Việt Văn Mới
Việt Văn Mới








LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM



KỲ THỨ III.


THAY LỜI DẪN

Lược Sử Văn Nghệ Việt Nam của nhà văn Thế Phong gồm 4 tập, đã được in 2 tập: Tập 1 NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930-1945, bản in ronéo đầu tiên ở Sài Gòn gồm 100 cuốn vào năm 1959. Bản tái bàn cuả NXB Vàng Son in 3000 cuốn ở SàiGòn vào năm 1974. Bià cuả họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi được chụp in lại trên đây , do một trong những NXB vô danh ở Mỹ in lậu ở California sau 1975 và Tập 4 : Tổng Luận đã chuyển ngữ A BRIEF GLIMPSE AT THE VIETNAMESE SCENE (from 1900 to 1956) và 2 tập 2 & 3 nói về văn nghệ kháng chiến, nhà văn hậu chiến 1900 - 1956 (văn nghệ quốc gia hay văn nghệ của VNCH) chưa bao giờ công bố trên văn đàn, mặc dù đã được lưu trữ tại một số thư viện TRONG NƯỚC (Thư viện Khoa học Tổng hợp Tp. HCM, Thư viện Khoa học Xã hội Tp.HCM) và NGOÀI NƯỚC như ở Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, Boston, Ithaca-New York, SIU, IOWA vv..hoặc ở Pháp, Đức, Úc..

Việt Văn Mới xin đăng tải lại một vài nhận định báo chí, văn giới về Lược Sử Văn Nghệ khi xuất bản lần đầu vào 1959 :

a) Tạp chí Bách Khoa:" ..Ông TPhong vừa cho ra một loạt phê bình văn học. Đó là ai nấy đều mong đợi, bởi vì sau một thời gian khá lâu chưa ai tiếp tay Vũ Ngọc Phan, chốc đà mười mấy năm trời' đúng một thời gian luân lạc cuả cô Kiều...."( số 56, năm 1959, TRIỀU ĐẨU)

b) Ông TP một văn nghệ sĩ thủ đô vừa viết xong và cho phát hành cuốn" Lược sử Văn Nghệ VN", trong đó tác giả phân tích các tác phẩm của văn nghệ sĩ ra đời từ 1930 đến 1945. Cuốn này được quay ronéo có bầy bán tại các hiệu sách. Sách này tác giả đã tốn nhiều công phu và sưu tầm khá nhiều tài liệu để biên soạn (nhật báo Ngôn Luận ngày 8/9/1959- Saigon).

c) ..." Điều thứ ba, sự phán đoán của anh hợp với ý tôi, phần nhiều các tác phẩm anh khen, thì tôi cũng nhận là có giá trị; những tác phẩm anh chê, thì tôi cũng không thích. các nhận xét cuả anh về Triều Sơn, Hoàng Thu Đông đều đúng cả. Đó là nhận xét của tôi; tôi phải phục sức đọc, sức viết, sức nhớ cuả anh. Cảm ơn anh một lần nữa.." (Nguyễn Hiến Lê, 12/3c Kỳ Đồng, Saigon 3- ngày 17/4/1959)

d) Nguyệt san Sinh Lực (1959, Chủ nhiệm: Võ văn Trưng- Saigon) :"...Hôm nay Thế Phong còn có thể ít nhiều nhầm lẫn-nhưng với khả năng rạt rào của tuổi trẻ, với lòng yêu văn nghệ đến đam mê, anh còn nhiều bước đi ngạc nhiên trên lãnh vực nà để đào xới lại mảnh đất hoang phê bình cảo luận bị bỏ quên trong nhiều năm. Sự cố gắng của Thế Phong là sự cố gắng hoàn toàn văn nghệ, cuả một người văn nghệ biết mỉm cười trong sự nghèo túng bản thân mình để hiến chiều dài cho văn học sử. Cũng có đôi khi ta thấy Thê Phong phê phán có vẻ độc tài và tàn nhẫn nữa; nhưng ta vẫn thấy rằng: đó là sự độc tài và tàn nhẫn không có tính cách tự cao, tự đại; hoặc dao to búa lớn; (trái lại) nhiều tinh thần thẩm mỹ, dĩ nhiên là có chủ quan. Ta quí sự nhận thức ấy- vì anh dám nói- cũng như người khác có dám cãi lại hay không là quyền của họ.." (Lê Công Tâm - Thanh Hữu, nhà văn).

e) Le Journal d'Extrême Orient (Saigon, 3 Décembre 1959)" Lược sử văn nghệ Việt nam-Hisotire de la littérature vietnamienne". Histoire sommaire de la littérature vietnamienne, òu l'auteur passe en revue les écrivains d'avant guerre 1930-1945. Cette oeuvre est tirée sur ronéo avec une tirage limitée. Fruit de minuitieuses recherches et d'une riche documentation donnée une vue d'ensemble des diverses époques et tendances des écrivains, des poètes du Vietnam, de leurs oeuvres, d'une littérature riche de plusieurs millénaires suivant le cours de l'Histoire. C'est une synthèse remarquablement coordonné annotée parle critique éminent qu'est ThếPhong qui l'achevée dans les derniers jours de Juin 1956

(đã in ở cuối sách "LSVNVN-Nhà văn tiền chiến 1930-1945 của ThếPhong, NXB Vàng Son Saigon 1974)...

Từ Vũ và Việt Văn Mới chân thành cảm tạ nhà văn Thế Phong đã ưu ái cho phép đăng tải toàn bộ tập Lược Sử Văn Nghệ,một bộ tài liệu không thể thiếu cho những người yêu chuộng văn chương nghệ thuật Việt Nam, đặc biệt cho những người muốn khách quan sưu tra sử liệu .

Từ Vũ

VvietartNewvietart 2004-2018
ViệtVănMới 25.6.2020 Troyes-France.



VÀI DÒNG TÂM SỰ NGƯỜI VIẾT SÁCH

T rước hết cảm ơn bậc đàn anh bước trước: Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh – Hoài Chân ... (chẳng là gần với tài liệu văn học tham khảo, cũng như so sánh).

Viết sách biên khảo hay phê bình, giá trị nhiều hay kém có thể nằm trong vài ý kiến dưới đây: Lập trường người viết phải có trước khi tìm kiếm tài liệu. Ấy là đã phải kể tới kiến thức, học và đọc; khả năng và tâm hồn văn nghệ nhạy cảm của người viết phê bình.

Lại cần kinh nghiệm, nhỡn quan nhìn, phải được chế biến theo lập luận người viết càng nhuyễn, sách càng phong phú. Không thể coi sách tương tự như cours nhà trường, làm thành gọi là biên khảo, phê bình văn học. Cũng như étude, non-fiction, fascicule, étude critique sur critique phân minh rõ ràng.

Tài liệu dồi dào, nhưng tài liệu nào chưa đọc, không nên bao biện. Người viết không định ý, lập luận; hẳn tài liệu phong phú dồi dào đi nữa; cuối cùng người viết chết theo với tài liệu sưu khảo được. Nhớ tới Nguyễn Hiến Lê trong một sách biên khảo bàn về tài liệu, nhất là tìm tài liệu văn học, sử học Việt Nam khó gấp bội phần khi sưu tập tài liệu tương tự ở nước ngoài. Ý kiến thật xác đáng. Nước ta triền miên khói lửa, và tầm mức thẩm định giá trị tài liệu văn học chưa được sử dụng đúng mức, công bằng.

Cộng đời sống thấp kém, ít thời giờ đọc sách, mua sách, bảo tồn sách, nên tủ sách văn học Việt Nam cần cho người viết sử dụng còn ở tình trạng rất thiếu thốn.

Khi viết bộ sách này, khích lệ tôi nhiều nhất phải kể tới một người: đó là anh Nguyễn Đức Quỳnh. Ông nhắn nhủ tôi rằng: “tài liệu nhiều chưa chắc đã là một yếu tố thành công, còn phải dám làm, dám nhận trách nhiệm”.

Đôi khi, chính kẻ dám làm lại liều lĩnh và dám biết mình ngu. Như vậy, chắc chắn tôi biết trách nhiệm khi viết sách. Cảm ơn một lần nữa nhà văn lão thành Nguyễn Đức Quỳnh, ông bạn văn tiền chiến vong niên. Nữa, cho tôi xin cảm ơn thêm vài tấm áo vải lao động: như anh chị Hai Nụ ở Xóm Chùa (Tân Định) làm nghề thợ thêu. Anh chị nuôi sống tôi hai năm trời: cơm và nhà ở. Nhà thuê vào năm viết bộ sách là một trăm năm mươi đồng. Tiền cơm bốn trăm đồng. Chưa hết, ông già Lịch bán thuốc lá, cũng ở đây; cho tôi chịu khoảng hai ngàn đồng tiền thuốc lá. Thuốc lá Ruby khoảng sáu đồng một bao. Sáu tháng liền, tôi chỉ đi ra tới ngõ; xa hơn là 147B Trần Quang Khải (Sàigòn 1) tới tiệm cho thuê sách Đức Hưng. Nơi này đủ gần hết tác phẩm tiền chiến, giấy dó Hàn Thuyên, mướn đem về đọc để làm tài liệu viết. Một người bạn nữa anh Lung cũng ở Xóm Chùa ngập nước, có một tủ sách khá lớn. Anh cho mượn và tôi sử dụng một cách sở hữu chủ. Anh từ miền Bắc vào Nam lâu, có viết báo tài tử, một người thật chân tình. Phải chăng chân tình này làm tôi cảm động, khi nghe kể đoạn đời anh tham gia kháng chiến ở Nam Bộ bị Pháp cầm tù. Đời tù đầy thêm kinh nghiệm sống, đời quất ngọn roi phũ phàng bao nhiêu, nạn nhân chịu nổi hờn đau sẽ sống lâu hơn; sau thì người ấy sẽ được liệt vào bậc tốt nhất xã hội trên mọi phương diện.Và một bạn học cũ Hà Nội : Tạ Văn Tài đạp xe đạp thăm tôi để khích lệ - trước khi anh đậu hai thủ khoa Văn chương và Luật khoa Sài Gòn rồi sang Mỹ du học.

THẾ PHONG







BỘ LƯỢC SỬ VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900-1956

gồm 4 tập:

1). NHÀ VĂN TIỀN CHIẾN 1930 -1945

2). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN 1945 -1950 gồm hai phần:

a). NHÀ VĂN KHÁNG CHIẾN CHỦ LỰC 1945-1950 viết theo lối tuyển tập thơ văn kháng chiến, viết về: Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Tố Hữu, Quang Dũng, Văn Cao, Hoàng Cầm, Hữu Loan, Trần Hữu Thung, Hoàng Lộc, Yên Thao, Nguyễn Đình Thi vv... Các chiến sĩ văn nghệ như: Vô Danh, Hà Minh Tuân, Lê Minh, Vũ Linh, Nguyễn Trinh Cơ, Đình Quang, An Bá Đảm, Quốc Chính, Nguyễn Xuân Hòe, An, Lưu Hương, Chính Hữu, Minh Tiệp, Phùng, Hà Khang, Kim Lân, Siêu Hải, Nguyễn Công Mỹ vv... b). Nhà văn miền Nam 1945 –1950: Lý Văn Sâm, Dương Tử Giang, Thẩm Thệ Hà, Vũ Anh Khanh, Tam Ích, Thiên Giang, Thê Húc, Hoàng Tấn, Bình Nguyên Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Quốc Ấn, Sơn Khanh, Vũ Xuân Tự, Hợp Phố (nữ), Phi Vân, Nguyễn Bảo Hóa(78) v.v...

3). NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950 - 1956.

Bùi Xuân Uyên, Tạ Tỵ, Xuân Nhã (nữ), Hoàng Chu Ngạc, Triều Đẩu, Trúc Sĩ, Phan Phong Linh, Bạch Diện, Mai-Lâm-Nguyễn-Đắc-Lộc, Nguyễn Tố, Văn Thuật, Mặc Thu, Nguyễn Ái Lữ, Kỳ Văn Nguyên, Nhị Lang, Thanh Nam, Huy Quang, Nguyễn Thiệu Giang, Thi Thi Tống Ngọc, Nguyễn Hoàng Quân, Hiệp Nhân, Thùy Linh, Thanh Bình, Vĩnh Lộc, Nguyễn Thạch Kiên, Hà Bỉnh Trung, Hoàng-Lan, Quốc Ân, Hoài Linh, (1 và 2) Kim Dung, Hiền Nhân, Đoàn Thu, Hoàng Công Khanh, Sao Mai, Nguyễn Minh Lang, Văn An, Thanh Hữu, Huy Sơn, Đinh Hùng, Nguyễn Quốc Trinh, Song Nhất Nữ, Hoàng Phụng Tỵ, Hoàng Song Liêm, Hoài Việt, Trần Nhân Cư, Huyền Giang, Băng Sơn, Vân Long, Song Hồ, Lê Đình Chân, Mặc Đỗ, Phạm Việt Tuyền (Thanh Tuyền), Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Hoàng Như Mai, Huyền Chi, Hoài Minh, Thanh Thuyền, Hồ Đình Phương, Tạ Ký, Xuân Huyền, Thanh Thanh, Tùng Long (nữ), Quỳnh Hương (nữ), Thiếu Mai - Vũ Bá Hùng (nữ), Minh Đăng Khánh, Tạ Quang Khôi, Tường Hùng, Kiêm Minh, Uyên Thao, Tô Kiều Ngân, Nguyễn Hoài Văn, Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sĩ, Nguyên Sa, Mai Thảo, Quách Thoại, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Nguyễn Thị Vinh, Linh Bảo,(nữ) Triều Lương Chế, Phạm-Thái –Nguyễn-Ngọc-Tân, Vũ Khắc Khoan, Chấn Phong, Hư Chu, Hồ Hán Sơn, Phan Lạc Tuyên, Đỗ Tấn, Hoàng Trúc Ly, Nguyễn Văn Cổn, Hoàng-Nguyên-Bùi-Khải-Nguyên, Cung Trầm Tưởng, Hà Liên Tử, Kiên Giang - Hà Huy Hà, Chế Vũ, Thế Viên, Diên Nghị, Huyền Viêm, Phan Minh Hồng, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Năng An, Hoàng - Thu - Đông (Hoàng Trọng Miên), Diên Hương, Thanh Nghị, Kiêm Đạt, Hồ Nam– Vương-Tân, Nghiêm Xuân Hồng.

4) TỔNG LUẬN 60 NĂM VĂN NGHỆ VIỆT NAM 1900 -1956 (NAM VIỆT NAM)

Tổng luận văn nghệ Việt Nam từ đầu thế kỷ đến 1960. Người viết bộ sách cô đọng tóm tắt bốn tập dẫn giải ở trên. Người đọc không có thời giờ hoặc cần có quan niệm tổng thể chỉ cần đọc tập này thôi. Bản Anh ngữ của Đàm Xuân Cận: A brief glimpse at the Vietnamese literary scene 1990 - 1956 (Đại Nam Van Hien Books) Phụ lục bộ sách in thêm một cuốn nữa .Hiện tình văn nghệ Nam Việt Nam 1957 -1961(79) , để độc giả theo dõi được tổng quát bình diện văn nghệ Nam Việt Nam, diễn biến qua nét chính yếu sinh hoạt văn nghệ qua các nhóm: Đại Học và Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Nam Châu, Lê Tuyên, Lê Thanh Châu, nhóm Văn Hóa Á Châu, Chủ tịch giáo sư Nguyễn Đăng Thục, Lê Xuân Khoa,v.v…. Văn Hóa Vụ (Cơ quan văn nghệ chính phủ Ngô Đình Diệm với Nguyễn Mạnh Côn, Hoàng Trọng Miên, Phan Du,v.v… Nhóm Sáng Tạo, Trung tâm văn bút Việt Nam V.N. (PEN) với Nguyễn Thị Vinh, Thanh Lãng, Tường Hùng, Duy Lam, Nguyễn Hoạt; nhóm Văn Hóa Ngày Nay do Nhất Linh chủ trương với Nhật Tiến, Duy Lam, Thu Vân,v.v… và cuối cùng Khép với bức thư người viết trình bày lý do viết bộ sách. Khi viết tôi mới 24 tuổi. Tự nhận rằng nhầm lẫn sơ sót không thể không có. Chủ quan có, nhưng nhớ rằng chủ quan nào mà anh diễn dịch trong tác phẩm? Chủ quan viễn kiến hoặc chủ quan hẹp hòi, ao tù, bè nhóm? Khi sách xuất đầu lộ diện, tôi không muốn nhìn thấy cảnh này, như Vũ Ngọc Phan ra mắt Nhà văn hiện đại; thì một L.H.V. viết bài phê bình trên báo Thanh Nghị rất hay, xác đáng lại không dám ký tên thật. Nhưng điều đau đớn, sau hai chục năm, tôi đây đến sau vẫn biết rằng, người viết ký tên tắt kia chính là Lê Huy Vân. (Bạn học cùng lớp với Nguyễn Hiến Lê). Tôi cho đó đê hèn đáng yêu nhưng không nên có. Một lối phê bình câm nín yên lặng nữa, đểu cáng đáng yêu hơn: mưu mô im lìm – Pháp gọi là: le critique très impitoyable c’est taire. Như vậy không được, một tác phẩm phê bình văn học ra mắt; hay thì khen hay; dở phải chê dở! Sự khen và chê ấy quan thiết ở chỗ đúng cảm quan người viết ở mức độ đúng nhất, không ngụy trang, mưu mô. Tôi cúi đầu trước cử chỉ đó và trong đời chỉ đón nhận thái độ đó. Khi tôi dự định làm văn sĩ, tôi cần đọc nhiều tác phẩm đàn anh, bạn văn trong nước, cả đến quốc tế. Để làm gì? Xin thưa, để xem tác phẩm nào hay hoặc dở, những gì người ta đã và chưa nói tới. Học hỏi và quyền chê khen theo quan niệm đúng nhất của tôi lúc đó. Hoặc như V.Biélinsky(80) , tác giả phê bình văn triết luận nổi tiếng số một của Nga đã chẳng nói: “...Làm sao nghi ngờ hả? Các anh quay lưng không thèm nhìn hả, lại bịt tai không thèm nghe sao? Kệ xác các anh! Không quan tâm tới. Các anh đọc hay không, với tôi không cần thiết. Tại sao à, cuối cùng ai cũng có tự do. Ngoài ra, làm sao tôi phải mặc cả với anh kia chứ? Vậy thì anh bạn ơi, đừng giận nhé! Bằng lòng hay không bằng lòng, các anh vẫn phải đọc. Không đọc, vậy thì anh đọc cái gì mới được chứ? Anh bạn ơi, nếu cho phép tôi, thì tôi bắt đầu nói đây này"…. Sự thật! Sự Thật! Chẳng có gì hơn là sự thật”
Nói theo đàn anh V.Biélinsky, thì xin thưa với các Ngài, sự thật tôi nghĩ, tôi trình bày như thế đó.

Sài gòn, 20 tháng 6 năm 1956.

THẾ PHONG

♣♣♣

Tiết 4

CÁC NHÀ VĂN TRONG TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

Trong Tự Lực văn đoàn, chúng tôi có thể tạm chia ra làm hai loại nhà văn: cộng sự và chủ lực. Nhà văn chủ lực là những nhà văn sống chết với nhóm, có công trong việc khởi đầu, cũng như chung giá trị phút ưu buồn, thành công, thất bại. Nhà văn cộng lực hay cộng tác là nhà văn đem tác phẩm đến nhập bọn với nhóm. Một khi có tác phẩm in trong Đời Nay, tất nhiên nội dung đã được sự đồng ý của Tự Lực văn đoàn. Như vậy, nhiều hay ít tác phẩm và tác giả chịu chung một lập trường, chúng tôi liệt họ vào nhóm đó. Nhà văn chủ lực trong nhóm ấy: Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, nhà văn cộng lực như Vũ Ngọc Phan với loại sách Gió Bốn Phương, do Vũ Ngọc Phan điều khiển dịch tác phẩm ngoại quốc. Tỷ dụ như A-Na-Kha-Lệ-Ninh… Tiễu Nhiên Mị Cơ… Còn Trần Tiêu, Nguyên Hồng, Anh Thơ (nữ), Trọng Lang, Đỗ Đức Thu, Bùi Hiển, Hoàng Như Tiếp, (Tứ quốc chí, loại Nắng mới) Thanh Tịnh, Mạnh Phú Tư, Đỗ Tốn...

1. HOÀNG ĐẠO

Tên thật Nguyễn Tường Long, (1906-1943) em ruột Nhất Linh, anh ruột Nguyễn-Tường-Lân-Thạch-Lam. Đậu Cử nhân luật, nhưng không là tri huyện, vào làm Tham tá Lục sự để có thời giờ làm báo và phát hành tờ báo Ngày Nay, trông nom nhà xuất bản Đời Nay của nhóm. Năm 1945, tham gia cách mệnh với anh. Sau sang Hồng Kông, vì ông còn là đồng chí VNQDĐ. Rồi bị bắt và mất tích vào 1948. Hoàng Đạo còn bút hiệu là Tứ Ly. Ông là một lý luận gia của nhóm, đường lối xã hội bầy tỏ trong cuốn Mười điều tâm niệm: theo mới, hoàn toàn theo mới, không do dự. Tin ở sự tiến bộ mỗi ngày mỗi tiến. Sống theo một ý tưởng. Làm công tác xã hội. Luyện tinh khí. Phụ nữ và xã hội sống hòa hợp ra sao? Luyện có óc khoa học, cần sự nghiệp không ham danh vọng. Luyện cho thân thể mạnh mẽ. Cần có chí điều khiển công việc. Những tác phẩm khác Trước vành móng ngựa 1938, Mười điều tâm niệm 1939, Tiếng Đàn, truyện ngắn,1941, Bùn lầy nước đọng, Con đường sáng. Con đường sáng là truyện điển hình cho sự nghiệp ông. Ông muốn hướng dẫn con người nghĩ đến xây dựng sự nghiệp, sau khi đã ê chề với danh hão cuộc đời. Dầu sau đi nữa, Hoàng Đạo đã tạo cho con người thích sự lập nghiệp độc lập. Mô tả về cuộc sống tư sản lãnh đạo là giai cấp ông. Hình ảnh nông thôn trong đó chỉ là trục quay làm rèm cho Duy, nhân vật chính xây sự nghiệp, đồn điền ở nông thôn mà thôi. Văn hấp dẫn, nội dung có luận đề. Phê bình, Vũ Ngọc Phan cho rằng: “...Người ta lấy làm tiếc rằng Hoàng Đạo đã không đào sâu chút nữa. Những nhân vật trong tiểu thuyết của ông không có ngôn ngữ hành động sâu sắc nên cá tính của họ không được rõ cho lắm...”. Chúng tôi cho rằng truyện của ông có phần sâu sắc trong vấn đề xây dựng xã hội.

2. THẠCH LAM (1909-1943)

Tên thật Nguyễn Tường Lân (8) sinh năm 1909 ở Cẩm Giàng. Học qua ban trung học chuyên khoa Albert Sarraut Hà Nội. Viết văn năm 1931 khi ấy ông 19 tuổi. Ông mất vào ngày 1-6-1942. Tác phẩm đã xuất bản như: Gió đầu mùa (1937) Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942), Ngày mới, (truyện dài) Theo giòng (khảo luận tiểu thuyết), Hà nội ba mưới sáu phố phường…

Thạch Lam sẵn thiên bẩm viết truyện như Khái Hưng, Nhất Linh trong lối viết truyện cảm giác (style d'inspiration). Phân tích tâm lý đi vào chiều sâu con người. Nhất là trong Sợi tóc chúng ta mến tài ông hơn. Tác giả nhiều truyện ngắn tình cảm, hình tượng con người thời ấy có đặc tính. Tuy chỉ là những mẩu đời vụn, nhờ đi sâu vào sự kiện, nên truyện hóa ra sâu sắc và nói lên được sự sắc bén. Hoặc giả những truyện như Đói, hẳn tác giả đã sống trải qua cảnh đói rất sâu sắc, truyện làm người đọc say mê. Với tuổi trẻ thích yêu như Cô áo lụa hồng, hoặc những truyện ghi lại biến chuyển thời đại như trong Hà Nội ba mươi sáu phố phường (NXB. Thăng Long tái bản, Hà Nội 1952).

Theo giòng là cuốn sách nghị luận về nghề viết văn. Nhưng không hẳn là thiên hồi ký viết kinh nghiệm viết văn. Cũng không hẳn là thiên hồi ký kinh nghiệm sống của tác giả, mà chỉ là khảo luận, chưa có ứng dụng nơi tác giả; thiếu sâu sắc. Đa số thiên hồi ký nhà văn nổi tiếng thế giới viết về kinh nghiệm văn chương đời mình. Còn thường thấy những kẻ viết dạy nghệ thuật văn chương, toàn là những tác giả không bao giờ là nhà văn nhà thơ nổi tiếng; mà văn thi sĩ nổi danh thì chỉ viết kinh nghiệm văn chương, chứ không bao giờ dạy viết phải như thế nào? Một điều quan trọng về Thạch Lam, ông tự nhận rằng mẩu chuyện không kết luận thế này hoặc thế kia; nhà văn chỉ có nhiệm vụ trình bày, còn giải quyết sự kiện máy móc là công việc chánh án. Tchékhov và Thạch Lam đồng ý với nhau ở điểm đó.

Thạch Lam viết truyện dài thiếu linh động, bố cục rườm rà đôi khi thừa. Đó là truyện dài Ngày mới. Sự thất bại của ông có lẽ vì dùng hơi viết tâm bút vào truyện dài. Một thể truyện cần hơi dài, có nhiều tác động hấp dẫn thì ở Thạch Lam không có trong Ngày mới.

Thạch Lam thành công trong loại tâm bút như Sợi tóc, Gió đầu mùa. Còn truyện dài và khảo luận rất tầm thường. Hình bóng nhà văn với cuộc đời và tác phẩm có liên quan ra sao? Chúng tôi nhận thấy thi sĩ Thế Lữ đưa ra ánh sáng điều quan hệ trong việc cho ai muốn nghiên cứu đời tác giả với tác phẩm: Nhân ngày giỗ đầu Thạch Lam (Báo Thanh Nghị số 1-6-1943).

“...Tôi được nghe Thạch Lam gợi lên những kỷ niệm ngày còn nhỏ của anh trước mấy ngày anh viết bài Trở về, trong đó ta thấy sáng gay gắt làm âm thầm thêm bóng cây lá. Khái Hưng trong bài tựa Gió đầu mùa nhận thấy rõ những duyên do xúc động của Thạch Lam trong nhiều đoạn ở tập sách này. Chính Thạch Lam cũng thường nói riêng với tôi rằng cái lòng quê hương là niềm quá vãng vẫn mãi mãi sống cùng hiện tại ở trong anh. Đó là lời thú thực của một người nặng tình có nhiều lúc muốn thoát khỏi những giây vương. Không có một sáng tác nào của Thạch Lam mà không có rất nhiều Thạch Lam trong đó. Gió bụi xa xưa, hương ruộng lúa mùi dạ phơi tiếng tre reo rét, thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê dưới mái hay là những đêm sâu điểm trống huyện, những buổi sáng trăng dặt dìu, từ sự thực lầm lội đến cảnh êm dịu mơ màng, không một tình trạng nào ta thấy ở những trang châu báu còn lại cho chúng ta kia, không làm cho Thạch Lam cảm động đê mê từ bao nhiêu năm tháng trước. Cả đến những truyện ngắn viết vì nếu phải có cho một kỳ báo, cả đến những văn phẩm mà người ta gọi là gượng ép, ở Thạch Lam cũng là một công trình đôn hậu dồi dào. Trong những dịp làm việc chung với nhau, nhiều lần tôi được Thạch Lam túng bấn trước cái hạn 12 giờ phải đưa truyện ngắn cho báo. Gặp những lúc vội vàng ấy, tôi ở địa vị anh tất lo sợ để rồi sau cùng quyết định sai hẹn, Thạch Lam thì không. Cái người tối hôm trước trả lời tôi rằng chưa biết viết gì, sáng hôm sau đã cho tôi cảm động vì một tập truyện viết đều hàng, nét chữ nho nhỏ và nhanh, câu văn thấm đậm những tình cảm thắm thiết bày đãi trên trang hoặc đĩnh đạc ung dung, hoặc say mê ảo não. Những dòng ít dập xóa ấy có những đoạn khuôn mẫu cho cách hành văn. Đôi khi Thạch Lam phàn nàn rằng chưa biết viết gì, để một người bạn kể một chuyện nào đó - Thạch Lam viết không ai dám bảo - cả chúng tôi cũng vậy - rằng không phải chính Thạch Lam nghĩ ra. Tôi được thấy cái chuyện người thiếu nữ về nghỉ ngơi ít ngày trong lặng lẽ của quê nhà dưới sự yêu thương thong thả mát mẻ của bả tổ mẫu mà tôi thuật cho Thạch Lam nghe, chỉ mấy ngày sau thành thiên Dưới bóng Hoàng Lan. (…) Sự thật tâm hồn Thạch Lam diễn trong lời văn chương phức tạp nhiều hình, nhiều vẽ, nhưng bao giờ cũng đầm thắm, cũng nhân hậu, cũng nghẹn ngào, một chút lệ thần kín của tinh thương. Nếu Thạch Lam theo một chú ý nào trong công việc viết văn của anh thì chú ý ấy là diễn ra và gợi lên sự thương xót...”

Thật xác đáng khi xét về Thạch Lam trong văn chương và ngoài cuộc đời, cho người đọc hiểu thêm về nhà văn. Đem triết lý nho nhỏ ngoài đời sống đãi lọc đưa vào văn chương để cải tạo con người trên hai phương diện: nếu lạc quan thì con người chớ vội lạc quan hơn, nghĩa là làm giảm vui thú sẽ đưa đến quá trớn trong cuộc đời, nếu là bi quan là làm cho cuộc đời vui thú hơn lên, hai ý nghĩa điều có trong văn chương Thạch Lam; mà thế sĩ Thế Lữ cho là nhân hậu, nghẹn ngào, một chút lệ trong tình thương. Nhận định về Thạch Lam còn có thêm ý kiến xác đáng của nhà phê bình Vũ Ngọc Phan viết về ông trong cuốn Nhà văn hiện đại: "Thạch Lam là một nhà văn đã trút tính tình của mình sáng tác nhân vật do ông sáng tạo nên các vai không khác nhau mấy tí" Đem cuộc đời mình phơi bày rồi sau thành công trong văn chương, chúng ta phải nhận rằng cuộc đời, triết lý nhân sinh của tác giả đem vào văn chương đã thành công. Trong thời kỳ kháng chiến bổ sung ở miền Nam, chúng tôi thấy lối văn đem triết lý nho nhỏ của đời vào văn chương thành công trong cảm giác, có Bình Nguyên Lộc ( truyện Lò chén chòm sao trong Nhốt gió, và Mai Thảo hậu chiến trong Giai đoạn chị Định ( trong cuốn Tháng giêng cỏ non).

Trang tuyệt bút văn chương quý báu của nhà văn thiên tài truyện ngắn Thạch Lam, cái chết mai một quá sớm, nhưng một Gió đầu mùa, Sợi tóc, cũng như Nam Cao Ở Rừng đã để lại cho văn học sử Việt Nam bông hoa vô vàn tươi đẹp.

3. THANH TỊNH (1911-1988)


Tên thật là Trần Thanh Tịnh. Tác phẩm đã xuất bản Quê mẹ (Đời Nay), Nước cờ Nam Tiến ( Thời Đại), Ngậm ngải tìm trầm ( Thời Đại)… Văn ông nhẹ nhàng, buồn gợi cảm dĩ vãng. Đôi khi hướng về quá vãng thật sâu đậm. Ông còn làm thơ. Những kỷ niệm thơ ấu gợi qua giọng văn trầm buồn, âm hưởng dìu dặt cho người đọc phảng phất hơi văn Anatole France, như tiêng tiếc ngày xa xưa đượm mùi giáo huấn hơi văn De Amcis.


4. TRẦN TIÊU (1899-1954)

Sinh năm 1899 ở Cổ Am, Vĩnh Bảo, Hải Dương. Ông mất vào ngày 8-1-1954 ở Hải Phòng. Ông là nhà tiểu thuyết chuyên viết truyện nông thôn. Tác phẩm đã xuất bản: Con trâu (Đời nay 1940)... Ông tả cuộc sống dân quê vào giai đoạn năm 1930-1942. Nhân vật chính trong Con trâu là gia đình bác Chính lam lũ đầu tắt mặt tối, không lúc nào được an toàn. Bao năm trời nuôi lý tưởng mua được con trâu, nhưng không thực hiện nổi trước khi nhắm mắt. Phong tục nông thôn, ông rất tường tận và tất nhiên viết về miền quê Bắc Việt. Có thể nói rằng là người đầu tiên viết tiểu thuyết, lấy đề tài cho sự nghiệp mình nổi danh từ bối cảnh nông thôn, mà nông dân Việt Nam có đến chín mươi phần trăm. Sau ông, Ngọc Giao có viết về đời sống nông thôn, cuốn Đất rất đặc sắc; nhưng thật ra kẻ viết đầu tiên thành công, chúng ta vẫn phải nhắc đến Trần Tiêu. Trần Tiêu viết văn không bay bướm, nhưng giọng văn chân thành, cảm động và biểu hiện rất được phổ biến trong văn ông. Trần Tiêu là em ruột Khái Hưng.

5. MẠNH PHÚ TƯ (1913-1959)

Tên thật Phạm Văn Thứ. Tác giả Làm lẽ (Đời nay 1940), Sống nhờ (1942), Một thiếu niên (Mới 1942), Một cảnh sống, Người vợ già … Làm lẽ được giải thưởng Tự Lực văn đoàn, vào năm 1939. Ông nói lên sự bất công trong gia đình, mà vấn đề khai thác này có cả trong Sống nhờ, vì ông là một nạn nhân của chế độ ấy. Cuốn truyện có thể gọi là bán tự sự; ông được lồng vào vai Dần. Sống nhờ có những đoạn văn nồng nàn, chân thành cảm động rơi lệ. Vũ Ngọc Phan có ý xác đáng khi viết: “Đọc tiểu thuyết của Mạnh Phú Tư, người ta nhận thấy ông là một nhà tiểu thuyết giàu tưởng tượng trong các truyện của ông, sự việc rất nhiều, ông gian xếp điều khiển có thứ tự. Nhưng văn ông không phải thứ văn lọc lõi, ngay ở những đoạn hay nhất, người ta vẫn nhận thấy những chữ dùng không chỉnh, không xứng...”

6. TRỌNG LANG (1905-1986 SàiGòn)

Tên thật Trần Tán Cửu. Sinh năm 1905 ở Hà nội, con Tuần phủ Trần Tán Bình. Ông viết cho báo Phong Hóa, Ngày Nay của Tự Lực văn đoàn, chuyên về phóng sự. Tác phẩm đầu tay của ông viết đăng trên báo Đông Dương, Lọ Cổ vào năm 1930 của Mai Duy Lâm. Năm 1932, hài kịch năm màn Đại Giang tiên sinh đưa lên trình diễn dưới quyền điều khiển đạo diễn Tú Mỡ. Khi Thế Lữ chủ trương Ngày Nay, Trọng Lang viết Trong làng chạy, Đàn Bà, Nghiện, Gà chọi, Đời bí mật sư vãi, Hà Nội lầm than (1936-37), Làm dân, Làm tiền. Khi Vũ Ngọc Phan chủ trương báo Hà Nội Tân Văn, ông viết Thầy lang (tái bản sau ngày Nhật đảo chính) lúc này ông làm tổng thư ký báo và viết Đói, Sống sót. Năm 1944, chủ nhiệm nhật báo Thông Tin và viết Những đứa trẻ, Vợ lẽ, Nàng hầu, Những cái đẹp trên mồ hôi nước mắt. Năm 1937 về thành, viết cho Ngày Mới, Dân Chủ. Ông dùng bút hiệu Ba Phải, viết Tuồng Tàu An Nam do Tây đạo diễn châm biếm bọn làm chính trị tay sai cho ngoại bang. Năm 1949 chủ nhiệm nhật báo Thời Đại, Vì Nước, sau hai tờ này bị đình bản. Năm 1950 vào Huế làm cho báo Tổ Quốc viết phóng sự Đây Huế, vì lý do chính trị phải bỏ dở, viết tiếp Quê hương giữa Thần Kinh châm biếm, mai mỉa tác phong, lề lối sống vua chúa, phong kiến. Năm 1951 vào Sài gòn, viết cho báo Dân Chủ: A Sề Goòng dưới bút hiệu Ông Tưởng Tốc và trên nhật báo Dân Chủ, Chiếu trên chiếu dưới qua bút hiệu Đinh Bù Loong. Sau đó ông bắt đầu viết kịch ngắn chống mác xít qua Lòng mẹ, được quay thành phim tuyên truyền. Viết truyện ngắn như Người đàn bà trong đêm ấy, Bà Cai đi Tây ăn Tết. Tác phẩm xuất bản: Tiếu Lâm tân thời ( Lạc việt 1957) đăng tải trên tuần báo Việt Chính của Hồ Hán Sơn. Thời kỳ tiền chiến, phóng sự của Trọng Lang, cuốn Làm dân đặc sắc hơn cả. "So với nhà phóng sự Tam Lang Vũ Bằng, Trọng Lang là nhà phóng sự đanh thép và sắc cạnh" (Vũ Ngọc Phan). Đặc tính trong văn chương phóng sự Trọng Lang là được thực tại xã hội, phong tục, lề lối sống nông thôn cổ hủ, thành thị mại bản thời Tây thuộc lần thứ nhất ở xã hội chúng ta. Nhưng ông cũng không quên đưa cả lề lối, tục quán thô thiển vào văn chương. Nhưng nếu không có thì cũng không phản ánh được hình tượng sống của xã hội đương thời khi ấy. Sở dĩ thô thiển, vì Trọng Lang lọc đãi bằng chủ quan định hướng chưa nghệ thuật. So sánh sự khác biệt phóng sự Trọng Lang và Vũ Trọng Phụng; thì tác giả Làm dân, Đời bí mật sư vãi, mới chỉ nói lên được mẩu sống điển hình nho nhỏ, thiếu hệ thống của sự thành hình rộng lớn (cơ hội sẵn có), mà Vũ Trọng Phụng có nghệ thuật chọn lọc, xếp đặt, xây dựng điển hình, rõ ra đâu là đả phá đâu là xây dựng. Đọc tác phẩm Trọng Lang chưa thể thâu tóm được đại cương lớp sống trong xã hội, mà ở Vũ Trọng Phụng thì nhà cách mệnh Tạ Thu Thâu ở ngoại quốc hiểu được tình hình trong nước. Vì một đằng ghi chép tài liệu, đãi lọc với chủ quan, cấu kết thành một xã hội trong văn chương của một nhà văn có nghệ thuật. Nên Vũ Trọng Phụng trở thành văn vượt hẳn những bạn văn đương thời ở đó.

Đọc mẫu người Tây Môn Khánh, sống dưới thời Nhật thuộc; người đọc thấy Trọng Lang vẫn là nhà văn nghệ phóng sự khách quan ghi chép thô hiển mẩu đời những đứa trẻ cầu bơ cầu bất, do xã hội chính trị tạo nên, mà không căm thù biểu hiện. Giữa xã hội Tây thuộc, con người ở Làm dân như thế nào, thì giữa xã hội Nhật Thuộc, con người chỉ vẫn có thế chẳng khác hơn. Điểm đáng ghi nhớ, khi đọc phóng sự Trọng Lang hiểu được lớp lang thực tế khách quan. Trọng Lang chưa dám có thái độ để phê phán nhân vật của ông trong phóng sự. Ông cho rằng phóng sự chỉ ghi chép thôi. Nghĩa là Trọng Lang chỉ mới dám ghi chép mẫu người sống, chưa ráp vào hệ thống có nghệ thuật một tác phẩm văn chương. Qua Những đứa trẻ, Vợ lẽ, Nàng hầu, Trọng Lang vẫn giữ lối viết ở tiền chiến. Hiện nay, Trọng Lang vẫn sáng tác, giọng văn trong phóng sự thiếu sự sống đằm thắm, nên khó là phóng sự hay được. Truyện Tiếu Lâm tân thời của ông, cũng như kịch chính trị giai đoạn văn chương tuyên truyền cấp thời. Trọng Lang không còn giá trị văn chương, nếu muốn xét ông qua tác phẩm hậu chiến. Kết luận ông chỉ có giá trị ở tiền chiến mà thôi.

7. ĐỖ ĐỨC THU (1907-1979 SàiGòn).

Tác phẩm đã xuất bản: Đứa con (Đời Nay), Vỡ lòng 1940, Bốc đồng 1942, Nhà bên kia 1940, Những bước đi ngang ... (đăng báo Thanh Nghi 1944). Văn không hấp dẫn như Khái Hưng, Nhất Linh, không sôi nổi với nhân vật xã hội tính như Nguyên Hồng. Thỉnh thoảng người đọc mới thấy hào hứng, bởi lẽ, văn đều đều, bố cục chưa mạch lạc, tư tưởng tầm thường (Đứa con).


8. BÙI HIỂN (1919- )

Tác phẩm đã xuất bản: Nằm vạ 1941, Mạ đậu đăng trên các tạp chí Hà Nội Tân Văn của Vũ Ngọc Phan, Chiều sương, (Hà nội Tân Văn 1-3-41) Thuốc độc (Hà nội 26-4-41)… rất đặc sắc. Truyện ngắn trước tiền chiến của ông có tính cách địa phương, viết rặt hình ảnh quê hương nơi ông sinh trưởng, cho nên Vũ Ngọc Phan cho rằng đọc Nằm vạ của Bùi Hiển âm hưởng như Eugène Roy của Pháp, tả người dân quê miền Nantes, những nét đậm đà như Chateaubriand viết La Brière hoặc Joseph de Pesquidoux trong Chez nous sur la glèbe.

9. NGUYÊN HỒNG (1918-1982)

Tác phẩm đã xuất bản: Bỉ vỏ, giải thưỡng tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn 1937, Bảy Hựu 1940, Những ngày thơ ấu (Đời nay, 1940), Cuộc sống 1942, Qua những màng tối, Vực thẳm (Anh Hoa 1944), Hơi thở tàn (Thời Đại 1944)… Có thể nói rằng số nhà văn cộng tác với Đời Nay, Nguyên Hồng là nhà văn có xã hội tính hơn hết. Xã hội tính trong văn chương Nguyên Hồng là tả chân tự sự. Sau 1945, tiến tới tân tả chân (néo-réalisme). Những tác phẩm của Nguyên Hồng phần nhiều dùng cuộc đời mình làm bối cảnh chính. Những ngày thơ ấu, ông đã dám viết thẳng những gì mà thiên hạ cho xấu xa, như bố tôi làm cai chẳng hạn. Truyện viết rất chân thành, đầy nước mắt về ngày thơ ấu sống trong gia đình có ông bố nghiện. Cảnh sống đầy phong ba, cặn bã, kiếm sống (như đánh đáo kiếm gạo), cảnh thương nhớ mẹ, cảnh đau lòng gợi lối viết ở nơi bà cô nhiếc móc, ông không giấu diếm. Giai đoạn đầu viết văn, lập trường ngả sang căm thù đời sống để nghệ thuật phục vụ nhân sinh lối xã hội tiểu thuyết Romain Rolland... Sau tiền chiến, ông nổi tiếng với truyện viết đầy nhân bản tính như truyện vừa Lò lửa (1946).

Theo Vũ Ngọc Phan xét về Nguyên Hồng tiền chiến thì: "Nguyên Hồng chịu ảnh hưởng hơi văn Nga và Anh quốc nên cảm động sâu sắc". Chúng tôi chỉ đồng ý rằng vì có cuộc đời “dưới đáy” cho nên ông có lối văn cặn bã của nhà tiểu thuyết Nga và Anh hay dùng. Như Maxime Gorki, như Charles Dickens chẳng hạn. Từ Bỉ vỏ đến Cuộc sống, Hơi thở tàn tiến bộ rất nhanh chóng. Ngày ở kháng chiến, Nguyên Hồng viết hơi văn khác hẳn các nhà văn đương thời, lối tân tả chân đầy nhân bản tính trong tập truyện Lò lửa động tác rất mạnh mẽ tâm hồn người đọc. Nói như Lỗ Tấn, hơi văn căm thù dẫn đưa đến cách mệnh.

Nhận xét sự nghiệp văn chương Nguyên Hồng tiền chiến, Phạm Việt Tuyền viết trong cuốn Nghị Luận văn chương (Thế Giới xuất bản, 1954, trang 25) có đoạn giá trị:

"...Giá trị của Những Ngày Thơ Ấu một đàng ở chỗ nó cho ta biết nhiều về một nhà văn xã hội, gia đình giáo dục, tâm tình khuynh hướng trên thế giới, một đàng ở chỗ tiêu thụ lại cho ta những vấn đề thắc mắc về xã hội nhân sinh, chẳng phải của riêng một nhà tiểu thuyết Nguyên Hồng mà còn là của chung, của một lớp nhà thơ tiền 1945 nữa. Nếu có điều khiếm khuyết nào đáng tiếc, theo thiển ý, chính là ở chỗ tác giả đã anh hùng hóa tự truyện dài hơi hơn...”

Chúng tôi không đồng ý nhận xét cuối của Phạm Việt Tuyền, vì lẽ Nguyên Hồng không anh hùng hóa một chút nào trong Những ngày thơ ấu. Bởi lẽ, chỉ có thể ông đã không biết ngắt đoạn cuối thiết yếu trong một truyện tự sự. Có thế thôi. Chẳng hạn như Maxime Gorki viết Kiếm sống, ông đã ngắt đúng chỗ cho nhân vật Theckhov lên Kazan học tập, độc giả biết ngay rằng là nhân vật cầu tiến. Giá trị Nguyên Hồng ở tiền chiến: là một nhà văn xã hội tự sự. Một Thiết Can còn trốn cái tôi ở ngôi thứ nhất, thì Nguyên Hồng thành khẩn phơi bày cái tôi, mà đời khinh ở ngôi thứ nhất. Hay Nguyễn Đức Quỳnh viết tự sự cho nhân vật chính qua văn chương ở Thằng Kình. Giá trị văn chương, sự nghiệp Nguyên Hồng còn ở giai đoạn kháng chiến, qua Những chiều đông xám (trong tập Lò lửa) đã nói lên đầy đủ thực trạng một lớp người tranh đấu. Truyện về người Nhật hối cải chẳng hạn, thật đầy nhân bản tính, truyện hay hướng thượng. Chúng tôi cho trích một đoạn văn trong Lò lửa:

“… Nam bỗng thấy sự nhẹ nhàng toát ra trong người Nam, tức tối và đau chói. Nam nuốt nước bọt than thở tự hỏi: Máy Tơ và bến Xi Măng, chúng nó thấy mình không về và bặt tin chắc biết động. Không biết thằng Ba và thằng An có chắc ở mình và có gan quay lại không? Mà cả cái chị ở quê mình có trốn thoát hay không? Nam ngưng lại tê mê, Nam mơ hồ như thấy mình lại được chắp nối lại hoạt động, Nam sẽ được sống. Nam sẽ lại được… Cánh cửa kẹt mở. Một tên mật thám béo lùn, mắt một mí đi ra. Hắn thò đầu ra cửa gọi xuống đường người hàng nước đá rồi quay vào truyền vào người loong toong ra cầu thang đón người nọ.

Ồ bồng quá, mét xì!

Hắn nhận cốc nước của người loong toong bưng vào tận chỗ, vỗ vai ý khen. Keng keng, chiếc cùi dìa quay tít đá trong cốc. Những khoanh chanh, những cục nước đá và đường xoay tròn lại, bắn bọt cả ra bàn. Ực ực, tưởng hắn uống làm cả một hơi cốc nước, nhưng không, hắn chỉ nhấp nháp và khà như uống rượu.

Thấy Nam vẫn nằm im và như không biết có hắn, hắn càng quay mạnh rồi sâu một ngụm to sớt cả ra cằm, ra áo thì hắn dằn cốc xuống bàn.

Này Nam tỉnh rồi. Ấy tớ phải nói với các ông ấy cho cậu đấy. Thôi nghe tớ, uống nước, nước chanh đây rồi khai đi. Nam chỉ lờ đờ nhìn thấy. Hắn nhìn lại, Nam lắc đầu:

Ờ khổ thật! Thôi này nghe tớ, uống nước rồi khai đi.

Nam vẫn không đáp. Hắn cúi xuống lay tay Nam:

Khai đi Nam ạ, Xứ ủy, Thành bộ, Giao thông, cậu giấu thì khai một tiểu tổ vậy, một tiểu tổ hai người với cậu là ba cho đủ lệ thôi, quần chúng thường cũng được. Rồi tớ làm ráp bo cậu chỉ mới có công tác thế thôi và cậu ký vào tờ cũng thế, thế là xong, biên bản tư tòa cho chóng. Và khỏi phải khổ, và có khi tớ điều đình với ông Bôn cậu được tha cũng nên. Ông Bôn mới đổi về đây, Cà Rông, Xi Măng, ông đều dìm đi. Nhỡ có cán bộ nào lộ và nhất là chính trị phạm cũ nào như cậu ấy hoạt động mà bị bắt. Ông ấy đều hết lòng nương nhẹ, che chở cho. Cậu yếu lắm, đi Sơn La và Côn Nôn về vẫn còn ốm phải không? Chặc! Nếu cậu cứ khăng khăng, rùng rình mãi thì khó lắm. Không khéo chết mất? Mà không chết ở đây sang đề lao hay già lắm thì phát vãng cũng chết thôi. Hừ!... ra tù vào tù lăn lộn tranh đấu như cậu thế cũng đủ rồi, cũng không phải thẹn nào với anh em đồng chí. Giờ có khai sơ như thế cũng chẳng có ai dám trách. Rồi có được tha về nhà thì để cho ông cụ bà cụ - À quên ông cụ bà cụ đã mất rồi nhỉ? Thì cho bà cô cậu ăn thừa tự ấy mà, bà ấy thuốc thang tẩm bổ cho. Chiến tranh cũng sắp hết rồi. Chính phủ bên Pháp lại thay. Các cậu lại tha hồ ra cung khai như hồi 36, 37.

Kìa! Hắn ngừng lại và cau mặt nhìn vào mặt Nam.

Nam chỉ nằm im và mắt nhìn của Nam càng long lanh mãi. Nam mới lắc đầu phều phào:

Cảm ơn anh. Chúng tôi có hoạt động gì đâu, có tờ di chúc ai đâu mà khai.

Hắn liền nghiêng nghiêng nhăn mặt:

Cái gì? Cái gì? Thế nào?

Nam nhắc lại câu vừa mới nói. Hắn lại cười ngay đoạn bảo người loong toong cầm cốc nước đến. Hắn suýt xoa:

Khổ thật, tớ bảo cậu chỉ khai lấy lệ hai thằng bô lão nào đấy để làm cho xong biên bản thôi mà. Nghe tớ đi đây uống nước đi đá tan hết rồi.

Hắn đặt cốc nước lạnh toát lên tận miệng Nam, Nam rợn cả người vì hơi đá sốc vào mũi với mùi chanh chua đến se cổ, trong khi môi Nam áp vào làn thủy tinh, vụt tươi và nở phồng lên không biết chừng nào. Nhưng Nam lắc đầu và nhìn lên hắn run run:

Thật tôi không biết khai cho ai. Anh tính bọn anh em cũ họ tưởng tôi còn có thể hoạt động thì tìm đến tôi. Vừa giao cho tôi ít tài liệu hỏi tôi còn biết gì, còn biết khai thế nào?

Này không biết… Này anh em cũ… Này hoạt động… Này đảng… này công khai.

Cái đế giày lại đấm huỳnh huỵch lên ngực, lên sườn, lên vai Nam. Nam rú lên. Cánh cửa ở gian bên đã mở, hầm hầm bước sang một tên Tây lai to lớn và hai tên Tây đen cũng vậm vạp không kém. Chúng hô:

Lại quay điện. Lại treo nó lên, ca-đui ca-đui.

Cái xác mềm rũ của Nam lại bị tung lên, vứt xuống lăn lóc. Rồi mồm đầy rẻ, Nam lại bị kéo đến hòm điện. Những tiếng kêu ằng ặc. Những tia lửa giật giật ở khắp thái dương. Lỗ mũi yết hầu, bàn chân và dái Nam. Sau cùng, một chiếc giày thừng dốc ngược Nam lên để bốn cái chày cao su thi nhau quật. Nam quay lơ như cái bao của các “bốc sơ”(9) tập.

Hãy thôi. Hãy thôi. Nghe xem nó nói cái gì kia:

Tên mật thám Tây bỗng xua tay ngăn và hổn hển bảo bọn chúng.

Nam, máu mồm, máu mũi chảy giòng giòng, hổn hển:

Tôi xưng, tôi xưng.

Tên mật thám đã đến cười xằng xặc:

Có thế chứ… Đéo mẹ mày!

Tên mật thám Tây lại thân cởi cho Nam và tên mật thám đỡ Nam ngồi xuống. Tên Tây lai nhớn nhác tìm cốc nước toan đưa cho Nam thì tên mật thám ta xua tay:

Chết! Chết. Hãy gượm. Nó uống nước đá ngay giờ thì đứt ruột mất, và hãy hỏi xem nó xưng gì đã.

Nam được chúng để cho ngồi thở giây lát rồi chúng mới giục:

Nào xưng, xưng mau đi, rồi nước đây tha hồ uống.

Nam từ từ hé mắt:

Vâng, rồi cho tôi uống cũng được và tôi xin khai.

Im lặng giây phút sau, Nam gạt vén lên những sợi tóc rũ xuống trán rồi mắt lấp lánh nhìn bốn tên nọ, mỉm cười thong thả từng nhời:

“Các anh! Những sự tra tấn tù đầy, bắn giết. Lẽ phải càng ngày càng dã man khốc liệt bao nhiêu thì càng vô hiệu bấy nhiêu thôi. Mà trong cuộc chiến đấu này, giữa các anh và chúng tôi… cũng là chúng tôi, cũng là cách mệnh cũng là cách mệnh (10)”

Hai bàn tay của Nam ghì trong giây xích giơ lên rung rung châm cho từng nhời với một nụ cười sáng rực trên gương mặt máu đầm đìa.

10. KIM HÀ (1912 – 2000 Hà Nội)

Tác giả tiểu thuyết Tiếng Còi Nhà Máy giải thưởng văn chương Tự Lực văn đoàn 1939 (Tân Việt 1941)... Viết về chiều sâu sinh hoạt của giai cấp công nhân lao động thành phố. Giá trị của Tiếng còi nhà máy không văn chương, nhưng nội dung phản ánh rất sống về đời anh em nhà máy.

11. ĐỖ TỐN (1923-1974)

Tác phẩm đã xuất bản Hoa Vông Vang (Đời Nay 1945). Truyện ngắn của ông viết theo thể diễn đạt hình tượng cuộc sống qua lối văn cảm giác. Tập truyện ngắn đầu tay đã là văn phẩm giá trị. Nhất Linh viết tựa, nhận định: “Đỗ Tốn đã làm tôi ngạc nhiên một cách vui sướng từ khi mới xem xong vài ba truyện trong cuốn “Hoa Vông Vang”. Người bạn trẻ của tôi đã có những nhận xét tinh vi về đời sống, về những hành động, tâm tình của người tôi”.

Một truyện ngắn hay nhất của ông là Hoa Vông Vang đem lại thích thú cho người đọc, đoạn kết phóng bút theo giác quan nhân vật làm giảm giá trị một phần, ở đoạn: nhân vật chính quen một thiếu nữ, mãi về sau này khi nàng đi lấy chồng rồi, chàng ta mới biết là nàng yêu mình và chàng cũng yêu nàng. Đỗ Tốn cho chàng trở lại tìm người yêu, theo giác quan rất chính đáng, nhưng theo nhân sinh phục vụ nghệ thuật, sống để tô đẹp cho đời đẹp hơn lên; thì truyện hay nhất bị khuất lấp một phần ý nghĩa cao thượng. Sau tiền chiến, ông viết rất ít; phục vụ trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa ( Nam Việt Nam).


CÒN TIẾP ...