K húc sinh ra trong một gia đình cũng thuộc dạng trung bình khá ở đất Quảng Ngãi, mảnh đất cằn cỗi khó sinh nhai với những con người chịu thương chịu khó. Ông của Khúc là người đã một tay gầy dựng nên nền kinh tế hiện tại của gia đình, sau khi đi lính, ông về quê ra sức vun trồng cày thửa ruộng mà người ta bỏ, lại khai hoang mảnh đất rộng phía sau núi, trồng cây, làm rẫy và sau cũng dần có của ăn của để. Ông trân trọng từng đồng tiền mình làm ra nhưng đồng thời cũng mang nặng tư tưởng phong kiến, vẫn còn tâm niệm rõ ràng mình là chủ gia đình và ai cũng phải phục tùng. Đặc biệt là tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn hiện hữu.
Ngay cả cái tên của một đứa con gái như Khúc cũng vẫn là tên mà ông đã đặt từ trước cho cháu đích tôn của mình nhưng ông lại chỉ có một mụn con trai, và ba Khúc lại chỉ sinh được một người con gái duy nhất là Khúc. Khúc còn nhớ những năm tháng ấu thơ của mình là chuỗi ngày ngập tràn nước mắt bởi người ông vừa là chủ gia đình vừa là người đậm tư tưởng cổ hủ. Đặc biệt là vào những ngày Tết, những ngày mà truyền thống gia đình và sự sum họp được đẩy lên cao nhất thì ông chỉ mang đến sự chia ly cho gia đình nhỏ. Ngày ông nhất quyết bảo ba Khúc đi lấy vợ khác để sinh con trai nối dõi cũng là vào những ngày giáp Tết. Khúc vẫn còn nhớ mình đã như một cái bóng trong đại gia đình cùng sống trong căn nhà lớn ở dưới quê với gian chính là ông ở cùng từ đường và các gian nhỏ xung quanh dành cho con cháu. Ông chưa bao giờ gọi đến tên Khúc, dường như ngay cả việc Khúc tồn tại cũng là điều ông chối bỏ. Và mọi người vừa kính nể vừa sợ ông cũng ghẻ lạnh Khúc.
- Mày là đứa con bất hiếu. Nếu mày không cưới vợ khác tao sẽ từ mày.
Những lời ông nói với Khúc ba ngày đó, Khúc không thể nào quên được. Hăm tám Tết, ba dẫn má con Khúc rời khỏi gia đình lớn đi thành phố khác kiếm kế sinh nhai. Dù khá chật vật với cuộc sống mới nhưng ba má Khúc luôn dành tất cả sự yêu thương cho Khúc như bù đắp lại những năm tháng tuổi thơ mà Khúc đã ở gia đình nội. Thế nhưng mọi thứ lại thay đổi một lần nữa khi Khúc bước vào năm cuối cấp, lúc đó ba Khúc nghe tin ông ốm nặng và gia đình có nhiều biến cố nên lại thu xếp để về ở với nội.
Đó là những tháng xuân khi con én đang chao liệng trên trời những sải cánh đầu tiên, ba kể cho Khúc nghe về tình hình gia đình nội : vì những bươn chải trong quá khứ nên về già ông nội đổ đau, các cô chú vốn trước kia sống quây quần bên cạnh nhà khi kinh tế mới đất đai giải tỏa cũng tranh thủ bán đất đi rải rác khắp nơi sinh sống không ai ở cạnh ông. Một phần nữa vì tính ông quá khó nên không ai muốn ở gần và khi tài sản ông bán dần theo những đơn thuốc và ông chia cho những con cháu trong gia đình thì ông cũng dần mất đi tiếng nói. Ngày trước họ nể sợ ông, nhưng giờ ông chỉ là người mà họ chối bỏ khi không còn gì trong tay.
Ngày gia đình nhỏ của Khúc tay xách nách mang vali lớn nhỏ về lại căn nhà xưa, căn nhà lớn ấy nay chỉ còn một gian chính còn những gian xung quanh đã bị bán sạch. Ông vẫn ngồi đó, cô độc nhưng uy nghi với chòm râu phất phơ dưới nắng. Ông không cả nhìn, dường như sự kiêu hãnh vẫn còn nhưng đồng thời sự im lặng cũng là ngầm chấp nhận, xét cho cùng, chỉ có mỗi gia đình Khúc quay về lo lắng cho ông. Khúc còn nhớ những năm tháng ấy, khi cả gia đình chộn rộn Tết, hành động duy nhất của ông là đi tìm một ông đồ nào đó ghi cho đôi câu đối, dường như truyền thống vẫn được ông giữ trong khuôn phép. Căn nhà nhỏ được hồi sinh nhờ ba má Khúc trang hoàng, ba Khúc thì tất bật với những chậu quất, chậu mai; Má Khúc tranh thủ bán buôn ngoài chợ rồi cũng sẵn tay mua miếng thịt quả trứng làm nồi thịt kho tàu, dăm củ kiệu…Còn Khúc luôn thích sáng đêm với việc canh nồi bánh chưng. Những năm đầu, Khúc vừa sợ và có chút ghét ông, nhưng khi thấy ông vò võ một mình trong căn nhà, chợt nhớ lại ngày tháng khi xưa mình đã cô độc, Khúc thương nhiều hơn cả sợ.
- Ông có muốn canh nồi bánh chưng cùng con hông?
- Tao già rồi mà bây không tha cho tao nữa hả?
Ông quở thế nhưng ông cũng ngồi, còn Khúc cũng cười hì hì đưa đẩy câu chuyện… Phải mất rất nhiều năm hai người mới nói chuyện, những câu chuyện không đầu không đuôi nhưng lại như ngọn lửa trước mặt làm ấm đi mối quan hệ của hai con người.
Khoảng sân trước nhà đột nhiên trở thành mảnh đất mặt đường khi phía trước nhà được giải tỏa để xây công viên. Gía đất tăng vùn vụt khiến những người con cháu khi xưa từng bỏ rơi ông quay về thăm ngày Tết đông như trẩy hội. Thấm thoắt đã ba năm kể từ ngày gia đình Khúc dọn về ở tiện chăm sóc ông, chưa bao giờ Khúc thấy nhà mình đông như vậy, hệt như năm xưa, khi căn nhà năm gian vẫn còn và những khoảng đất rộng một tay ông gầy dựng để cho con cháu vui đùa. Khúc nhẹ nhàng bưng trà mời nước các bậc họ hàng mà đã rất lâu rồi mới gặp, thời cũng chẳng còn nhớ rõ nổi được ai với ai. Ông ngồi giữa nhà, nhắm mắt im lặng giữa những tiếng tranh cãi, bàn tay đặt hờ lên chiếc gậy chống thẳng đứng phía trước mặt. Họ tranh cãi, họ giành giật về việc nuôi ông, cái nghĩa vụ mà họ đã từng quên nhưng nay vì quyền lợi nên tranh đoạt. Vì họ biết ông tuổi đã cao, và cái mảnh đất kia rồi bằng cách nào đó sẽ về tay họ như cách họ đã từng làm. Khúc bưng lên một chiếc dĩa nhỏ có mấy chiếc bánh in nhân vừng mà ông thích ăn, khép nép đứng cạnh ông, ông đưa tay vẩy xuống ngồi bên cạnh mình. Nhìn những con người đang ồn ào trước mặt, lại nhìn đứa cháu nhỏ đang chuẩn bị vài tháng nữa sẽ viết hồ sơ vào đại học ông khẽ nhói lòng.
- Thôi bây giờ để ông quyết định, ông ở với ai?
Ông chợt nhớ lại cách đây vài hôm khi Khúc và ông đương đổ mẻ bánh in ngày Tết, hai ông cháu tâm sự về chuyện dự định thi đại học trường nào của Khúc. Lúc đó Khúc đã suy nghĩ rất lâu rồi chợt nói :
- Con dự định thi đại học gần nhà. Ba má dạo này đi buôn xa, chỉ mình ông ở nhà con không yên tâm.
Ông chọn ở lại với gia đình Khúc cũng là lúc Khúc viết đơn thi đại học vào trường gần nhà…
Ngày Khúc đi lấy chồng cũng đương vào những ngày giáp Tết. Mùa xuân là mùa cưới. Nhà Khúc neo người nên vừa chuẩn bị cho Tết vừa chuẩn bị cho đám cưới cũng rất vất vả, nhưng cả Khúc và phía chồng vốn đều giản đơn nên cũng định làm cái cỗ coi như báo với gia tiên xóm làng thôi. Nhưng ông nghiêm nghị:
- Nhà có đứa cháu gái duy nhất, chuẩn bị tươm tất thì nhà chồng nó mới biết mình coi trọng nó không ăn hiếp nó được.
Lời ông nói vừa có chút nghiêm nghị lại có chút buồn cười nhưng chan chứa cả tình yêu thương trong đó. Ngày Khúc cưới, ông giếm cho Khúc ít vàng bấy lâu ông để dành, thậm chí ông còn thương Khúc đến mức định bán mảnh đất được giá để Khúc làm của hồi môn nhưng Khúc ngăn lại vì chưa cần đến và cũng vì Khúc muốn giữ lại nơi ở rộng rãi cho ông và ba má, cũng là những kí ức sâu đậm dẫu rất muộn hai người mới ghi lại cùng nhau.
Ngày Khúc cưới, sức khỏe của ông đã rất yếu nhưng ông vẫn nhất quyết đi họ. Bộ dáng nghiêm nghị còn có phần lúng túng khi diện bộ vest lên người nhìn thấy cả sự hãnh diện, và cả sự lo lắng mong đám cưới của cháu gái nhỏ sao cho được chu toàn nhất. Đám cưới nhỏ nhưng rình rang cả một xóm nhỏ, vài đứa nhóc tinh nghịch đốt pháo đỏ đầy đường, đôi ba con én liệng trên bầu trời như xé mây tạo hình thành một màu hạnh phúc. Ông đại diện họ nhà gái lên phát biểu đôi ba lời, dặn dò chú rể, giọng ông run run, vì tuổi tác, nhưng cũng vì xúc động:
- Nhà ông có đứa cháu gái, đã chịu nhiều cực khổ, nay gả cho con cũng là để nương tựa vào con, ông không mong gì hơn là hai đứa có thể sống vui vẻ và hạnh phúc.- Rồi ông trầm ngâm hắng giọng - Nhưng nếu, có vì lí do gì đó mà hai đứa có mâu thuẫn, con đừng đánh nó, cũng đừng mắng nó, cứ trả nó về với ông, ông sẽ nhận lại…
Những lời ông nói làm cả hội trường dường như rơi lệ. Người đàn ông ấy vẫn khó tính, vẫn nghiêm nghị, vẫn ít nói, vẫn khoác lên mình bóng dáng uy nghiêm như hình ảnh chủ gia đình năm nào. Duy chỉ có tình thương, đột nhiên thể hiện rõ ràng hơn chút xíu.
Không khí xuân đương về, vài cơn gió xuân cũng đương về mát rượi. Trên bầu trời những tia nắng vắt ngang tưởng mình là họa sĩ vẽ những bức tranh đượm màu hạnh phúc. ./.