư, nên đôi khi đã áp dụng lối nhìn máy móc vào văn chương, thi phú, mà bình diện này trái ngược. Mình với Ta, tập thơ có những câu thơ máy móc như:

“Bao nhiêu thành kiến bon chen

Sạch sành sanh xóa hết kèn cựa nhau

Cấm chia rẽ kẻ khó giầu

Noi gương tự lực làm đầu soi chung

Giang sơn độc lập cư hùng

Đồng lao cộng tác vẫy vùng thảnh thơi

Thiên tư đạo cả trên đời

Thờ lương tâm, phải coi đời như ta

Lấy độc đoán trị gian tà

Những phường ỷ lại dung tha được nào!”

Ẩn ức diễn tả bằng lối thoát, nằm trong lý thuyết tả đối lập qua thơ lý luận, làm sao rung cảm được người đọc thơ. Như kỹ nghệ hóa chưa sớm giải phóng được hoàn cảnh nhược tiểu, ông quay về với tinh thần văn chương dân tộc và cho rằng chỉ có thế mới tạo được lực lượng giải phóng dân tộc về sau này.

Thằng Cu So, ông tả tỷ mỷ cuộc đời lọt lòng một đứa bé, nhân đó ông muốn cải thiện phong tục hủ hóa dân quê. Thằng Phượng, ông muốn cho nó biết sự va chạm giữa văn hóa Khổng Mạnh không ứng thời, để đi vào xã hội thực tiễn hợp với con người ấy hơn.

Thằng Kình, cuộc tranh đấu thực tiễn bằng hành động, sức mạnh. Nhưng tình yêu vẫn có sức thần bí phá tan sức mạnh, chí khí. Đồng thời, tiêu chuẩn chính cuộc đá bóng, nằm trong lý thuyết xã hội đối lập Léon Trostky: đủ thời gian, trọng kỷ luật, công bằng.

Từ năm 1943 cho đến 1957, Nguyễn Đức Quỳnh mới vừa cho in cuốn truyện chính trị giáo dục, nhân sinh phục vụ nghệ thuật là Ai có qua cầu. Ông muốn đặt trí thức vào vai trò căn bản, đưa ra ý thức sống, lập trường thích ứng, để dễ giác ngộ giai cấp, khỏi đi vào đường bế tắc, giải thoát chán chường phi lý vào cái chết bất đắc dĩ. Thiên tâm bút này viết với một giọng văn khinh bạc, kiêu sa, lập ý cao. Nói theo tôi, là lối văn giọng văn Lâm Ngữ Đường viết Nghệ thuật là gì? (có bản dịch là Lạc thú ở đời, –Importance de la vie). Còn Hồ Thích viết truyện đem triết học vào đời, rồi hướng dẫn đời theo văn triết học; hoặc Lỗ Tấn viết thiên tự luận về nghĩa sống văn chương triết lý.

Nguyễn Đức Quỳnh nhiều khả năng sáng tác cả khi về già vẫn còn sung sức. Là nhà văn giá trị , có công trong khi xây dựng Hàn Thuyên. Với nhà văn tiền chiến, cùng thời ở hôm nay sáng tác sút kém, đôi khi hủ hóa; trái lại Nguyễn Đức Quỳnh biết sống, biết viết và có giá trị toàn diện hơn cả thời tiền chiến.

TIẾT 5

TRƯƠNG-TỬU-NGUYỄN-BÁCH-KHOA

(1913 -1999)

Tên thật Trương Ngọc Tửu. Sinh năm 1913 ở Bồ Đề, Bắc Ninh. Học hết bậc tiểu học (1930), sau đó vào Trường Kỹ thuật, ở đây làm quen với chủ nghĩa mác xít. Sau bỏ học làm báo. Từ 1930 cộng tác với Hoàng Tích Chu báo Đông Tây. 1932 cùng Nguyễn Vỹ chủ trương thơ Bạch Nga. 1934 quen Nguyễn Đức Quỳnh cùng chủ trương Tiếng Trẻ, Thời Thế, Văn Mới,…

Là một cây bút quan trọng của nhóm Hàn Thuyên, vừa viết khảo luận vừa sáng tác. Cả hai mặt ông đều có khả năng. Tuy nhiên không một sáng tác nào trội hẳn, nổi bật. Tác phẩm xuất bản: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Khi người ta đói (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Trái tim nổi loạn (1940), Đục nước béo cò (1940), Một kiếp đọa đày (1941)vv... và những tác phẩm biên khảo như: Những thí nghiệm của ngòi bút tôi (1938), Kinh thi Việt Nam (Hàn Thuyên 1940), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1941), Hồ Xuân Hương (1941), Văn chương Truyện Kiều (1942), Nhân loại tiến hóa sử (1943), Nguyễn Công Trứ (1944)vv...

Trương Tửu-N-B-K viết truyện xã hội, nhưng thực thể xã hội không như bối cảnh xã hội của Nguyên Hồng hay Nguyễn Đức Quỳnh. Một đằng, Nguyên Hồng viết cái thực bản thân, giai cấp thấp hèn qua thể văn biểu hiện, còn Trương Tửu-N-B-K giống Nguyễn Đức Quỳnh ở điểm, có con mắt nhìn sự kiện qua bối cảnh xã hội mác xít. Ông pha chế lối tả chân xã hội, đôi khi lý luận rườm rà, tuy nhiên có thực thể tiểu thuyết hơn Nguyễn Đức Quỳnh. Trong Một chiến sĩ, ông muốn đi vào con đường tranh đấu thực tiễn, cốt truyện, tình tiết bố cục cao và có nghệ thuật của một nhà văn giá trị. Ông đưa ra một nhận vật lý tưởng (Hảo) để cho nhân vật khác (Hiển) theo gót. Sự sơ hở chủ quan của ông, hỏng ở chỗ: trong Một chiến sĩ dùng nhân vật lý tưởng để giải quyết cho cuốn truyện, với lập luận xây dựng chưa gọn. Tôi muốn nói đến cả hai nhân vật, một hùa theo, một lý tưởng; đều ở ngã ba đường như nhau, nên không nhân vật nào đủ lề lối, tư cách, tư tưởng hướng dẫn nhau: thì làm sao mà có vấn đề như ông đưa ra, nhân vật nọ dìu dắt nhân vật kia.

Khi Chiếc yếm rơi xuống, tả cuộc đời giang hồ một thiếu nữ buôn son bán phấn. Ông đưa ra vấn đề tại sao người con gái ấy lại đi vào đường trụy lạc. Và kết luận rằng do hai yếu tố chính thúc đẩy: sự sống và đói khát. Lối văn ngả sang phóng sự tiểu thuyết của ông không có gì đặc sắc.

Trong Trái Tim, ông đưa ra tình yêu có giai cấp mà chính giai cấp nghèo, giàu không thể nào hòa đồng; nghĩa là tái xác nhận biết: giàu nghèo không bao giờ lấy được nhau. Truyện này tương tự như các truyện trên, là tiểu thuyết đọc được, chẳng nổi trội, như có bản sắc riêng một nhà văn độc đáo.

Viết khảo luận, theo lập trường của nhóm, duy vật sử quan; nhưng lối nhìn biến chế theo lập thuyết Trostky, pha lẫn Taine, Freud… nghĩa là không phải lối nhìn của đảng viên chính thống mác xít hành động và lý luận theo chủ thuyết Marx. Nên một Trương-Tửu-Nguyễn-Bách-Khoa, một thứ Voronsky Xô Viết đối lập đệ tam; nên đệ tam dùng mà vẫn canh chừng sự diễn tiến. Lối viết phê bình Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ, có giá trị hơn những cuốn của tác giả khác, người đọc có thể nhận chân được giá trị chân được giá trị thực thể đây là lập luận mác xít đệ tứ. Song vì thiên về mác xít (dù không chính thống) đôi khi mất hẳn thẩm mỹ quan, khi xét một vấn đề trở thành lệch lạc. Những tập khảo luận này có một thời cộng sản đệ tam cầm quyền chính, không cho dùng trong trường học, vì họ cho rằng không phải theo lối của Plékhanoff và Politzer. Họ đả kích lối viết tổng hợp Marx và Freud (Freudo marxisme). Nguyễn Bách Khoa đả kích nhà văn viết phê bình khác viết về Nguyễn Du, nhưng chính ông nhiều đoạn dùng duy tâm, mổ xẻ; theo Taine mà Taine rất duy tâm. Trong Văn chương Truyện Kiều, ông viết: “Phương pháp phê bình phù phiếm, nguyên nhân thứ hai là quan niệm duy tâm về nghệ thuật...”

Vũ Ngọc Phan chỉ phê bình Hàn Thuyên qua vài nhà văn như Trương - Tửu - Nguyễn - Bách - Khoa, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Đồ Phồn vv… nhưng ông không, hoặc biết, mà vẫn đương nhiên không ghép họ vào trong một nhóm, chính thực thể của họ là một. Vũ Ngọc Phan phê bình Trương Tửu Nguyễn Bách Khoa: “...Về mặt biên khảo, Trương Tửu là nhà văn thiên vị (chắc ông Phan tránh hai chữ, mác xít, xã hội chủ nghĩa) vì chỉ biết theo khuynh hướng xã hội, ông là nhà văn có những ý kiến chưa lấy gì làm chín chắn, sâu rộng…”

Trương - Tửu - Nguyễn - Bách - Khoa là nhà văn giá trị trên hai mặt biên khảo cũng như truyện. Song về truyện, ông chưa nổi tiếng lắm mà thôi, chưa biểu hiện đầy đủ cho mình một bản sắc độc đáo. Là nhà văn nòng cốt của Hàn Thuyên, có công trong xây dựng nhóm ấy.

TIẾT 6

KẾT LUẬN VỀ HÀN THUYÊN

Nhóm Hàn Thuyên theo hệ thống tư tưởng đệ tứ, lối tả đối lập. Nên thiên biên khảo của Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Bách Khoa, Nguyễn Tế Mỹ, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Hải Âu, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Thái Mai đều thống nhất đường lối viết; vì họ có kỷ luật và sự hiểu biết chín chắn viết sách. Nếu có dị đồng, chiến thuật, sơ hở chủ quan, nhưng nguyên tắc không suy suyển.

Sáng tác có Nguyễn Tuân, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Đình Lạp, Trương-Tửu-Nguyễn-Bách-khoa, nhưng vẫn nằm trong đường lối, nắm vững tinh thần tri thức chỉ huy.

Khách quan bị chủ quan định hướng chi phối, nhóm Hàn Thuyên không gây được một thế hệ tiểu thuyết như Tự Lực văn đoàn; còn sách biên khảo Hàn Thuyên đã vượt xa Tự Lực văn đoàn trên hai phương diện, lập trường và sự hiểu biết. Hàn Thuyên đưa tầm mắt người đọc nhìn xa hơn, họ quan niệm rằng nghệ thuật và chủ nghĩa vẫn là bóng hình để giải quyết tình trạng một dân tộc bị thống trị tiến xa.

Ngoài tiểu thuyết ra, loại truyện hoài vọng dĩ vãng, nhóm này còn có Chu Thiên, Nguyễn Tuân, hoặc kịch bản, dịch thuật của nhà học giả Đặng Thái Mai.

Lối nhìn vào sách biên khảo, truyện đều qua lăng kính tả đối lập; cho nên sau 1945, sự thành hình con người máy móc đệ tam chịu ảnh hưởng đường lối văn hóa Hàn Thuyên nhiều. Song phe đệ tam chống lại lối chủ trương đệ tứ, sự kết hợp chỉ là giai đoạn trong giai đoạn. Vì thế Hàn Thuyên chia ra làm hai phe, một theo phe đệ tam, một bỏ về thành như Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu…

Chỗ đứng của Hàn Thuyên trong văn học sử phải dành một chương xứng đáng. Vì lẽ nói trên đây.


CÒN TIẾP ...