Nguyên tác của Harry Arlo Nimmo (HoaKỳ)
Vài Hàng Về Tác Giả:
Harry Arlo Nimmo, một nhà nhân chủng học và nhà văn chuyên viết truyện ngắn sinh năm 1936 tại một cộng đồng nông dân nhỏ ở Monroe,
Iowa. Vì quan tâm tới vùng Thái Bình Dương và Đông Nam Á, ông theo học tại Đại học Iowa ngành nhân chủng học vào năm 1960. Năm sau,
ông tiếp tục học Cao Học về nhân chủng học tại Đại học Hawaii, Nimmo tham gia điều tra về văn hóa Sulu, một vùng thuộc lãnh thổ Phi
Luật Tân. Ông nghiên cứu Quần đảo Tawi-Tawi, một hòn đảo phía Đông Borneo, điều tra tổ chức xã hội của người du mục sống trên thuyền
của sắc dân
Sama Dilaut (còn được gọi là Bajau) để làm luận án Cao Học vào năm 1965.
Nimmo theo chương trình Tiến sĩ nhân chủng học tại Đại Học Hawaii. Ông trở lại Tawi-Tawi vào năm 1965 để nghiên cứu thêm trong mười
tám tháng cho luận án Tiến Sĩ, nghiên cứu điều tra những thay đổi xảy ra khi người Sama Dilaut chuyên sống trên thuyền du mục
chấp nhận chuyển đến sinh sống trên các ngôi nhà trên đất liền.
Ông nhận bằng Tiến sĩ tại Đại Học Hawaii năm 1969.
Năm 1968, Nimmo nhận một vị trí giảng dạy tại Khoa Nhân Chủng Học tại Đại Học tiểu bang California Los Angeles và ba năm sau,
ông gia nhập Khoa Nhân Chủng Học tại Đại Học California East Bay. Ông trở lại Tawi-Tawi trong các chuyến nghiên cứu ngắn vào
những năm 1977, 1982 và 1997.
Nimmo đã viết mười hai cuốn sách và hàng chục bài báo. Hầu hết các ấn phẩm này (bao gồm cả hai tuyển tập truyện ngắn)
đều dựa trên nghiên cứu về đất nước Phi Luật Tân. Tập truyện ngắn “Dân Sama Dilaut trên đảo Tawi-Tawi” của ông
đã giành được giải thưởng xuất sắc về bộ môn Khoa Học Xã Hội năm 2002 do Hiệp Hội Phát Triển Sách Philippines trao tặng.
Tuyển tập truyện ngắn “Tại Một Nơi Rất Xa” (2012) lọt vào vòng chung kết Giải Thưởng Sách
Quốc Gia Philippines năm 2013 dành cho bộ môn truyện ngắn. Tại hội nghị thường niên năm 2002 của Hiệp hội Nhân
Chủng Học Philippines, Nimmo đã được công nhận đặc biệt về các nghiên cứu của ông tại quốc gia này.
L ẽ ra tôi không nên đến gần Lâm An nhưng tôi đã không làm thế. Gã cục súc, ồn ào, thiếu nhạy cảm và hết sức khó chịu. Nếu không phải vì hoàn cảnh đặc biệt trong giai đoạn đó, tôi sẽ không bao giờ chịu đựng được gã sau lần gặp đầu tiên.
Tôi là một nhà nhân chủng học và đang tiến hành nghiên cứu thực địa ở Subfox, một cộng đồng đánh cá nhỏ ở cực nam Philippines nơi Lâm An sống. Đó là cộng đồng người Bajau, một sắc dân sống rải rác khắp vùng biển phía nam Philippines với những ngôi làng được xây dựng trên cọc tại các rạn san hô cạn. Lâm là một người Trung Quốc, kết hôn với một phụ nữ Bajau, kiếm sống bằng nghề thu mua cá.
Tôi đã gặp gã trong tuần đầu tiên trong cộng đồng này. Tôi vừa uống cà phê sáng xong và đang ngồi trên hiên ngôi nhà nơi tôi ở, nhìn những người đàn ông chất dụng cụ lên thuyền cho một ngày đi đánh bắt cá. Tôi dự định sẽ đi lang thang quanh cộng đồng vào ngày hôm đó để người Bajau có thể nhìn thấy mình trước khi đặt câu hỏi cho họ. Khi tôi uống ngụm cà phê cuối cùng, một thanh niên Bajau chèo một chiếc thuyền độc mộc nhỏ tới.
- Ông Lâm muốn ông mang thuốc tới. - Anh nói mà không cần giới thiệu. Anh ấy nói bằng tiếng Samalan, ngôn ngữ của sắc dân anh ta.
- Ông Lâm là ai? Tôi hỏi bằng cùng một ngôn ngữ.
- Ông Lâm. Đằng kia. - Anh ta chỉ về phía những ngôi nhà phía bên kia.
Nghĩ là sẽ không thu thập được nhiều thông tin từ thanh niên này, tôi hỏi người chủ nhà, người vừa mới bỏ những tấm lưới cuối cùng vào thuyền, cùng một câu hỏi.
- Một người Trung Hoa, một người thu mua cá. Ông ấy sống trong ngôi nhà lớn. - Ông ta chỉ về hướng mà thanh niên vừa chỉ.
- Tại sao ông ta muốn dùng thuốc? - Tôi hỏi.
- Tôi không biết. - Chủ nhà trả lời. – Tôi phải đi ngay bây giờ. – Ông ta cởi dây cho chiếc thuyền và bắt đầu chèo qua vùng nước nông.
- Vợ ông ấy bị ốm - Cậu thanh niên nói. - Ông phải đến ngay.
Rõ ràng đã có tin đồn rằng tôi có thuốc, tuy chỉ có aspirin và thuốc mỡ penicillin, nhưng đó là những món có giá trị tại những cộng đồng hẻo lánh không có bác sĩ như ở đây.
Vì tò mò và nhận ra rằng đó sẽ là một cách để giới thiệu bản thân với một số người trong cộng đồng, tôi quyết định ra đi cùng người trẻ này. Tôi lấy chiếc túi đựng thuốc nhỏ rồi bước lên thuyền của chàng trai. Trong vòng vài phút, chúng tôi xuống cầu tầu nhà Lâm. Tôi gặp một số thanh niên Bajau khác, họ cùng với người bạn đồng hành của tôi đưa tôi vào phòng chính của ngôi nhà. Đây là ngôi nhà lớn, được xây dựng tốt hơn nhiều so với những căn nhà ở đây, căn phòng chúng tôi đứng có đầy đủ tiện nghi, chẳng hạn như hai chiếc ghế bành, một chiếc bàn và rèm cửa sổ, những thứ không có ở hầu hết các ngôi nhà khác.
Một phụ nữ Bajau trẻ và rất dễ coi đang ngồi trên chiếu ở giữa phòng và xung quanh là một số phụ nữ khác, có lẽ là họ hàng. Cô mặc một chiếc xà-rông màu xanh đậm, nét mặt có vẻ không thoải mái.
Khi tôi bước vào, Lâm, một người đàn ông Trung Quốc khoảng 45 tuổi, bước vào phòng từ một cánh cửa khác.
- À, ông đã đến. Đưa thuốc cho cô ta. - Gã la lên câu mệnh lệnh bằng tiếng Anh đứt quãng.
Tôi luôn đánh giá cao những phép xã giao giúp các mối quan hệ xã hội được dễ dàng, sự thô lỗ của người đàn ông này làm mất đi cảm tình tốt của tôi đối với hắn. Nghĩ rằng có lẽ câu nói thô lỗ của gã là do không thông thạo tiếng Anh, tôi nín lặng và hỏi:
- Có chuyện gì với cô ấy vậy?
- Chỉ cho ông ta thấy. - Gã ra lệnh cũng bằng một giọng thô lỗ cho người phụ nữ trẻ bằng tiếng Samalan như khi nói với tôi.
Người phụ nữ trẻ quay lưng về phía tôi và kéo chiếc xà rông xuống để lộ một vùng sưng tấy, nhiễm trùng ở phía dưới vai trái. Tôi quỳ xuống để coi cho gần hơn. Lâm cũng qùy bên cạnh tôi. Gã là một người đàn ông thấp và gầy. Mái tóc thẳng và dày không bị lớp dầu bôi làm cho ngay thẳng. Miệng nhỏ, môi mỏng, nhưng hàm răng dày và hơi xanh. Gã tránh ánh mắt của tôi khi nói chuyện.
- Cho cô ấy uống thuốc. - Gã nói với tôi bằng tiếng Anh.
Tôi không chú ý tới gã mà nhìn kỹ hơn vào vết nhiễm trùng. Nó trông giống như một cái nhọt lớn. Tôi biết là người phụ nữ trẻ này đã phải chịu đựng vết sưng đau đớn trong bốn ngày, và nó ngày càng trở nên tồi tệ đến mức khiến cô ấy không thể ngủ được. Khi tôi đang xem xét nơi nhiễm trùng đó thì bị Lâm ngắt quãng bằng câu tiếng Anh thô lỗ:
- Cho cô ấy uống thuốc. Đừng lo, tôi trả tiền.
Bực mình vì lời nói này, tôi nói với gã là tôi không biết liệu thuốc của tôi có phù hợp với bệnh nhiễm trùng của cô ấy không, tôi không phải là bác sĩ và tôi không mong đợi bất kỳ khoản tiền nào. Lâm thấy rõ ràng là tôi không thích gã. Hắn ủ rũ lui vào một bên phòng, không nói nữa.
Tôi bôi lên vết thương bằng một ít thuốc mỡ penicillin. Tôi không nghĩ là nó sẽ giúp ích nhiều, nhưng cũng không gây hại gì. Tôi đưa cho người phụ nữ trẻ vài viên aspirin, hy vọng sẽ làm cô ấy bớt đau, và nói là tôi sẽ về nhà. Cô ta mỉm cười với tôi như để cám ơn.
Lâm hét lên bằng tiếng Samalan với chàng thanh niên đã đưa tôi đến:
- Đưa ông ta về.
Tôi cùng người thanh niên bước ra, lên thuyền và anh ta đưa tôi về nhà. Lâm không đi cùng cũng không nói một lời cảm ơn. Tôi hy vọng mình có thể tránh mặt anh ta trong suốt thời gian còn lại.
Trong vài ngày tiếp theo, tôi dành thời gian đi thăm những người trong cộng đồng để họ biết đến sự hiện diện của mình. Tôi lang thang trong làng, cố gắng tìm hướng những lối đi ọp ẹp nối liền những ngôi nhà chồng chất được xây dựng trên vùng nước nông có rạn san hô và trò chuyện với những người trông có vẻ thân thiện, cố gắng giải thích lý do tôi có mặt tại đây.
Vào buổi tối ngày thứ ba sau cuộc gặp gỡ với Lâm, khi đang ngồi cùng các thành viên trong gia đình chủ nhà trên cầu tàu chờ bữa tối thì cũng chàng thanh niên đã đưa tôi đến nhà Lâm lần nữa chèo thuyền lại gần.
- Ông Lâm muốn ông đến ăn tối. - Anh ta nói, khi chiếc thuyền cọ xát vào chiếc cọc nhà.
- Bây giờ? - Tôi hỏi.
- Vâng.
Cảm giác ban đầu của tôi về Lâm không thay đổi. Trong vài ngày qua, tôi đã dò hỏi biết rằng gã nổi tiếng là rất giàu có, kết hôn với một phụ nữ Bajau, không liên lạc với những người Trung Quốc khác trong vùng và nói chung là không thích. Tôi muốn nói ngay lời từ chối, nhưng sau đó lại nghĩ có lẽ hành vi của gã có phải do tính thiên vị vì sự khá biệt về văn hóa chăng. Rõ ràng là gã không thoải mái khi có mặt của tôi, và có lẽ cách nói thô lỗ đó dễ gây khó chịu vì khả năng nói tiếng Anh của gã ở mức tối thiểu. Với suy nghĩ là nếu ở nhà thì bữa tối không có gì ngoài cá với khoai mì; có lẽ ở nhà Lâm sẽ khá hơn một chút. Tôi nhận lời, báo tin cho chủ nhà, rồi xuống thuyền với chàng trai trẻ.
Chúng tôi đến nhà Lâm, hắn đang đợi chúng tôi ở cầu tàu. Hắn nở một nụ cười có chút lo lắng, và ra lệnh cho tôi vào trong. Chúng tôi đi vào phòng chính rồi đi qua một cánh cửa dẫn vào một căn phòng lớn hơn dường như là văn phòng của gã. Ở giữa là một chiếc bàn dài chiếm gần hết chiều dài của căn phòng, có hai chiếc ghế ở hai đầu. Gã chỉ cho tôi ngồi một chiếc trong khi gã ngồi chiếc ghế kia. Chúng tôi ngồi nhìn nhau qua một chiếc bàn dài khoảng bốn mét trong khi ánh sáng chiếu xuống từ ngọn đèn măng xông buộc bên trên trần căn phòng.
Lâm hét lên bằng tiếng Samalan:
- Mang bia.
Lúc đầu, tôi nghĩ gã nói với tôi cho đến khi tôi nhìn về phía cửa và lần đầu tiên nhận thấy một thanh niên Bajau trẻ như đang bị đóng đinh đứng ở cửa, chỉ mặc một chiếc xà-rông màu xanh đậm, lưng đeo một thanh kiếm. Đó là một phần trang phục của hầu hết đàn ông ở phần đất này của thế giới. Người thanh niên bước vội ra khỏi cửa, miệng hét lên: "Bia!"
Trong vòng một phút, vợ của Lâmm (tôi được biết tên là Najima) bước vào với hai chai bia với hai chiếc ly đầy đá . Cô ta mỉm cười với tôi và trông đã khá hơn nhiều. Tôi hỏi cô ấy có đỡ hơn không, và cô ấy cười.
- Đi ngay. - Lâm hét lên với cô ta với thái độ thường thấy của hắn. Cô ngừng cười và ngay lập tức quay đi. Thanh niên đóng cửa rồi khóa lại, đúng im trước cửa với hai cánh tay vạm vỡ khoanh trước bộ ngực trần lực lưỡng, mắt nhìn thẳng vào bức tường trống trước mặt.
- Uống bia. - Lâm ra lệnh cho tôi, sau khi rót đầy ly, bộ ria mép đầy bọt chứng tỏ hắn đã uống trước.
Tôi đã làm theo, bia với nước đá thực sự không tệ ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là khi bia không được để lạnh. Chúng tôi uống trong im lặng, tôi để ý thấy vật trang trí duy nhất trên những bức tường làm bằng những tấm ván đục đẽo thủ công không sơn là một tờ lịch dường như quảng cáo một loại thuốc Trung Hoa.
Tôi giật mình vì tiếng hét của Lâm:
- Jaffir! Bốn chai bia nữa!
Jaffir, tên người thanh niên gác cửa, mở cửa và lập lại mệnh lệnh. Một lúc sau Najima mang bia vào. Sau khi đặt hai chai trước mặt mỗi người, Lâm ra lệnh: "Ra ngoài" và ra lệnh chuẩn bị bữa tối. Cô ta bước ra và Jaffir lại trở về vị trí của mình.
Tôi không thích sự im lặng, nhưng không nghĩ ra được điều gì để nói cả. Trước khi tôi uống hết chai bia đầu tiên, Lâm đã bắt đầu chai thứ ba và yêu cầu Jaffir lấy thêm. Lần này Jaffir tự mang bia vào, cả một thùng đặt ở giữa bàn. Điều này dường như không vi phạm phép lịch sự trong gia đình, vì Lâm không nói gì.
- Ông không thích bia à? - Hắn hỏi, nhìn cái chai dang dở của tôi.
- Có chứ - Tôi nói - Tôi uống chậm thôi.
- Ông đã cứu mạng vợ tôi - Hắn nói trong khi nhìn ra cửa sổ.
- Tôi không ngờ. - Tôi nói.
- Thuốc của ông làm vết thương vỡ ra. Bây giờ khá nhiều lắm rồi. Ông đã cứu mạng cô ấy. Chúng tôi nợ ông rất nhiều.
- Nó cũng sẽ vỡ ra và lành nếu không có thuốc. - Tôi nói. - Có lẽ thuốc làm nó vỡ nhanh hơn thôi.
- Ông đã cứu mạng cô ấy, - Hắn nhấn mạnh. - Chúng tôi nợ ông rất nhiều.
Tôi biết rằng Lâm không tin vào những gì gã nói. Và tôi nghĩ gã cũng biết tôi biết gã không nói thực. Lần đầu tiên chúng tôi đã giao tiếp bằng mắt. Hắn vội nhìn đi chỗ khác và tu một hơi lớn bia. Sau đó phát ra những âm thanh trầm đục như thể đang uống hơi cuối cùng. Hắn khạc đờm vào bàn chân giữa chúng tôi. Tôi nhìn đi hướng khác.
Jaffir mở cửa. Najima bước vào đặt những tô thức ăn bốc khói trước mặt chúng tôi.
- Đem whisky ngay. - Hắn hét mệnh lệnh tương tự với Najima khi cô ra khỏi cửa.
- Ăn. – Lâm ra lệnh. - Tốt. - Hắn bắt đầu ăn, húp một cách ồn ào và nhanh chóng, dường như không nhận tôi đang có mặt ở đây.
Tôi ăn một thử một ít súp và ngạc nhiên với hương vị thơm ngon của món ăn. Tôi ăn nhanh một cách thích thú.
- Món này ngon lắm. - Tôi nói.
- Tất nhiên rồi. - Lâm nói. nói chuyện với tôi lần đầu tiên bằng tiếng Samalan, dường như đã say nên bỏ việc cố gắng nói tiếng Anh. - Tôi đã dạy cô ấy cách nấu đó. Ông đã ở gần họ đủ lâu nên chắc là biết thức ăn của họ chỉ phù hợp với một đám người mọi rợ thôi. Thực phẩm Trung Hoa ngon nhất trên thế giới.
Từ lâu tôi đã cảm thấy rằng ẩm thực Trung Hoa là một trong những món ăn ngon, nhưng bực mình khi nghe Lâm nói, có lẽ còn ghê tởm hơn khi hắn nhổ thức ăn ra bàn khi nói.
- Đó là món gì vậy? - Tôi hỏi gã.
- Súp. Vi cá mập nấu với Hải sâm
Đây là lần đầu tiên tôi nếm thử món ăn Trung Hoa, sau đó tôi ăn món ăn này nhiều lần ở các nhà hàng Trung Hoa trên khắp thế giới nhưng không thấy nơi nào nấu ngon như đã ăn ở nhà Lâm tối hôm đó.
Lâm nói xong đẩy đĩa của mình ra xa rồi hét Jaffir mang thêm thức ăn. Ngay lập tức Najima và vài thiếu nữ khác mang các món ăn vào cho đến khi cả chục chiếc tô, đĩa bốc khói phủ đầy bàn. Tôi cũng ăn một cách thích thú, khi nghĩ lại thì thấy xấu hổ. Tôi đã sống bằng cá và khoai mì trong gần suốt sáu tháng qua và bây giờ được kiểm soát lại vị giác của mình trong một cuộc chiến ẩm thực này. Mặc dù tôi có thể ăn nhiều như Lâm nhưng tôi không thể cạnh tranh nổi với phong cách của gã: Làm đổ thức ăn ra bàn và sàn nhà, dùng tay bốc thức ăn, ợ hơi và nhổ xương xuống đất. Thức ăn dính đầy mặt và nước chảy xuống cánh tay. Chúng tôi nói chuyện rất ít trong cuộc tấn công này, chỉ bình luận về các món ăn, tất cả đều rất ngon. Nếu Lâm đã dạy vợ mình nấu các món ăn Trung Hoa thì hắn phải là một giáo viên tuyệt vời và cô ấy là một học sinh xuất sắc. Gã rửa sạch miệng mình bằng bia và rượu Johnny Walker. Đến cuối bữa gã đã say mèn.
Jaffir không rời khỏi vị trí, dường như hoàn toàn không để ý đến chúng tôi trừ khi Lâm ra lệnh.
Sau cùng Lâm ngừng ăn. Gã gạt đống đĩa sang một bên, châm một điếu thuốc rồi nói:
- Tôi và ông giống nhau.
Ngoài sở thích chung về các món mà chúng tôi vừa ăn, tôi hy vọng mình không có điểm chung nào với hắn, tôi nói:
- Giống như thế nào?
- Cả hai chúng ta đều là những người văn minh sống chung với một lũ mọi rợ. Những người này... - Hắn vẫy tay về phía Jaffir, chắc chắn anh ta đã nghe thấy những gì gã nói, nhưng vẫn đứng im.
- Họ không phải là những kẻ man rợ. - Tôi nói. - Tôi thích họ.
Gã tiếp tục nói:
- Họ sống như những con vật. Ông đã thấy cách họ sống chứ. Như heo.
Vô tình, mắt tôi nhìn qua đống rác xung quanh Lâm, và thấy cơm dính đầy vào mặt vào cằm. Jaffir mở cửa, Najima bước vào cùng một phụ nữ trẻ khác, hai người bắt đầu dọn dẹp bát đĩa. Tôi hỏi:
- Tại sao ông lại sống cùng với họ nếu không thích?
- Hoàn toàn vì việc buôn bán. - Gã nói, - Tôi có đầu óc kinh doanh còn họ ngu ngốc, giống như những đứa trẻ. Họ không biết cách sử dụng đồng tiền. Tôi cho họ vay trước và họ phải bán cá cho tôi. Tất cả gia đình bên vợ đều làm việc cho tôi vì họ đều nợ tôi. Ông đã thấy vợ tôi rồi đó. Cô ta xinh đẹp. Đưa một cô gái trẻ xinh đẹp lên giường là điều tốt.
Ý nghĩ về việc Lâm lên giường với bất kỳ ai khiến tôi ghê tởm.
- Cô ấy thật may mắn khi lấy được một người giàu có như tôi. Cô ta biết điều đó. Nếu không lấy được tôi thì sẽ ra ngoài đánh cá cả ngày như những kẻ mọi rợ khác. Có phải vậy không, Najima?
Cô ta không ngước lên khỏi đống bát đĩa, chỉ nói: “Vâng”. Hai người phụ nữ rời khỏi phòng.
Chúng tôi ngồi im lặng: Lâm say khướt còn tôi chìm đắm với những suy nghĩ. Một lúc sau Lâm ngáy rất to, đầu gục xuống vũng bia trên mặt bàn. Jaffir vẫn đứng ở cửa, tôi nói là muốn về. Anh ta gật đầu, mở cửa rồi cùng tôi đi qua phòng chính của ngôi nhà và ra ngoài nơi cậu thanh niên đang đợi.
Tôi không gặp Lâm trong vài ngày. Cuối cùng khi nhìn thấy gã chèo thuyền qua nhà, gã giả vờ như không nhìn thấy tôi và có vẻ quan tâm đến một thứ gì đó ở hướng khác. Một ngày sau đó, tôi gặp gã trên lối đi chính của khu làng, gã không thể tảng lờ được nên miệng chỉ càu nhàu. Tôi cho rằng lối hành xử hôm trước làm gã xấu hổ.
Khoảng hai tuần sau bữa tối thịnh soạn đó, gã lại cho chàng thanh niên nọ mời tôi đến để đi uống chứ không phải ăn tối. Một lần nữa gã mời đúng vào lúc tôi đang cố nghĩ cách để qua đêm, vì vậy tôi nhận lời mời ngay. Khi tôi đến, gã đã say rồi. Chúng tôi vào cùng căn phòng chúng tôi dùng bữa tối hôm trước và ngồi xuống hai đầu chiếc bàn dài. Một lần nữa Jaffir đứng nghiêm ở cửa. Thoạt đầu Lâm lúng túng trong cuộc trò chuyện bằng vốn tiếng Anh ít ỏi và sau đó nói tiếng Samalan, và nói liên hồi không ngừng:
- Hai người văn minh như chúng ta mà nói thứ ngôn ngữ loại người mọi rợ này thì thật là khủng khiếp. Ông nên học nói tiếng Trung Hoa thì hơn.
Để tỏ lòng hoà nhã, tôi nói một ngày nào đó sẽ học. Như thường lệ, gã không nghe câu trả lời của tôi mà hét lên với Jaffir là cần rượu Whisky. Jaffir chuyền mệnh lệnh và Najima xuất hiện với một chai rượu Scotch Johnny Walker. Tôi gật đầu và mỉm cười với cô ta. Cô đáp lại nụ cười trong khi rót nửa ly cho tôi. Khi đang rót đầy ly thứ hai, cái chai tuột khỏi tay rơi xuống bàn, làm đổ khoảng một nửa lượng rượu bên trong. Lâm nhẩy ra khỏi ghế, chạy đến và đánh cô một cách thô bạo vào mặt khiến cô ta ngã chúi xuống sàn nhà. Tôi nhảy lên đến bên cô ấy khi gã quay trở lại ghế, miệng hét lên:
- Con đĩ vụng về ngu ngốc. Tao sẽ cho mày phải phải trả giá cho chai rượu mày làm lãng phí này. Cút ra khỏi đây mau.
Najima đứng dậy, lấy tay che mặt. Jaffir mở cửa cho cô ấy với những nét trên khuôn mặt mà tôi chưa từng thấy, kết hợp giữa lo lắng, sợ hãi và thù hận. Najima ra ngoài, Jaffir đóng cửa và tiếp tục vị trí của mình.
Tôi trở lại chỗ ngồi rồi nói với Lâm:
- Điều đó có thực sự cần thiết không? Đó là một tai nạn, anh biết đó.
- Con điếm vụng về. Nó luôn làm vỡ và lãng phí mọi thứ. Nó nên ra ngoài biển với những con vật cùng loài với nó.
Tôi không biết tại sao tôi không thể rời đi ngay lập tức. Dường như càng ở gần người đàn ông đó, tôi càng ghét. Tôi cũng đã gặp một vài người tính tình thô, Lâm cũng là một trong số này.
Gã bắt đầu lầm bầm kể lể về việc phải làm việc vất vả như thế nào để nuôi cả gia đình vợ, gã cũng phải theo dõi mọi hành động của họ để không bị đánh cắp mọi thứ trong nhà. Sau đó, gã bắt đầu nói về cuộc sống của chính mình, tuy nói lung tung không có mạch lạc nhưng tôi có thể ghép nối câu chuyện lại với nhau. Có vẻ như gã sinh ra ở Sandakan, một thành phố nhỏ trên bờ biển phía đông bắc của Borneo, cách nơi đây khoảng 75 dặm đường biển. Gia đình gã đến đây với với nghề thu mua cá khi gã còn nhỏ. Vào thời điểm đó, hầu hết người Bajau vẫn sống trên thuyền, và ngôi nhà của gia đình gã là một trong số hàng chục ngôi nhà nằm dọc theo bờ biển của hòn đảo nhỏ bé. Lúc đó gã khoảng mười một tuổi khi thế chiến thứ hai bùng nổ. Người Nhật dùng hòn đảo này làm trụ sở chính cho các hoạt động quân sự cho một vùng của Philippines. Một ngày nọ, khi gã đang đi đánh cá với một gia đình Bajau, người Nhật vây bắt tất cả cư dân Trung Hoa trên đảo rồi hành quyết họ. Cha mẹ, các anh chị em của gã bị giết hết. Gã không có nơi nào để đi, dù có số điện thoại người thân ở Borneo nhưng không có cách nào đến đó được. Sợ hãi trước sự tàn bạo của quân đội Nhật, người Bajau rời đảo trên những chiếc thuyền làm nhà đến sống ở các rạn san hô và các đảo ngoài xa.
Lâm đi cùng với họ, sống trong suốt thời gian chiến tranh với một số gia đình. Sau chiến tranh, gã rời Bajau làm việc trên một chiếc thuyền buôn lậu chạy từ Borneo đến Manila. Gã ngày càng lún sâu vào với toán buôn lậu, và cuối cùng mua được một chiếc thuyền và có riêng một thủy thủ đoàn cho mình. Gã nói là đã kiếm rất nhiều tiền từ việc buôn lậu và đã từ bỏ công việc kinh doanh này khoảng 5 năm trước vì ngày càng trở nên nguy hiểm. Gã trở lại vùng này, thành lập công việc thu mua cá rồi kết hôn với Najima hai năm trước.
Gã kể lể về các gia đình Trung Hoa khác trong đảo. Gã ghét họ vì thái độ chịch thượng của họ. Họ coi thường gã vì đã kết hôn với một người Bajau. Nhưng gã không quan tâm. Gã có nhiều tiền hơn họ, gã cho ngư dân mắc nợ nên phải bán cá cho gã, do đó lấy đi tất cả công nhân của họ, buộc họ phải ngừng kinh doanh. Nhưng gã có nhiều việc phải làm hơn là lãng phí thời gian với nhón thiểu số người Hoa ở đây. Gã có ngôi nhà đẹp nhất vùng và họ ghen tị. Ai quan tâm chứ?
Khi đã có tiền gã bắt đầu kinh doanh nghề thu mua cá ở đây. Gã nói là trong thời gian chiến tranh phải sống với người Bajau, gã phải ăn thức ăn của họ, thực là bẩn thỉu khủng khiếp cùng với đầu óc đơn giản và sự ngu ngốc hết sức của họ. Họ thật dốt nát trong kinh doanh và thật dễ dàng bị lừa họ. Gã giống như một vị vua, tất cả những người trong gia đình đều là người hầu của gã, nếu không muốn nói là những nô lệ. Gã khoe khoang có thể ngủ với bất kỳ người phụ nữ Bajau nào hắn muốn, và thường làm vậy. Việc này chẳng hề phiền gì vì họ giống như những con thú, những con chó cái động dục, quan hệ tình dục với bất kỳ ai.
Gã kết luận điều này bằng cách nói:
- Đó là lý do tại sao ông và tôi rất giống nhau.
Tôi rùng mình mình, nghĩ không biết giống gã ở điểm nào nên hỏi:
- Chúng ta giống nhau như thế nào?
- Chúng ta là những người văn minh bị mắc kẹt ở một nơi man rợ.
Tôi biết tranh luận với gã cũng vô ích nên không nói gì. Gã đã say khướt, hơn nữa gã không bao giờ nghe câu trả lời của tôi, ngay cả khi tỉnh táo.
Trong vòng một phút, Lâm bắt đầu gục đầu xuống bàn và tôi rời đi. Trở về phòng, nằm trên chiếu, tôi nghĩ đến cuộc sống cô đơn mà Lâm phải trải qua. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thương hại cho người đàn ông đó.
Nhiều tuần trôi qua khi tôi đắm chìm trong nghiên cứu của mình nhưng vẫn thường nhìn thấy Lâm. Thường thì gã giả vờ như không nhìn thấy tôi, nhưng nếu không thể tránh gặp mặt được, gã càu nhàu chào và vội vã tiếp tục công việc của mình. Tôi không biết gì mới về người đàn ông đó, chỉ biết những gì gã nói và những gì tôi thu thập được qua ấn tượng của mình. Gã không được lòng cả cộng đồng dân Trung Hoa nhỏ cũng như cộng đồng Bajau đông đảo ở đây. Người Trung Hoa coi gã là kẻ khờ khạo và thô lỗ, trong khi người Bajau coi gã là keo kiệt và hèn hạ. Tôi đồng tình với cả hai ý kiến.
Khoảng một tháng sau cuộc gặp cuối cùng của tôi với Lâm, tôi sống trong một ngôi nhà nhỏ, có sự riêng tư mà tôi không thể tìm thấy trong gia đình mà tôi đã trải qua vài tuần đầu tiên ở đây. Có vài lần trong thời gian này, Lâm cử người đưa tin mời tôi tới uống rượu. Tôi đã đưa ra lời từ chối, không muốn nhìn thấy hành vi hay lời nói dơ bẩn tục tĩu của gã. Tôi đang ngồi trên cầu tàu nhỏ, ngắm nhìn thủy triều lên, phía trên là nền trời hoàng hôn đỏ rực ngoạn mục thì chàng trẻ tuổi của Lâm chèo thuyền đến. Cậu ấy nói Lâm muốn tôi đến uống bia. Tôi đang tận hưởng cảnh đẹp của hoàng hôn và thủy triều lên nên tôi bảo tôi sẽ đến sau khi hoàn thành một số công việc. Tôi không có ý định đến nhà Lâm nhưng không muốn người đưa tin trở lại với những lời mắng chửi, một điều thường xảy ra trong quá khứ. Khi người đưa tin rời đi, tôi nhìn bầu trời màu đỏ chuyển sang màu xám và cuối cùng là bóng tối của màn đêm. Tôi thấy có lỗi vì đã nói dối. Sau khoảng mười lăm phút, tôi quyết định đến nhà Lâm và uống một ly bia với gã.
Khi tôi đến, gã đã say khướt. Tôi cùng gã ngồi ở trong căn phòng cũ và Jaffir vẫn đứng im ở nơi quen thuộc. Bia và rượu Scotch được mang vào, và tất cả dường như trở lại như những đêm khác tôi đã trải qua.
- Tôi tưởng là ông không đến. - Gã nói bằng tiếng Samalan tối nay.
- Tôi cũng nghĩ tối nay không đến. - Tôi thành thật nói. - Tôi rất bận.
- Ông là người bạn duy nhất tôi ở đây. - Gã nói. - Tôi uống một mình.
Tôi rùng mình khi nghĩ nếu tôi là người bạn duy nhất của Lâm. Tôi không nói gì, không thể nghĩ ra bất cứ điều gì thích hợp để nói.
- Một người giàu có như tôi thì phải chọn bạn một cách khôn ngoan.
- Tại sao anh lại chọn tôi? - Tôi hỏi. - Anh chẳng biết gì về tôi cả.
- Đôi khi là bạn thì không cần phải biết nhiều. Đôi khi bạn có thể nói mà không cần phải biết, tôi biết chúng ta rất giống nhau.
Tôi định nói lời từ chối về mối quan hệ này, nhưng rồi lại hiểu ý của gã. Cả hai chúng tôi đều là người ngoài cuộc trong một cộng đồng xa lạ. Sự khác biệt giữa chúng tôi là: tôi là khách trong vài tháng, trong khi gã có lẽ sẽ ở đây suốt cả đời. Có thể tôi sẽ cư xử giống như Lâm nếu tôi gắn bó suốt đời với sắc dân Bajau này không chừng. Như vậy, tôi có thể che dấu những lo lắng, thất vọng và thù địch của mình vì tôi biết mình sẽ ra đi trong vòng một năm. Tôi đã gặp những người Âu Châu bị bắt ở Á Châu, họ có lối sống không khác với Lâm là bao.
- Tất cả họ đều thích tiền của tôi. - Gã tiếp tục nói. - Nhưng họ sẽ không bao giờ có được nó. Không bao giờ tìm thấy nó.
Gã nhìn tôi chờ đợi, nhưng tôi không có gì để nói. Gã nhìn Jaffir:
- Ra khỏi đây mau. Tôi không cần anh trong một thời gian.
Không nói một lời, Jaffir rời khỏi phòng.
Sau khi Jaffir rời đi, gã nhìn xuống bàn thì thầm:
- Vàng là cách duy nhất để giữ tiền. Peso, rupiah, thậm chí cả đô la đều không đáng tin cậy. Mọi người luôn muốn có vàng.
- Đúng vậy. - Tôi đã bâng quơ nói.
- Tất nhiên là tôi không mang chúng theo bên mình - Gã khinh khỉnh nói. - Nhưng tôi muốn cho ông xem. Ông đã bao giờ nhìn thấy những thỏi vàng chưa?
Tôi trả lời là kinh nghiệm của tôi với vàng phần lớn chỉ giới hạn ở đồ trang sức và một vài đồng xu.
- Tôi sẽ cho ông xem những thỏi vàng. - Gã đẩy ghế ra sau, làm đổ ly Scotch trước mặt. Mặc kệ, hắn lảo đảo bước ra cửa.
Tôi ngồi một mình, lắng nghe tiếng chiếc đèn dầu treo trên trần. Trong vòng năm phút, Lâm trở lại. Gã đang mang theo một cái hộp bọc trong thứ trông giống như chiếc xà rông. Gã khóa cửa cẩn thận, đến cuối bàn của tôi và đặt gói hàng trước mặt rồi mở tấm vải, để lộ ra một chiếc hộp to bằng chiếc hộp đựng xì gà. Trên cùng là hình một con voi được khảm bằng ngà voi. Gã mở nắp ra. Chiếc hộp chứa đầy những thỏi vàng sáng rực. Tôi hỏi:
- Đây là vàng à?
- Tất nhiên rồi. - Gã trả lời. - Vàng thỏi nguyên chất.
Tôi nhặt một miếng lên và có nhiều ấn tượng bởi trọng lượng của nó. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy vàng như vậy.
- Anh lấy những thứ này ở đâu?
- Tôi mua. - Gã nói thiệt tình. - Tôi dùng những đồng peso, Rupiah và đô la vô giá trị để mua. Vàng là thứ đầu tư an toàn duy nhất. Tôi đã thấy điều gì xảy ra với đồng peso và đô la ở Borneo khi người Nhật hiện diện trên nước này. Chúng chẳng có giá trị gì. Ai mà biết tiếp theo là người nào sẽ đến? Nhưng bất cứ ai đến, tất cả chỉ quan tâm đến vàng thôi.
Chiếc hộp phải chứa ít nhất một trăm miếng, tôi chắc rằng Lâm có thể cho tôi biết con số chính xác. Mỗi chiếc dường như nặng một chừng nửa ki-lô, nhưng thực tế có lẽ nhẹ hơn. Dù thế nào đi nữa, tôi biết rằng một khối tài sản lớn đang ở trên bàn trước mặt tôi. Tất cả dường như không có thật: Tôi, đang ngồi bên chiếc bàn đẽo thô sơ trong ngôi nhà thô sơ này với người đàn ông Trung Hoa kỳ dị ở miền nam Philippines có một một khối tài sản bằng vàng khổng lồ.
- Tôi cất nó đi ngay bây giờ. - Lâm cắt ngang dòng suy tư của tôi. Tôi đặt các thỏi trở lại trong hộp. Gã đóng chiếc nắp, quấn lại vào trong chiếc xà rông. - Ông là người duy nhất nhìn thấy chiếc hộp này. - Gã cầm cái hộp đi ra khỏi phòng rồi trở lại với Jaffir đứng ở cửa.
Buổi tối diễn ra như một thói quen mà tôi mong đợi. Thức ăn được mang đến khiến Lâm đổ khắp lên người và trên bàn. Anh ta uống đến mức say khướt, miệng nguyền rủa người Bajau, người Trung Hoa và bất kỳ ai khác xuất hiện trong đầu. Buổi tối hôm đó kết thúc với việc gã ngủ vùi đầu gục xuống bàn.
Tôi nhìn gã chằm chằm trong im lặng. Jaffir đứng nghiêm, và âm thanh duy nhất trong phòng là tiếng chiếc đèn dầu. Tôi cảm thấy tội nghiệp cho Lâm, nhưng khó có người nào chịu đựng được tính tình thô tục của người đàn ông này.
Tôi nói với Jaffir là sẵn sàng rời đi, và tôi trở về nhà lại với lời thề sẽ không bao giờ đặt chân vào ngôi nhà đó nữa.
Tôi dành cả ngày hôm sau ở nhà để viết một bản báo cáo mà tôi dự định sẽ trình bày tại một cuộc họp của Hiệp Hội Nhân Chủng Học tại Manila vào tháng sau. Không có nhu cầu khẩn cấp để hoàn thành bài báo cáo, nhưng tôi không muốn nói chuyện với bất kỳ ai. Đó là một ngày nắng nóng không có gió, và ngôi nhà một phòng lợp tôn của tôi nóng như lò nướng. Cuối cùng buổi tối cũng đến, tôi ra cầu tàu để hứng gió. Khi mặt trời đang chiếu những tia sáng ngoạn mục như thường lệ trên bầu trời phía tây, chàng thanh niên của Lâm đến trong chiếc thuyền độc mộc. Thông điệp của gã cũng như cũ: Lâm muốn tôi đến uống bia.
- Nói với ông ấy là tối nay tôi không đến được. Tôi đang bận làm việc. - Đó là sự thật. Tôi muốn tiếp tục với bản báo cáo, nhưng nếu tôi không viết thì cũng không đi. Tôi không có ý định trở lại nhà Lâm nữa.
Cậu ta rời đi và tôi hy vọng vấn đề đã được giải quyết. Tôi vào nhà, thắp ngọn đèn dầu và đọc lại những trang giấy tôi đã viết vào chiều hôm đó. Khoảng mười phút sau, tôi bị phân tâm bởi ai đó đang gọi tên mình. Tôi đi ra cửa, giật mình khi thấy Lâm đang chèo lên từ chiếc thuyền của gã.
- Tôi đến nói chuyện với ông. - Gã nói bằng tiếng Samalan khá tỉnh táo.
Tôi không vui khi gặp hắn nhưng chưa bao giờ có thể thô lỗ với người khác, kể cả những người tôi thật ghét, vì vậy tôi mời hắn vào. Khi gã đã ngồi vào chiếc bàn lộn xộn giấy tờ, tôi nói:
- Tôi xin lỗi, nhưng tôi không có gì để uống, ngoại trừ cà phê.
- Thôi kệ, tôi không muốn uống gì hết. - Như thường lệ, gã nhìn quanh khắp nơi.
Chúng tôi ngồi gần một phút trong im lặng. Tôi không có gì để nói, vì vậy tôi đợi gã nói trước. Gã chưa bao giờ đến nhà tôi và tôi biết gã đến đây hẳn là có lý do, đặc biệt là khi không say.
- Tôi nghĩ là ông muốn biết về công việc kinh doanh cá ở đây. Vì ông đang cố gắng tìm hiểu về cuộc sống của những người này, ông có thể muốn biết cách họ bán cá như thế nào.
Lâm chưa bao giờ tỏ ra quan tâm đến nghiên cứu của tôi, vì vậy tôi hơi ngạc nhiên. Tôi cũng không tin gã thực tâm muốn nói tới chuyện mua bán cá. Chắc là hắn đến vì một lý do khác, tôi nghĩ chắc chắn là vậy. Nhưng tôi có thể tận dụng sự tỉnh táo và kiến thức của gã để hiểu rõ việc kinh doanh thu mua cá hơn. Tôi đã nói chuyện với một số người Trung Hoa thu mua cá và mới bắt đầu khám phá những điều phức tạp của hệ thống hoạt động với các ngư dân Bajau. Vì vậy, tôi quyết định xem Lâm có thể nói ra điều gì.
- Anh thật tốt giúp tôi. - Tôi nói. - Tôi có nhiều câu hỏi.
Tôi miệt mài hỏi anh ta. Đúng như tôi nghi ngờ, hóa ra gã là một người cung cấp thông tin không chính xác. Gã chỉ nói qua loa cho qua chuyện. Tâm trí của gã rõ ràng để về một cái gì đó khác. Chúng tôi nói chuyện khoảng một giờ, thật là một buổi tối lãng phí vì tôi cũng không thu thập được điều hiểu biết mới mẻ nào.
- Anh có muốn uống cà phê không? - Tôi hỏi và tôi pha cho mỗi người một ly với nước nóng tôi đựng trong bình giữ nhiệt.
Uống được nửa ly mà gã húp xì xụp như uống bia rồi đột nhiên nói trong khi nhìn ra ngoài cửa sổ:
- Tối qua tôi đùa với anh đấy.
- Ồ - Tôi nói, cố nhớ lại một điều gì đó đã xảy ra vào buổi tối hôm trước.
- Nhớ cái hộp vàng tôi cho anh xem không? Đó không thực sự là vàng mà chỉ là đồng thau. Tôi không giữ vàng trong nhà.
Tôi nhìn anh ta, trong lòng bối rối, tôi biết rất ít về vàng, nhưng tôi tin chắc rằng thứ mà anh ta cho tôi xem đêm qua thực sự là vàng.
- Tôi uống nhiều bia quá. Đó là lý do tại sao tôi lừa ông. Nhưng vì là bạn của tôi nên tôi phải nói cho ông biết sự thật.
- Chắc chắn là anh đã lừa tôi. Tôi nghĩ đó là vàng.
Gã cười:
- Mà nếu có là một lượng vàng khổng lồ như vậy thì tôi đã không ở đây.
Rõ ràng là Lâm đã cho là sai lầm khi cho tôi xem số vàng và bây giờ đến để nói với tôi điều dối trá mà tôi vừa nghe được. Có lẽ khi thức dậy gã kinh hoàng khi nhận ra rằng đã tiết lộ bí mật của mình. Tôi không có ý định nói với ai về số vàng này nhưng Lâm không biết điều đó. Chúng tôi nói chuyện thêm nửa giờ nữa mà không đề cập gì thêm. Khi tôi bắt đầu thấy mệt mỏi thì nghe thấy ai đó gọi tên hắn.
Chúng tôi ra ngoài cầu tàu. cách đó khoảng ba mét là một thanh niên Bajau vẫn chở tôi đến nhà Lâm.
- Lửa! … Lửa! …Cháy! … Cháy! Ông Lâm - Anh ta la to. - Nhà ông đang cháy!
Lâm kêu thất thanh rồi nhìn về hướng nhà mình. Một vùng ánh sáng rực đang xuyên thủng màn đêm. Lâm và tôi cùng nhảy xuống thuyền với chàng trai và giúp anh ta chèo thuyền qua vùng nước đang hạ xuống nhanh chóng. Vùng nước nông nên chúng tôi phải nhẩy ra khi đến gần ngôi nhà không quá 15 mét. Khoảng chục người đang túm tụm ở đầu kia chiếc cầu tầu ở phía nam của ngôi nhà. Trong số họ có Jaffir và Najima cũng như những gương mặt khác mà tôi biết mặt mà không biết tên.
- Chuyện gì đã xảy ra vậy? - Lâm hỏi lớn.
- Chẳng ai biết cả - Najima trả lời. - Ngọn lửa bắt đầu ở tầng trên.
- Đổ nước lên đó - Lâm hét lên. - Đừng có đứng như lũ ngốc.
- Không có nước. - Jaffir nói chỉ vào rạn san hô trơ trụi bây giờ đã bị thủy triều rút cạn hoàn toàn. Chỉ có vài lon nước uống trên cầu tầu và chúng sẽ vô dụng trước ngọn lửa bốc lên từ phía sau ngôi nhà.
Lâm tính toán trong giây lát, và sau đó đi đến một quyết định. Gã chửi thề ầm ĩ và chạy về phía ngôi nhà. Do dự một chút ở cửa rồi bước vào bên trong căn nhà đầy khói.
- Ông ấy sẽ chết mất - Najima luống cuống nói.
- Phải có người cứu ông ấy!
Trong một phút, không ai nhúc nhích, sau đó Jaffir tách khỏi nhóm và chạy vào nhà. Hắn cũng do dự một lúc trước khi bước vào. Tôi nghĩ rằng anh ta có cơ hội gặp được Lâm vì ngọn lửa đang tập trung ở phía sau ngôi nhà.
Tất cả đều im lặng đứng nhìn. Lúc này, khá nhiều người tụ tập ở vùng nước xung quanh. Thực tế thì chẳng ai làm được gì vì lượng nước ít ỏi còn lại chỉ giới hạn rải rác trên rạn san hô. Một lúc sau Jaffir chạy ra khỏi nhà, vừa ho vừa dụi mắt. Anh ta loạng choạng bước đến chỗ nhóm chúng tôi, miệng há hốc để thở:
- Tôi không tìm thấy ông ta.
Đột nhiên, một tiếng nổ làm rung chuyển cả cầu tàu, sau đó là ngọn lửa khổng lồ bốc lên từ từ thiêu rụi những gì thuộc về ngôi nhà. Sức nóng trở nên quá lớn đến nỗi chúng tôi phải rời khỏi cầu tàu và di chuyển ra vùng xa bên ngoài. Những ngôi nhà lân cận đã được người dân vùng khác đến hỗ trợ dập tắt các tia lửa và tro bay mù mịt khắp nơi. Ngôi nhà của Lâm tạo nên một đám cháy dữ dội và không có cách nào mà gã có thể thoát chết. Tôi phát bịnh trước cái chết khủng khiếp mà Lâm đang phải chịu đựng. Kèo cột bắt đầu rơi xuống, kêu xèo xèo trên nền đá ngầm ẩm ướt. Người tôi mụ đi, không tin rằng người đàn ông mà tôi biết là Lâm đang bị thiêu thành tro trong ngọn lửa kinh hoàng đó.
Ngọn lửa tàn dần trong vòng một giờ . Tôi lội bộ về nhà, thấy cần được yên tĩnh. Khi tôi bước vào, ngọn đèn dầu vẫn đang cháy. Tôi tắt đèn và nằm trong bóng tối, nhìn những vì sao qua khung cửa sổ, nghĩ về Lâm. Cuối cùng, tôi chìm vào giấc ngủ.
Sáng hôm sau tôi thức dậy với ánh nắng rực rỡ và tôi nghĩ ngay đến Lâm. Tôi pha một tách cà phê, sau khi uống xong, tôi quyết định đến gặp Najima để chia buồn. Có lẽ không ai quan tâm việc Lâm chết, nhưng các nghi thức thích hợp phải được thi hành.
Tôi chèo thuyền qua vùng nước thủy triều dâng cao và hỏi những người trên thuyền khác xem Najima ở đâu. Tôi được chỉ đến một ngôi nhà nhỏ là nơi sinh sống người thân của cô. Khi đến gần, tôi có thể nhìn thấy Najima, Jaffir và họ hàng của cô đang chất hàng lên một chiếc thuyền lớn của Lâm. Tôi trèo lên và nói lời chia buồn với Najima. Tôi được biết là hài cốt cháy thành than của Lâm đã được tìm thấy.
- Cô định đi đâu đó à? - Tôi hỏi Najima, khi cô đang chỉ dẫn việc đặt đồ đạc vào thuyền.
- Vâng. - Cô ta nói. - Nơi này chỉ là những kỷ niệm buồn thôi. Jaffir sẽ đưa tôi đến Borneo.
Cô cầm một chiếc hộp cỡ hộp xì gà. Trên nắp có hình một con voi khảm bằng ngà voi. Cô lặng lẽ nhìn nó rồi cẩn thận đưa cho Jaffir. Anh ta nhìn nó một cách thích thú rồi nhét nó vào một ngăn bên dưới chỗ ngồi.
Tôi về nhà và làm việc cả ngày với bản báo cáo cho hội nghị ở Manila. Đến tối thì xong.