Việt Văn Mới
Việt Văn Mới

Đình Trà Cổ, nơi thờ Quận He.






CUỘC ĐỐI ĐẦU GIỮA PHẠM ĐÌNH TRỌNG

VÀ HẠNG VÕ NGUYỄN HỮU CẦU



  
        

N guyễn Hữu Cầu

Nguyễn Hữu Cầu ( ?- 1751) là người xã Lôi Động, huyện Thanh Hà , Hải Dương , Việt Nam . Lúc bấy giờ là khoảng triều đại vua Lê Hiển Tông (1740- 1786). Ông là thủ lĩnh một cuộc khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài vào giữa thế kỷ 18 thường được mọi người ca ngợi là Hạng Võ nước Nam. Nguyễn Hữu Cầu xuất thân trong gia đình nông dân nghèo, nhưng lại có tài cả văn lẫn võ . Ông bơi lội rất giỏi nên được gọi là quận He, từ tên một loài cá ở biển Đông.

Hữu Cầu vì nhà nghèo nên đi làm cướp, sau theo Nguyễn Cừ khởi nghĩa, được Cừ yêu quý gả con gái cho. Chẳng bao lâu ông nổi tiếng là một viên tướng giỏi võ nghệ, dũng cảm gan dạ và nhiều mưu lược làm cho triều đình ở Thăng Long kinh hoàng, lo lắng .

Vì ngày thường cướp được thóc gạo của thuyền buôn, đem cho dân nghèo, cho nên quận He đi đến đâu cũng có người theo, muốn lấy bao nhiêu quân lương cũng có. Nguyễn Hữu Cầu được các sử gia đánh giá là người kiệt hiệt, nhiều mưu mẹo nhất trong số các thủ lĩnh khởi nghĩa lúc đó. Có khi bị vây hàng mấy vòng, ông chỉ một mình một ngựa phá vây ra, rồi chỉ trong mấy ngày lại có hàng vạn người đi theo.

Các tướng Trịnh ai cũng sợ quận He, duy chỉ có Phạm Đình Trọng là bạn học thuở nhỏ là người hiểu quận He. Hai người đố kỵ nhau từ trước, sau đó lại đối địch, Hữu Cầu đào mồ mẹ Trọng đổ xuống sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng sống ở đời với Nguyễn Hữu Cầu.

Năm 1746, quận He cho người đem vàng về đút lót cho Đỗ Thế Giai và người nội giám là Nguyễn Phương Đĩnh để xin hàng, Trịnh Doanh thuận cho và lại phong cho làm Hướng Nghĩa Hầu.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đã xin về hàng, nhưng vẫn cứ cướp phá các nơi, sau lại về phá ở đất Sơn Nam. Phạm Đình Trọng đánh đuổi Hữu Cầu ở Cẩm Giàng, Hữu Cầu nhân lúc kinh thành không ai phòng bị, nên lẻn về đánh, ngay đêm hôm ấy kéo quân về bến Bồ Đề. Đến nơi thì trời vừa sáng; có tin báo, Trịnh Doanh tự đem quân ra giữ ở bến Nam Tân. Phạm Đình Trọng biết tin ấy lập tức đem quân về đánh mặt sau, Hữu Cầu lại thua bỏ chạy, về cùng với Hoàng Công Chất cướp ở huyện Thần Khê và Thanh Quan. Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh xuống đánh đuổi. Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An, hợp với thủ lĩnh khởi nghĩa tên là Diên ở Hương Lãm (thuộc huyện Nam Đường).

Năm 1751, Phạm Đình Trọng đem quân vào đánh phá trại. Hữu Cầu chạy đến làng Hoàng Mai thì bị bắt, đóng cũi đem về nộp chúa Trịnh. Trịnh Doanh , cùng lúc đó dẹp được Nguyễn Danh Phương, bắt mang về Kinh đô, đi đến làng Xuân H y , huyện Kim Anh, gặp người của Phạm Đình Trọng giải Nguyễn Hữu Cầu đến. Trịnh Doanh bèn mở tiệc khao quân, bắt Danh Phương dâng rượu, Hữu Cầu thổi kèn.

Hữu Cầu nuốt nhục hầu chúa, khi về kinh thành định vượt ngục nhưng không thành. Tháng 3 năm 1751, ông bị hành hình. Phạm Đình Trọng mang quân về quê ông, quật mộ bố Nguyễn Hữu Cầu, giết 3 họ gia quyến ông.

Tiểu sử Phạm Đình Trọng

Phạm Đình Trọng (1714 - 1754), là danh tướng đời Lê - Trịnh. Quê: Khinh Dao, huyện Giáp Sơn, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương (nay là huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương). Đỗ Tiến sĩ 1739, làm phó đô ngự sử, vào Phủ chúa làm Bồi tụng, sau chuyển làm Thống lĩnh quân, đánh dẹp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu ở Hải Dương, Kinh Bắc và Nghệ An. Đầu 1751, bắt được Nguyễn Hữu Cầu đưa ra Thăng Long, được thăng làm thượng thư Bộ Binh, tước Hải quận công. Sau làm trấn thủ Nghệ An. Ông mất tại trấn sở. Triều đình truy tặng tước Đại vương.

Thuở hàn vi

Tương truyền thuở nhỏ Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng cùng học một thầy. Trọng hay được thầy khen nhưng Cầu không phục. Một hôm đi đám ma về, thầy cho cả hai người đi theo. Nhà đám biếu thủ lợn, Cầu và Trọng tỵ nhau không ai chịu xách. Thầy bèn ra vế đối, bảo ai đối được thì không phải xách:

Huề trư thủ (xách đầu lợn)

Trọng đối lại:

Phan long lân (Vịn vây rồng)

Còn Cầu đối:

Diệt Tần phá Sở

Thầy gõ quạt lên đầu Cầu, nói câu đối không chuẩn, thừa chữ và bắt xách thủ lợn. Nhưng Cầu vẫn gân cổ cãi:

"Tôi đối sai thật, nhưng ý tôi là muốn bóc vẩy rồng kia, chứ không thèm vịn vây rồng như Trọng!"

Một lần khác thày lại ra vế đối:

Mười rằm trăng náu, mười sáu trăng treo

Trọng đối:

Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc

Cầu lại đối rằng:

Tháng mười sấm rạp, tháng chạp sấm động

Thầy nghe xong bảo:

" - Thằng Trọng có khẩu khí làm quan to, còn thằng Cầu thì chỉ làm giặc! "

Rồi từ đó ông đồ sợ không dám nhận dạy Cầu nữa. Sau này quả nhiên Trọng làm quan cho nhà Lê còn Cầu khởi nghĩa chống triều đình.

Ngoài chiến trận

Tương truyền có lần hai bên đối trận, Phạm Đình Trọng ra vế đối sai người đưa cho Cầu như sau:

Thổ triệt bán hoành, thuận giả thượng, nghịch giả hạ

Nghĩa là:

chữ "thổ" bỏ nửa một nét ngang, để xuôi là chữ "thượng", để ngược là chữ "hạ". Câu này có ý đe doạ Cầu nếu thuận theo triều đình thì có chức, chống lại thì bị diệt.

Hữu Cầu viết thư đối lại rằng:

Ngọc tàng nhất điểm, xuất vi chúa, nhập vi vương

Nghĩa là:

bộ "ngọc" có một dấu chấm, để lên đầu là chữ "chúa", bỏ đi là chữ "vương". Ý nói chí lớn của mình chẳng làm chúa cũng làm vua chứ không chịu hàng.

Chim trong lồng"

"Chim trong lồng" là bài thơ nổi tiếng trước khi bị đem hành hình của Nguyễn Hữu Cầu còn lưu truyền đến ngày nay. Bài thơ làm cả tiếng Hán cả tiếng Nôm, có những từ cổ mà có lẽ tiếng Việt thời đó quen dùng.

Khi Cầu bị bắt, Trọng lại gần xem Cầu có kêu cầu gì không, nhưng Cầu thản nhiên ngồi hát xướng rất ngang tàng. Trọng hỏi:

" Anh bây giờ như con chim trong lồng, còn gì mà hát? Nghe nói anh có tài thơ, trong trường hợp nào cũng làm được, vậy anh thử làm bài thơ "Chim trong lồng" xem sao? "

Cầu không cần đợi giục hai lần, liền ngâm:

Nhất lung thiên địa tàng thân tiểu  
Vạn lý phong van cử mục tần  
Hỏi sao sao luỵ cơ trần  
Bận tài bay nhảy, xót thân tang bồng  
Nào khi vỗ cánh rỉa lông  
Hót câu thiên túng trong vòng lao lung  
Chim oanh nọ vẫy vùng giậu bắc  
Đàn loan kia túc tắc cành nam  
Mặc bay đông ngữ tây đàm  
Chờ khi phong tiện dứt dàm vân lung  
Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu Hán  
Phá vòng vây làm bạn kim ô  
Giang sơn khách diệc tri hồ?

Theo Việt Nam sử lược , khi Cầu bị bắt mang nộp chúa Trịnh cùng lúc với Nguyễn Danh Phương, chúa sai bày tiệc, bắt Phương rót rượu và Cầu thổi kèn hầu tiệc. Không rõ có phải đó chính là lúc Cầu ngâm bài thơ này hay không.

Nguyễn Hữu Cầu và Phạm Đình Trọng một đời đối địch. Những người tin vào tâm linh có thể coi hai người như có nợ từ kiếp trước, chẳng những đối địch từ khi đi học đến khi cầm quân, khi ra mặt trận không chỉ đối gươm mà đối cả chữ. Hai người chí hướng khác hẳn nhau, người ra làm quan, người đi làm giặc. Cầu đào mộ mẹ Trọng thì đúng là hành động quân cường khấu, nhưng Trọng là đại quan triều đình cũng trả thù quật lại mộ cha Cầu thì cũng không khá hơn giặc cướp. Dẹp được Cầu, Trọng được phong làm Binh Bộ thượng thư . Nhưng cũng chỉ 3 năm sau (1754), Trọng chết lúc mới 40 tuổi. Có Cầu thì có Trọng đối địch, Cầu không còn thì Trọng cũng ra đi, như truyện dân gian "Trạng chết thì chúa băng hà".

Đền thờ

Ngày nay có nhiều nơi thờ Nguyễn Hữu Cầu. Tại thôn Cựu Điện, xã Nhân Hòa , huyện Vĩnh Bảo (Hải Phòng ) có đền thờ Nguyễn Hữu Cầu rất lớn. Tại Đồ Sơn , ông được thờ ở miếu Ngọc Xuyên, trong 6 vị tiên công và 2 vị thần có Nguyễn Hữu Cầu (gọi là " bát bộ tôn thần " ). Cũng tại Đồ Sơn có " đài lên ngôi " của quận He.

Tại thôn Kinh Giao (An Hưng, An Nại, Hải Phòng) quê của Phạm Đình Trọng, bên cạnh đền thờ Đình Trọng có cả đền thờ Nguyễn Hữu Cầu.

Trên đường Yên Tử, gần Suối Tăm, có miếu nhỏ thờ Nguyễn Thị Quán (được tôn là Nguyệt Nga công chúa) là em gái quận He - người cũng tham gia khởi nghĩa, vợ của bộ tướng Giang Tâm. Tương truyền bà tự vẫn ở bến Đầu Cầu.

Giữa cánh đồng xã Lôi Động, gần sông Ngựa Lồng (Thanh Hà, Hải Dương), có đền thờ nơi phát tích của quận He, có bia ghi: " Tiên triều Ninh Đông vương phát tích mộ " .

Tại làng Trà Cổ, thị xã Móng Cái (Quảng Ninh) có đình Trà Cổ thờ các vị tổ (Thành Hoàng làng), đồng thời là nơi thờ Quận He.

Ghi chú thêm :

Có tài liệu viết Phạm Đình Trọng và Nguyễn Hữu Cầu là đôi bạn thân từ thưở nhỏ và thường dùng cờ tướng đem ra thí ứng. Sở trường Nguyễn Hữu Cầu là dùng cặp Mã với một chiến pháp vô lường và thường nói với bạn rằng "Con mã chạy được khắp nơi, sức phi ngàn dặm, phá được chiến trường. Sau khi nhập cung cặp cổ được con Tướng mà nên việc lớn. Sau này lớn lên, với con ngựa Ô Long, tôi đột nhập Hoàng Thành thì cái ngai vàng của vua, cái ngôi của chúa khó gì không nắm được!". Phạm Đình Trọng lại có sở trường ở cặp Pháo, thường trị được cặp Mã song toàn của bạn nhưng cũng lắm khi thất bại. Đình Trọng thường nói với bạn rằng: "Con Mã của anh lợi hại nhưng nước dài và lanh lợi đâu bằng cặp Pháo. Nếu sau này con ngựa Ô Long của anh làm mưa làm gió thì Pháo tôi cũng rượt mã đến cùng, đâu để anh lọt vào Hoàng Thành mà ngồi lên ngai được!". Quả nhiên về sau Hữu Cầu thi đỗ làm giặc xưng là Đông Hải Quận Vương. Phạm Đình Trọng thi đỗ Tấn sĩ làm tướng đi dẹp Hữu Cầu. Cuối cùng Trọng tóm được Hữu Cầu giải về kinh đô trị tội.
(Sưu tập và biên soạn từ Internet)



. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả đã chuyển