XII-XA XÓT PHÙ SA
K hông hiểu vì sao, do đâu, chính quyền địa phương và HTX cắt mất phần lớn diện tích đất nhà ông Lý Tấn. Huyện đưa chủ trương của trên xuống xã. Xã họp bên trong. Tiếng đồn thổi đã bên ngoài. Dân tình kháo nhau: Nhà ai đất rộng xã sẽ lấy ra! Làng này chỉ có nhà Lý Tấn là rộng nhất! Nhưng vườn tược đất cát ấy là của người ta mồ hôi công sức! Mồ hôi công sức cũng cắt! Đất đai là sở hữu toàn dân, do nhà nước quản lý… Nông dân không ai được ở mỗi nhà quá một sào… Mai ngày HTX làm ăn lớn, xã viên không cần sân phơi gia đình, thóc lúa đem hết ra ngoài sân kho tập thể!.. Đồng ruộng cơ giới hóa, máy cày Liên Xô sẽ chạy đỏ chói trên cánh đồng… Chia cơm bằng suất bằng hộp. Người ta có thể ăn cơm bằng “máy và” đùn cơm vào miệng...
Tin xã tịch thu đất đến tai, gây áp lực dậm dọa ông bà Lý Tấn. Linh tính cảm thấy có điều gì đó bất an. Ông bà nơm nớp lo sợ như lo sợ một cơn giông. Cơn giông ấy không hiện bóng hiện hình. Nó như một đám mây xám ma mỵ ẩn đâu đó sẵn sàng trùm xuống. Nỗi lo sợ khiến ông chốc chốc lại giật mình. Mỗi lúc giật mình lại là một cơn ho tức tả.
Dư luận cồn lên đến nhà Cả Toan. Cảm thấy mối đe dọa, Cả Toan kéo các cô em về khuyên cha: Hay thầy để chúng con dựng một túp nhà gianh nhỏ ở khoảnh vườn mé ao cho cậu mợ Tầm nó ở. Coi như thầy cho cậu mợ ra ở riêng cũng được. Chủ yếu là giữ đất! Nhưng ông xua tay gạt đi:
-Nhà ta từ đời cụ kỵ cho chí ông bà, chưa bao giờ sẻ nồi chia mâm. Chúng nó mới lấy nhau. Nhà ở lại chỉ còn thầy u với vợ chồng chúng nó. Chúng bay định phân rẽ ra ư? Cứ về lo việc nhà chồng đi đã…
-Nhưng đây chỉ là… để che mắt thế gian. Cậu mợ vẫn một nồi một mâm với thầy u...
-Không được! Sao phải làm điều dối trá thế hả các con? Với lại cũng không cần các con ạ!
-Thế thầy đành chịu miếng ăn trên miệng còn để mất, đành nhìn họ vào cướp không công sức, mồ hôi móc bùn móc đất của thầy ư?
Ông ngậm ngùi: Thời thế biến đổi! Người chẳng thấy đâu, thiết gì đất cát!
Rồi ông kể chuyện nhà cụ Chánh Viêm dưới làng Vị Hương ba bốn đời nay vẫn dùng cái mâm gỗ kéo dài cho ông bà cha mẹ, con cháu mười bốn mười lăm miệng ăn đơm chung nồi ngồi chung mâm trên một mảnh sân... Thuyết phục cha không được, các cô con gái chỉ còn thốt lên: Trời ôi! Sao thầy lại có thể thực thà đến vậy? Chẳng qua họ lợi dụng chính sách Nhà nước để bắt chẹt thầy! Trước đó, một buổi chiều, trưởng thôn Lê Văn Kiết đến nhà đưa ông bà một tờ giấy báo: Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu xã viên Hợp tác xã Lụa Vân… Nay Ban quản trị HTX đình chỉ việc xã viên thuê ruộng làm khoán của HTX vì mục tiêu tất cả tập trung cho kinh tế tập thể phát triển. Từ ngày… tháng… năm 1976, gia đình ông Lý Minh Tấn không được trồng thuốc lào và rau màu trên diện tích 3 sào thuộc cánh đồng Hậu Hương của HTX…
Báo, đài không có. Ông Lý Tấn như “ếch ngổi đáy giếng”, như người bịt tai bịt mắt dưới lũy tre. Vả lại, có lẽ trải qua “tai nạn ruộng đất” đã mấy đận, đời cụ Lễ Đĩnh, đời ông bà thời cải cách ruộng đất… ông như kẻ chai sạn, nên coi sự mất đất lần này cũng chỉ là chuyện bình thường chăng? Nỗi đau của ông đã tấy sẹo, đau không thể thành lời. Người ngoài nhìn vào không thấy sẹo.
Mùa hạ sang. Sáng, mặt trời lên ngang ngọn cây bưởi. Những trái bưởi vào độ xanh non, từng chùm từng rúm treo lúc lỉu trên cành. Con chim bói cá nhớ lệ lại lao tõm xuống mặt ao. Giàn bầu buông chi chit những quả bầu tròn, bầu nậm đung đưa sát mặt nước. Chiều qua, ông bà đã bện sẵn những chiếc rế để làm quang đỡ cho chúng khỏi trĩu xuống…
Một đoàn cán bộ xã kéo theo cả dân quân mang súng trường đến sân nhà ông tuyên bố cắt đất, đo đạc, lấy ra bốn sào vườn. Ngô Thị Khiển, nữ chủ tịch xã đứng ngoài sân, không dám bước vào nhà! Chị ta giở một tờ giấy bằng hai bàn tay, cúi xuống, run run đọc: Việt Nam dân chủ cộng hòa… Độc lập, tự do, hạnh phúc… Ủy ban hành chính huyện… Ủy ban hành chính xã… Quyết định số… thu hồi đất ông Lý Minh Tấn… thôn Ngòi xã Lụa Vân… Rồi gấp tờ giấy nhét túi áo, chị ta lấp lóa:
-Đây là Ủy ban xã được Ủy ban huyện ủy quyền, chúng tôi làm việc… là làm theo lệnh của huyện, lệnh Nhà nước! Vườn đất nhà bác vượt quá tiêu chuẩn, phải cắt ra. Xã đang cần đất cho làm ăn tập thể. Làm giàu tập thể là làm giàu cho mọi người trong Hợp tác xã, trong xã hội… Khiển hạ giọng: Thôi! Bác giữ tư hữu làm gì cho vất vả tuổi già! Đưa vào sở hữu toàn dân là hợp thời… Đông con đông cháu như bác, rồi mai kia góp luyến mỗi dứa một ít chúng nó nuôi… Với lại có cắt ra cũng còn rộng chán…
-Tôi biết rồi! Bất chợt dòng cảm xúc dâng lên ứ tràn, đầy nhức mu mắt, Lý Tấn ngậm ngùi: Biết rồi… Quyền sinh quyền sát do các anh các chị! Làm gì thì làm… Nhưng xin để lại cho nhà tôi một sào vườn trước cửa… Với lại thư thư cho tôi thu hết mùa bưởi mùa bầu kẻo phí…
-Không được! Trên giáng xuống, chúng cháu chỉ là người thừa hành thực hiện. Xã phải triển khai ngay việc xây dựng vườn thuốc nam cho phong trào y tế… Sau này bác đừng có oán thoán chúng cháu đấy nhá! Chủ tịch xã giao kèo. Cổ họng Lý Tấn nghẹn lại. Ông quay vào nhà, ngồi thừ như một pho tượng. Pho tượng như thể ai vừa móc dưới bùn lên đặt trên bộ tràng kỷ.
Rốt cuộc, khu vườn đất và giấc mơ trồng trọt của nhà ông chẳng khác gì một tòa thành thời cổ đại bị hạ thủ, không cần một mũi tên, một lưỡi mác. Lý Tấn, viên thủ lĩnh của tòa thành đành gác giáo quy hàng vô điều kiện!
Bà Hai ngã ngửa trước sự kiện đột biến! Nước mắt đầm đìa gương mặt đen xạm, khắc khổ. Bà giơ hai cánh tay khẳng khiu lên trời, chới với:
-Thế này là thế nào? Đây là đất tổ tông ông bà ông vải nhà tôi… Nhà tôi làm lấy mà ăn, có trêu ghẹo gì ủy ban, trêu ghẹo gì các ông các bà. Mà nỡ cắt đất đai vườn tược nhà tôi?
Bà xông tới gạt thằng thanh niên đang kéo thước dây đo vườn. Ba Xâm đứng mé sân thấy vậy cũng lao tới đè nó ngã xuống luống rau răm và đấm túi bụi: Au au… ớ ớ…
Chủ tịch xã Ngô Thị Khiển dậm chân, quát lớn:
-Trói bà ta với thằng câm lại! Dám chống người thi hành lệnh trên của Đảng với Nhà nước! Hai dân quân xông vào ôm chặt, khóa hai tay bà Hai. Ba Xâm la hét, chạy vào chuồng trâu lấy chiếc vồ xông ra. Bọn người chạy tán loạn. Bà Hai kêu thảm thiết:
-Ối giời ơi là giời… Giời có mắt không mà để chúng nó ăn cướp thế này?
Trời xanh cao, trong vắt. Những cơn nắng nóng nực, oi nồng. Người làng tò mò kéo đến như xem hội. Họ cũng chỉ biết giương mắt ếch ra nhìn. Giời ôi, phí quá đám hoa quả, ăn không ăn được, muối cũng không muối được! Đám trẻ choai choai hò nhau vào bẻ mấy quả bưởi quả cam non để chơi chắt chuyền. Mấy dân quân vác súng xua đuổi, chúng bỏ chạy tán loạn, có đứa suýt ngã cả xuống ao… Bà Hai gục bên gốc cây bưởi, hai tay bị trói rờ đi rờ lại thân vỏ xù xì của nó. Tấm thân tiều tụy rung lên theo tiếng nấc. Thế là hết! Từ nay bà không có bưởi để đặt lên bàn thờ tổ tiên; không có vườn để gieo hạt giống, để cắm cành giâm. Từ nay bà không còn quả bầu để nấu canh tôm, không thể hái những rổ rau răm, rau húng; không được ngắt mớ cà chua, quả chanh quả cam ra chợ bán! Cái ao công lênh đào, công lênh hai cha con xuống tận nông trường mua cá giống về thả sẽ bị lấp chìm. Giấc mơ vườn tược sum suê cây cối, hoa quả tan thành mây khói!
Bà Hai nằm rũ mấy ngày trời. Vốn hiền lành, chịu khó, chung lưng đấu cật với chồng, biết chồng lỡ thời, thất thế, lấy đất đai, công việc làm kế sinh nhai, bà vô cùng thương ông, sớm hôm san sẻ nặng nhọc với ông. Bà biết nhiều kẻ làm quan dài lưng tốn vải, hách dịch, trịch thượng, về vườn vẫn tính xưa đối xử nghiệt ngã với vợ con. Nhưng ông khác. Từ quan, ông oằn lưng ra buôn bán, bám ruộng bám vườn, quần cộc áo vá, có gì ăn nấy, chỉ sợ vợ con đói khát, rách rưới. Bữa cơm xì xụp rau cháo. Xúc khoai khô vào bát mình, bà gạt những miếng cơm trắng vào bát ông: Ông ăn đi cho khỏe để còn chịu nắng nôi… Ông lại gạt miếng cơm ấy sang cho bà: Bà làm nhiều hơn tôi. Bà cần phải ăn…
Về với ông, bà là người đàn bà đi bước nữa. Ông thương bà, không chỉ vì bà đẻ cho ông, cho gia ổ nhà ông bốn “quí tử”, mà thương bà một nỗi xuất thân từ cảnh bần cố nông, mộc mạc, thực thà. Ngày cùng cụ Lễ Đĩnh và bà Cả mang lễ đi hỏi bà, đứng trước căn nhà gianh lụp xụp, thấy cảnh mẹ góa con côi tiều tụy, ông đã thực sự mủi lòng. Trong cảnh một gia đình quyền quí, ông đón bà về không một chút đắn đo. Không chỉ tình vợ chồng, ông còn nặng lòng thương bà như một sự thương hại, sẻ chia một số phận. Đứa con gái riêng của bà lên mười, ông ngỏ ý muốn đón về nuôi. Nhưng người em chồng của bà không ưng thuận và đã mang cháu xuống thuyền ra biển làm nghề đánh chã cá. Chú em khăng khăng: “Chị đi tái giá, nhưng để giọt máu của nhà tôi lại. Đói no chú cháu tôi chịu!..”
Người góa phụ trẻ đành ngậm ngùi bước theo đoàn đón dâu qua cây cầu Mang và hai cánh đồng lúa vụ mùa đang trỗ. Phấn lúa thoang thoảng bay trong những làn gió bấc nhè nhẹ ngoài sông thổi về. Lúc trong cơ nghiệp tòa ngang dãy dọc, bà vẫn tằn tiện, thu vén, hiền lành như củ khoai hạt lúa… Xảy ra việc Quỳnh chết đuối bên đầm Nhà Mạc, bà như người qua một lần chết, rồi sống lại để cùng gia đình ông chèo nổi con thuyền. Trong nước lụt, CCRĐ, rồi vào HTX, cảnh nhà rơi xuống vực sa sút, nghèo đói, bà vẫn không kêu nửa lời. Cứ lầm lụi làm ăn, kiếm sống nơi đồng sâu, nơi bờ sông bãi sú. Hôm ấy, năm đẻ cu Minh Vĩ, phiên chợ Đông đi chợ bán rau, lúc tan chợ bà bỗng thấy một cái bị cói của cô hàng xén dọn hàng để quên. Chợ hết bóng người. Bà nhặt cái bị cói, nắn bên trong thấy một cái túi vải đen xào xạo. Nhấc lên. Cái túi đầy chẹn. Bà mở ra: Ối! tiền! Những xu là xu! Nhìn quanh chẳng thấy ai, bà vội vã cho vào thúng mang về. Vừa đi vừa run như cầy sấy. Đến đầu sân, hạ thúng xuống, bà lập cập kéo ông vào nhà: Thầy cu ơi! Vào đây tôi bảo. Nép sau cánh cửa, giọng bà hổn hển muốn tắt thở: Tôi… tôi nhặt được chiếc bị cói…
-Sao? Nhặt được ở đâu?
-Chợ Đông! Xem đây này… toàn tiền xu… Những xu là xu…
-Có biết của ai không?
-Của… của cái cô hàng xén, người trắng trẻo, tóc dài… nom phang phác như cô Hằng nhà mình… Cô ấy bỏ quên… Thầy cu tìm cách nào đem trả người ta… Ông trố mắt:
-Toàn bạc xu! Tiền cóp nhặt bán hàng đây mà! Ừ… Bà nghĩ thế là phải! Của đau con xót. Đói thì đói cũng không được tơ hào… Gói lại, để đấy đợi phiên sau, đem lên trả người ta…
Phiên chợ sau, bà đem bị bạc xu lên trả. Cô hàng xén đây rồi. Cầm cái bị, cô như người vừa tỉnh một cơn mơ: Em cảm ơn bá! Đội ơn bá! Em xin biếu bá một ít gọi là ăn trầu và bác trai uống rượu…
-Cô cất đi! Đây là tiền mồ hôi nước mắt của cô. Tôi lấy làm gì!
Hàng đêm ông Lý Tấn lại thức trắng. Lang thang ngoài vườn từ gốc cây này sang luống rau kia, ông như lạc vào một cõi ác mộng, lạ lùng nào đó. Khát vọng về đất, làm giàu cho đất. Nhưng đất và người đã không có duyên!
Cùng thời điểm Lý Tấn mất vườn đất, trong làng có mấy người “máu mặt” làm nghề buôn bán, thợ mạc, buôn bè mảng cũng bị kiểm kê, tịch biên tài sản. Có những gia đình cả đời làm nghề thợ mộc cũng bị huyện đem ô tô tải đến tịch thu tràng kỷ, sập gụ, tủ chè đắt tiền với lý do: Nhà chứa nhiều đồ gỗ; gỗ này lấy ở đâu; gỗ phi pháp không có giấy tờ của kiểm lâm. Cả nhà vợ chồng con cái lăn xả vào giằng kéo suốt từ đầu chiều đến nhập nhoạng tối. Cuối cùng đồ đạc vẫn bị chất lên ô tô tải chở sang huyện... Đến khi “giải oan”, được trả lại thì cái sứt cái mẻ, cái mộng mẹo long rời long rụng như răng bà già... Nhưng vườn đất nhà Lý Tấn thì đã tanh bành, không thấy nói năng gì… Xã dùng Phan Văn Chèm công an phó, đưa sang phụ trách Ban Lão thành, sức các lão thành vào đào gốc cây, phá vườn nhà Lý Tấn. Nhận công việc này, Phan Văn Chèm tỏ ra rất xăng xái và hăm hở. Chỉ trong ba ngày, tất cả cây cối trên vườn nhà Lý Tấn bị chặt trụi. Những cây bưởi, cây cam, vải thiều, hồng xiêm… chục năm mới đều đặn hoa thơm quả ngọt, trong chốc lát chỉ còn trơ lại gốc nham nhở, tứa nhựa. Lũy tre dây vây ba mặt bị chặt trụi, tan hoang, tháo khoán cho người vào tha lôi. Đàn cò bị phá mất tổ bay táo tác ra ngoài cánh đồng, biến mất vào trời xanh.
Thời đen tối, Phan Văn Chèm từng là một cán bộ Việt Minh, có tý võ vẽ, được tổ chức phân công vào đội diệt tề. Hắn là con một bần nông không tấc đất cắm dùi. Cha mẹ hắn quanh năm lầm lụi đánh lưới ngoài sông. Thuở nhỏ, hắn đi ở chăn trâu cho một nhà giàu dưới làng Vị Hương. Năm đói Ất Dậu, người các làng chết như rạ. Năm anh chị em hắn chết vì bệnh dịch tả, chỉ còn hắn như “cây lúa rài” sót lại…
Đến thời kỳ nông thôn xây dựng hợp tác xã nông nghiệp, hắn vào công an xã. Rồi không biết bởi lý do gì đó, sinh tư tưởng bất mãn, hắn không thèm tham gia nữa. Hàng ngày mượn rượu, hắn ra ngõ chửi đổng thằng Tây thằng Tàu. Lời chửi tưởng gió bay, nhưng cũng khiến nhiều kẻ âm thầm động lòng. Mỗi khi xã có cuộc bầu cử nào, đợi đến lúc trời nhập nhoạng tối, chỉ còn mấy phút nữa đóng cửa Phòng bầu cử, Chèm mới khệnh khạng cầm thẻ cử tri đi bỏ phiếu. Từ đó lần nào bầu cử, Ban bầu cử cũng phải nóng ruột đợi Chèm ra. Một lần Đại hội xã viên, biết mình do đội sản xuất cơ sở không cử vào số đại biểu đi dự, Chèm đánh bài đem chiếc chiếu con ra rải trước cửa hội trường, ngồi ngoài rìa lắng nghe, thỉnh thoảng rít điếu cày sòng sọc. Tự dưng chủ tịch Ngô Thị Khiển với mấy tay cán bộ quản trị cũng động lòng. Khi lên phát biểu bà ta nói nhỏ hẳn đi, chỉ đủ bên trong hội trường nghe thấy; mắt thì lấm lét đảo ra ngoài nhìn Chèm. Chèm chỉ nhếch mép cười khẩy, khó hiểu…
Sợ Chèm gây sự, phá quấy, chủ tịch xã Ngô Thị Khiển đưa hắn vào làm cán bộ thủy lợi, rồi dân quân bảo vệ. Dùng độc trị độc, đợt này Khiển lại sử dụng Chèm vào chân công an phó. Được chân này, hàng ngày Chèm ra chợ kiểm tra, đôn đốc việc quét chợ, thu cả vé chợ. Chèm có cách ăn quà rất tinh khôn. Sáng ra đi dọc các hàng hoa quả, bánh trái; nhất là hàng bánh đúc, bánh đa kê, hàng ổi nhãn, hắn giả vờ hỏi giá rồi tranh thủ ăn nếm. Cứ như vậy, ăn nếm từ đầu đến cuối chợ mỗi hàng một ít, xong lẳng lặng bỏ đi. Chả ai dám kêu ca gì. Vậy là đủ no và thỏa cơn thèm một cách có lý! Vợ con đỡ hẳn bữa cơm! Dạo nâng cấp, sửa lại ngôi nhà xong, đến doạn lát cái sân gạch, Chèm làm một việc mà ai thấy cũng khó hiểu và buồn cười. Tất cả những viên gạch vuông đỏ, Chèm bắt thợ xây bổ vỡ đôi ra mới đem lát. Mãi sau người ta mới biết thâm ý của Chèm: Sợ đám con lếu láo khi gặp cơ đói kém chúng sẽ ganh ghé nhau rồi nạy gạch sân đem bán! Bổ đôi viên gạch, bán có chó nó thèm mua!…
Chữ nghĩa ăn đong. Nhưng hắn lại giỏi mưu mẹo. Dân gian còn cười ngặt nghẽo một câu chuyện hồi hoạt động trong đội diệt tề, hắn đọc công văn tài liệu: Hôm ấy, có công văn mật của trên thông báo thành tích diệt địch xuống cơ sở. Công văn đánh máy thô sơ không có dấu, với dòng chữ: quan ta vao can cu dich, tieu diet 10 ten, bi thuong hon 10 ten… Nội dung chính Chèm chỉ luận được những chữ quen thuộc, còn lại, hắn đọc “vao can cu dich” phẹng thành “vào cắn cu địch”. Cuối cùng hóa ra là: vào căn cứ địch. Ai nấy cười méo hết cả miệng. Chèm láu cá chữa thẹn: Chẳng qua tôi cố ý đọc tếu thế cho các ông các bà cười. Một tràng cười bằng mười thang thuốc bổ!…
Chèm rất mẫn cán trong việc rình rập, săn lùng các chiếu bạc, những kẻ thông dâm, những mụ nấu rượu lậu, những người tổ chức bám mích, vượt biên... Biết tay chủ nhiệm HTX Mua bán Thượng Phong tằng tịu với cô Mến nhân viên kế toán HTX Nông nghiệp làng mình, Chèm rắp tâm theo dõi. Vừa là tò mò vừa là bắt chúng họ phải cung phụng. Đêm ấy đi tuần, phát hiện tay chủ nhiệm từ làng bên đã mò mẫm đến nhà Mến, như một con cuốc, hắn áp sát ngay bức tường sau nhà. Qua ô cửa mạch, Chèm thấy rõ đôi tình nhân vừa dính chặt vừa dìu nhau xuống bếp.
-Xì… Từ từ đã! Xem có người đằng sau không? Cơm chửa ăn gạo còn đó. Đi đâu mà vội? Mến ú ớ: Được mấy mỡ… Ăn xong tha hồ cơm no bò cưỡi…
-Đang tức gạch bỏ mẹ ra đây này… Tay chủ nhiệm dúi mặt vào ngực Mến.
Chúng bỏ bún chả, bánh nướng ra ăn, cười rinh rích. Đoán bọn này ăn uống xong thế nào cũng diễn trò ân ái, hắn lẻn nhanh vào buồng, lẳng lặng nằm dưới gầm giường theo dõi. Y rằng, một chốc sau no say, cặp tình nhân ôm nhau vào buồng. Tay chủ nhiệm vặn loa chiếc đèn pin Trung Quốc ra, chỉ còn lại bóng anbun tỏa sáng. Cánh cửa khép lại, chúng đổ ập xuống giường. Tưởng sập thang giường, Chèm co rúm người lại. Hắn nhìn lên, qua giát giường thưa, tấm chiếu cũ thấy rõ bộ mông trắng lốp của Mến chẳng khác gì mông lợn cạo! Bộ mông nhún lên hạ xuống liên hồi kỳ trận kèm theo tiếng rên rẩm ngay trên mặt Chèm: Ối! Giời ôi… Thơm vào bướm đi… Tay chủ nhiệm xuýt xoa: Ôi! Như múi mít… Chèm nghĩ thầm: Thơm thơm cái mả mẹ mày! Mắm tôm thì có! Chợt Mến kêu lên: Giời ạ! Sao lại như chuồn chuồn quệt nước thế? Giã mạnh vào… Tay tình nhân hổn hển: Từ từ đã chứ! No quá, tức cả bụng…
Suýt nữa Chèm thốt ra: Mẹ cha chúng mày! Vào tay ông thì phải biết! Chợt chiếc giường cựa răng rắc. Tưởng cây thang giường trên mặt sắp gẫy, hắn vội giơ thẳng hai cánh tay lên gân chống đỡ. Phía trên càng hổn hển ấn xuống, dưới này hắn càng phải nghiến răng ra sức chống lên …
Sau cuộc mây mưa, cặp tình nhân lăn ra ngủ say như chết. Chèm bò ra vơ hết đám quần áo, định mang về giấu kín. Vừa ôm đám quần áo, Chèm vừa nhìn đôi tình nhân lõa thể đến mấy phút. Công nhận con bé kế toán này nó đẹp! Chắc chắn là do phải hơi giai nhiều… nên thân thể nó mới nở phì, bầu vú như hai cái bánh dày xếp sít nhau, hai cái chuỗm đỏ au, đùi vế mũm mĩm mịn như bột thế kia… Tốn đực phải biết! Chỉ mỗi cái… rậm như bãi cỏ! Không bù cho con mẹ xề nhà ông! Mẹ cha thằng chủ nhiệm “kẻ hàng” nó sướng thật! Chả lẽ ông lại hôi tát?... Chèm nuốt nước miếng ứa ra đầy miệng đánh ực. Lúc qua gian giữa thấy chai “rượu Chanh” trên bàn thờ ngay dưới bức ảnh liệt sĩ Nguyễn Văn Quế, chồng Mến, Chèm nghĩ thầm: Rõ khổ! Ông có nhìn thấy cái Mến nó phè phỡn với thằng “kẻ hàng” trốn bộ đội không? Đoạn, hắn nhón tay xách luôn chai rượu, gói vào đám quần áo.
Hôm sau, gặp gã đàn ông, Chèm ghé tai: Này! Đêm qua lên tiên sướng nhé! Ăn khoai khô cũng sướng! Đằng nạy mẫm răng giò chả bún riêu… Gã đàn ông giật bắn mình: Cắn cỏ cắn rơm em lạy bác! Đừng hé với ai bác nhá!...
-Đến nhà tao mà nhận quần áo! Chèm lạnh lùng bồi tiếp: Chắc đêm qua chú mày lấy lá chuối che buồi dái để về với vợ à?
-Dạ! Bác chỉ được cái hóm! Đúng là “cà độc dược”! Em thiếu gì… Quần áo may sẵn, cửa hàng… đầy!
Tay chủ nhiệm Phong Lụa rất sợ lộ chuyện. Ngậm đắng nuốt cay, nửa đêm gã đến nhà Chèm van vỉ: Bác thông cảm cho em xin! Mụ vợ em nó biết thì tan cửa nát nhà! Em biếu bác mấy cặp cá nướng, tá xà phòng Liên Xô “bẩy hai phần trăm” với bốn mét vải gabađin Trung Quốc… gọi là tình cảm. Cuối vụ em nháy cái Mến nó xàng xê vào sổ bác một tạ thóc! Lạy bác kín cái miệng…
Từ đó Chèm có thêm cái tên “Cà độc dược”. Và hắn cũng có vẻ kiêu hãnh về cái tên này. Những nhà “bám mích” muốn êm xuôi, không muốn bị tố giác gây phiền nhiễu, sau mỗi lần “trúng quả” thường đem từng bao bột mì, phân urê, mét vải xanh “sĩ lâm”… đến “lại quả” tận nhà vào lúc chập tối hoặc gà gáy. Ngõ nhà Chèm luôn cài hờ chiếc then gỗ. Trông ngòai như vẻ cài then, khóa trong. Nhưng kỳ thực ai thuộc việc chỉ đẩy nhẹ một cái, cánh ngõ đã từ từ mở ra, êm ru. Chèm luôn áp dụng phương sách “Tam nhân đồng huyệt táng” để ứng xử với những kẻ mắc tật mà chỉ riêng hắn biết: Cùng một huyệt, ta nằm dưới cùng, chỉ cần giãy nhẹ một cái là hai thằng trên khó bề yên thân! Một lần mật phục ngoài bờ đê, Chèm bắt được một tốp người dùng thuyền tổ chức vượt biên. Trong số đó lại có cả Mến kế toán, nhân tình của tay chủ nhiệm cái đêm hắn thu đám quần áo. Chèm kéo cô ta ra chỗ vắng cạnh bìa rừng sú vẹt, khám xét khắp người. Không thấy vàng bạc gì cả. Vô lý! Chả lẽ nó ném xuống sông? Nhìn xuống bụng dưới người đàn bà thấy phồng cộm, Chèm trợn mắt: Sao bụng dưới lại to cộm thế kia?
-Hành kinh!
Hắn tinh ranh thọc luôn tay vào ổ quần lót cô Mến, kéo ra dúm vải màn, rũ mạnh. Một nhúm sợi dây chuyền vàng óng ánh lẫn nhoe nhoét máu rơi xuống đất: Giỏi! Dám lừa ông! Muốn sống đừng có bép xép! Chạy đi!
Uất quá, người đàn bà chỉ kịp ném vào mặt hắn một câu chửi:
-Mả cha cái đồ… ăn cả máu bẹn…
Bởi những chiêu “thuốc hóm” độc đáo, Chèm ăn được khối thứ của biếu của đút của những kẻ “dát ma”, “già trái non hột”.
Những ngày năm ấy, các làng đây đó rộ lên nạn chó dại. Bắt đầu từ bên làng Lưu Thượng xảy ra việc ông Thủ Khành bị chó hàng xóm cắn. Nó không chỉ cắn ông, mà tiếp tục xông vào các nhà khác. Chó dại! Cả xóm cả làng náo loạn như chạy giặc. Nhà nào nhà nấy đóng cửa, đóng ngõ không dám ló ra đường. Ông Thủ Khành sốt li bì. Con cháu hộc tốc đưa đi bệnh viện. Mấy ngày liền lên cơn dại, ông quằn quại, dứt xé quần áo, kêu gâu gâu như chó. Bác sĩ bó tay, trả về. Đâu ba ngày sau, sau cơn giãy giụa vờn lên cắn nát mảnh thành giường gỗ lim thì ông tắt thở...
Trước tình hình chó dại, huyện ra lệnh các làng xã lập tức diệt chó và cấm nuôi chó. Khắp nơi râm ran chiến dịch diệt chó. Xã tiếp tục đưa Phan Văn Chèm kiêm thêm đội trưởng đội diệt chó. Để diệt chó một cách hiệu quả, Chèm đi khắp các ngõ xóm, đến các gia đình thám thính. Sau đó lên danh sách, đánh “gọng vó” thanh toán từng con một.
Dân chúng trong làng râm ran, náo động. Người đem bán. Kẻ đem giấu. Chèm cùng đám dân quân ngày nào cũng lùng sục từ sáng sớm đến xẩm tối. Tới đâu hắn cũng xua gậy, quệt gậy vào các bờ rào đánh động cho chó lên tiếng. Lũ chó trong làng cũng đáo để, Chèm đi đến đâu chúng phát hiện ra ngay, cứ sủa ầm ĩ lên như một dây chuyền xâu chuỗi như muốn báo động cho đồng loại. Nhưng khốn nỗi ếch chết tại miệng. Chó cũng chết tại miệng! Chính vì cái mồm thính sủa mà nhiều con bị thiệt mạng ngay từ những ngày đầu Chèm ra quân. Một con, hai con và cứ thế tiếng sủa vang lên. Có đêm hắn còn bí mật rúc vào các bờ giậu, nằm thin thít để nghe ngóng xem nhà ai còn giấu chó. Có người ra bờ giậu đi đái, đái cả vào mặt hắn, hắn cũng cố chịu, không hề nhúc nhích. Nhà chị phó Năm mót đái, đi vội, tụt quần ra, lồ lộ bộ mông đùi trắng phớ. Chèm nằm ghé dưới chân giậu râm bụt, nhìn rõ mồn một cái “lỗ cừ” thâm xì tuôn xoe xóe, nước bắn ngược cả vào mặt mũi hắn. Mấy hôm sau nhân một đám cúng giỗ, thấy bóng chị phó Năm ngoài sân, Chèm cố ý kể cho đám đàn ông quanh chiếu câu chuyện gặp một bà đi đái hở cả cái mụn ruồi to bằng hạt gạo chiêm ở kẽ bẹn… Chị phó Năm chột dạ, đỏ mặt, bỏ về không dám ngồi cỗ.
Đến các nhà, thấy chó chạy ra, Chèm dùng chiếc gậy lim phang thẳng vào đầu chó, đập vỡ óc cho bằng chết. Tiếng chó tru tréo, thét thúa khắp nơi. Những con nào của nhà bà góa, chủ không bán hoặc giết được thì hắn gợi ý mua rẻ đem về: Đây là tôi thông cảm giúp đỡ đấy nhá!...
Con chó Mích nhà ông Lý Tấn phải nói là khôn ngoan. Hễ thấy tiếng đồng loại sủa xa xa, thấy Tầm vỗ tay: Chèm! Chèm! Chèm tới đấy!... là nó vội lỉnh luôn. Dù đang ngoài vườn hay nằm cạnh bờ ao, hoặc đang ỉa chưa hết nó cũng vội chạy vào nhà, chui tọt dưới gầm bồ thóc, nằm im như thóc.
Tầm đóng cửa buồng lại. Khi Chèm đến, mặc hắn khua gậy xuống các gầm giường, xó tủ, con Mích vẫn nín thở, không ra tiếng. Hắn hỏi trống không: Con chó đâu? Tầm đáp: Bán rồi! Hắn bỏ về, Tầm ra đóng ngõ. Quay vào. Mích ta đã thò đầu qua khe cửa, mắt sáng long lanh. Thấy không động tĩnh gì, nó lại nhảy cỡn lên vẫy đuôi rối rít... Tầm rất quý con chó Mích. Những năm trước, đi học cậu thường cho nó theo đến lớp mãi bên trường Kim Ban cách nhà hai cây số. Một hôm đang ngồi học, Tầm thấy con Mích xuất hiện ngoài cửa lớp, miệng ngậm một đồng tiền, đuôi quẫy rối rít như muốn gọi cậu. Tầm xin phép thầy ra ngoài, nó nhả đồng tiền mới toanh vào tay Tầm. Tầm đem đồng tiền nộp thầy giáo để thầy thông báo ai đánh rơi đến nhận. Cuối cùng đồng tiền đó của cô thủ quỹ… Và cũng lạ, hình như cảm nhận được mấy hôm nay tiếng đồng loại kêu thất thanh liên tục, nên con Mích không sủa vặt, không sủa về đêm như trước nữa? Có khách, nó chỉ kêu ủng ẳng nho nhỏ cho chủ nhà nghe thấy và đến nằm ở góc cửa buồng, đôi mắt đảo như bi. Năm sau, vào một vụ diệt chó khác... Hôm ấy, Tầm đang cho con Mích ăn trong nhà bếp. Chắc có kẻ chỉ điểm. Chèm khẽ nhích cánh cổng, bất ngờ xuất hiện ngay đầu sân. Con chó Mích bỗng xổ ra vờn lên đớp một miếng vào tay phải hắn. Hắn vội cầm luôn cây gậy đuổi theo phang con Mích. Tầm bàng hoàng, đứng như trời trồng trước cửa bếp. Con Mích chạy tọt vào buồng. Hăng máu, Chèm rượt theo. Một tay ôm vết thương, một tay hắn quơ gậy túi bụi vào gầm bồ thóc. Con Mích sủa ông ổng, chui lách hết góc này sang góc kia. Cuối cùng nó vọt lên, nhảy bổ qua đầu Chèm như một con hổ vồ mồi. Chèm nằm xụp xuống. Nó xốc luôn ra ngoài. Đám dân quân ào ào đánh vuốt đuôi. Sân nhà Lý Tấn ầm ầm như bị cháy nhà. Con Mích ngoái lại, rồi chạy thẳng một mạch ra cánh đồng. Chèm cay cú hô: Tất cả đuổi theo! Chả nhẽ ngần này thằng lại thua một con chó?
Bọn người hò nhau đuổi rầm rập trên đường làng ra cánh đồng. Con chó phi như tên bắn trên bờ ruộng.
-Được rồi! Cho mày ra đồng trống, càng dễ thanh toán! Chèm sai một dân quân về chỗ xã đội trưởng xin một cây súng trường. Súng tới. Hắn khoát tay: Theo tao!
Chèm tiếp tục dõi theo hướng con chó. Mùa này lúa tháng năm mới gặt xong. Thảm rạ trơ một màu mênh mông tới các chân làng. Con chó vẫn chạy lúc dập dờn trên bờ cỏ, lúc lẫn khuất lúp xúp dưới ruộng rạ. Chèm vẫn không buông bám đuổi. Ra giữa cánh đồng, bất chợt hắn ngồi quỵ xuống, giương súng lên, mắt nheo lại, rê nòng súng theo. Bóng con chó nổi mồn một trên màu trời. Đoàng! Đoàng! Đoàng! Ba phát súng chát chúa nổ liên tiếp. Tiếng chó hú oăng oẳng, vang vọng. Không thấy bóng con Mích chạy nữa.
-Trúng rồi! Chết rồi! Chèm cùng cả đám dân quân lao tới. Con chó nằm giữa vũng máu loang đỏ góc ruộng xăm xắp nước, bọt dãi tràn đầy mõm. Mắt nó trừng trừng nhìn Chèm đang tới gần. Chèm liền đá nó một phát rõ mạnh cho hả tức:
-Tiên sư mày! Vì mày mà ông thụt mẹ nó cả dái! Cuối cùng mày cũng phải gục… Hắn chưa dứt câu thì… “Ối!” một tiếng. Con Mích bất thình thình chồm lên bập một nhát vào bụng dưới hắn, rồi nó từ từ ngã vật ra, sóng soài trên ruộng rạ. Những làn gió nóng hầm hập thổi qua cánh đồng…
Lý Tấn buộc phải vào đội ngũ Ban lão thành. Ông tự tay mình chặt cây phá vườn, đào tận gốc, rốc tận rễ từng cây bưởi, cây cam, từng luống rau xanh. Không làm sẽ không có công điểm để chia thóc. Ngày nào cũng khoảng chín, mười giờ sáng, Phan Văn Chèm mới đến kiểm tra và “đánh dấu gọng vó” chấm công các lão thành. Nhìn ông cùng các cụ chặt gốc, đào rễ cây, hắn nhếch miệng cười ruồi, vui ra mặt. Hắn đắc ý thả nụ cười ruồi ấy vào cõi lòng đau đớn của kẻ trồng cây. Đám rau, đám hoa nhổ lên, hắn cho mang ra chùa trồng và không quên bớt lại một ít đem về trồng ở vườn nhà hắn.
Trong đội Lão thành có ông Vệ Tỷ ở xóm Tam Thôn thường mua thuốc lào của Lý Tấn và bao giờ ông cũng vừa bán vừa cho. Vệ Tỷ nghèo, nhưng rất thể tất. Dù ít dù nhiều, không nợ ai lấy một xu. Biết Lý Tấn bán rẻ thuốc cho, ông tìm mọi cách lúc lạng chè, lúc mớ cá rô, cá mại cờ… gọi là của đồng của mương đem đến biếu. Người làng gọi Vệ Tỷ bởi ông từng đi lính cho Pháp rồi chạy sang ta trong chiến dịch đồng bằng. Ông chất phác, thật thà, vui vẻ và rất chịu khó. Ăn khỏe. Làm khỏe. Cày cuốc cật lực. Người thấp phục phịch. Gương mặt lúc nào cũng như muốn cười. Chỉ tội nói lắp và ngọng. Đã ngọng, đã lắp lại ham nói, ham chuyện và tán phét như ranh. Đoán Lý Tấn buồn, Vệ Tỷ thường kéo Thủ Nước đi cùng để thêm bạn gần gũi chuyện trò với ông như muốn giúp ông xua đi nỗi muộn phiền.
Vệ Tỷ và Thủ Nước chơi thân với nhau từ thuở chăn trâu cắt cỏ. Thủ Nước cũng là người ưa hài hước. Hai ông đã gặp nhau là chuyện vui như tết, đến đâu cũng làm rôm rả cả đám đông. Gặp là vồn vã hỏi thăm nhau như hai kẻ lâu ngày mới thấy mặt. Vệ Tỷ thường cất lời trước: Xế… nào! Thủ… Thủ… Nước? Vẫn… vẫn… khẻ… khẻ chứ? Ôi dào! Vẫn khỏe! Vẫn “đù” được chết trâu! Còn ông? Thủ Nước hỏi lại. Tớ… tớ ấy à? Đêm… đêm nào… cũng… lụt… “cáng búa”! Vệ Tỷ lắp bắp. Hai ông lại cười giòn, bá vai bá cổ như hai chú mục đồng.
Một hôm sang phố huyện, vừa xuống phà, thấy một chiếc xe con đen bóng nhoáng đậu giữa đám người vây quanh đang trầm trồ khen đẹp, vệ Tỷ bèn lách đến. Ông nhổ bọt vào lòng bàn tay, quệt quệt lên mũi xe rồi xoa xoa phủi bụi. Miếng bọt lau để lại vệt mờ trắng. Vừa lúc ấy, một người đàn ông quần áo trắng sơ vin, bụng xệ, bước trong xe ra. Nghe đánh rầm một tiếng. Vệ Tỷ giật thót, lùi lại. Người đàn ông quát: Làm gì đấy? Bẩn xe! Vệ Tỷ lắp bắp: Ái… ái… xe… ẹp quá… Tôi… em… thôi mà… Xe… ắm... bụi hế…?
Nhìn ông già mặt mũi đen đúa, áo quần luộm thuộm, tay béo phệ quắc mắt: Bụi cũng mặc kệ! Biết xe này của ai không mà dám đụng đến. Hỏng, ông có đền được không? Tôi… hông biết. Ỏi… giỏi lắm thì… bằng con tâu chứ mấy! Xe chủ tịch huyện đấy! Lui ra! Anh ta đẩy mạnh ông suýt ngã về phía sau. Vệ Tỷ liền chắp hai tay, cúi xuống: Dạ… Thế này… thì… cũng… tẳng… khác tước! Ông kể chuyện cho Lý Tấn nghe. Lý Tấn cười mủm mỉm: Nhưng sao chú lại bảo “Thế này thì cũng chẳng khác trước”? Là thế nào?
-Ý là ôi muốn nói: ái anh áng bộ thời nay ấy ao mà ách ịch tẳng khác gì quan thời phong kiến ngày tước. Nhưng quan ngày tước như bác đây có ống ách vậy âu. Bác ân òa ư Phật ấy!
Cầm chiếc rựa, chiếc cuốc bập xuống những gốc cam, gốc bưởi, Lý Tấn như bập vào chính xương thịt mình. Mỗi nhát bập, một cái giật mình, một mảnh cây bật vỡ, tóe ra. Những giọt lệ cùng những giọt mồ hôi trên gương mặt đen sạm rỏ xuống, mặn môi. Cành cây lổng chổng. Quả non vương vãi. Những dòng nhựa cây, nhựa quả ứa như máu, thấm vào đất. Cả một khu vườn tược đang độ lá xanh quả trĩu cùng bờ lũy tre dây bao bọc um tùm bỗng dưng bị bóc khỏi cơ thể bùn đất mới dâng đắp chưa kịp kết tủa hết chua mặn. Những vốc bùn vớt từ ngoài sông lắng thành đất lạ vừa ấm hơi người, vừa mới nên quen đã tuột khỏi giấc mộng Đất Đai và Cây Đời của ông...
Lý Tấn trở nên trầm lặng, như dòng sông trôi hết phù sa. Nước mắt và nhựa cây lặn vào trong ruột người, ruột đất!
Ba lạng thóc một công. Người nông dân vẫn đợi cuối vụ, chiều đến ra sân kho xếp hàng. Bà Hai chỉ mang chiếc rá con. Có hôm, tối mịt về không, vẻ mặt não nề: Quản trị họ bảo chiều mai mới được thóc! Ông chua chát nhìn bà:
-Có mớ ngọn khoai lang tôi mới hái bòn được. Bà đem luộc, thay bữa…
Khu vườn đất bị cắt ra, trước mắt họ trồng cây hương nhu, cây “hoài sơn”, sài đất để làm vườn dược liệu cho Trạm xá. Trạm xá báo cáo huyện lấy thành tích chữa bệnh tại chỗ bằng thuốc nam. Vườn thuốc nam kiểu mẫu cũng chỉ èo uột được vài năm rồi tàn lụi, bỏ hoang. Đất vô chủ, đám cỏ mọc, đám ương dây khoai. Những buổi hoàng hôn, những đêm trăng suông thông thống gió, những ngày mưa dầm dề, khu vườn xơ xác, buồn hoang lạnh. Chiều chiều, thi thoảng có những đàn cò trắng lượn qua. Không thấy bờ tre đậu, chúng bèn liệng vòng rồi bay đi. Sớm mai vắng hẳn tiếng chim chào mào, tiếng chích chỏe hót. Con chim bói cá cũng bỏ đi đâu mất! Đêm đêm chó mèo trong các xóm xung quanh từng lũ đến ỉa, đú đởn, cắn xé nhau om tỏi. Khu vườn như một khoảng nghĩa địa, ẩn hiện những bóng ma không rõ hình hài. Lý Tấn đứng thẫn thờ bên hàng rào râm bụt nhìn ra. Không nói, nhưng lòng ông sầu muộn và đau đớn ghê lắm. Mênh mang nỗi ngậm ngùi mà bất lực không làm sao được, không biết cách nào để gỡ. Ba sào ruộng ở Hậu Hương trồng thuốc lào và rau màu mới được bốn, năm vụ lúa chiêm chứ mấy, đã bị thôi không được canh tác nữa. Cũng đành theo Hợp tác xã! Nhưng đây lại là đất tổ tiên trong vườn trong khuôn viên nhà mình? Đất của mình vật lên mà nay như vô chủ. Đất của mình nằm ngay dưới chân mà không dám cúi xuống, động tay vào! Thèm một nhát cuốc cho hòn đất phơi nắng, muốn dâm xuống đó một vài mầm cây, mà đành lặng ngất nhìn mùa trồng trọt trôi đi!
Bằng mồ hôi, máu thịt, cụ Lễ Đĩnh và ông đã gồng mình cho con thuyền gia ổ họ Lý nổi trên dòng sông đời. Đang chèo lái mát tay. Chưa đi được mấy dặm đã bỗng dưng mắc cạn, đắm trên trương bãi nơi cửa sông! Đáng tiếc, con thuyền chưa hề ọp ẹp, chưa hề bị mục gỗ, chưa hề bị bung đường xảm hoặc rách nát cánh buồm! Những cơn gió đổi mùa đã đẩy gia đình, đẩy ông vào bi kịch, tay trắng như người thua bạc giữa làng! Đơn giản, cái bể nước mưa nhà ông từng hằng năm cứu khát cho dân làng! Nhưng dân làng thì... không ai chung lưng vào cứu được con thuyền mắc cạn của nhà ông!
Lê Văn Kiết trưởng thôn, anh em dì bá với Phan Văn Chèm là một tay ranh ma và lươn lẹo. Lợi dụng khoảng trống những ngày HTX rệu rã, khu vườn không phát huy hiệu quả trồng trọt, bị bỏ hoang, không người trông coi, Kiết đã nảy ý nhòm ngó. Đục nước béo cò, thông đồng với Chèm, Kiết lập mưu chiếm đoạt miếng đất phía tây khu vườn. Vài hôm, Kiết lại sang dò hỏi ông Lý Tấn: -Sao ông không xin lại một miếng đất cho chú Tầm ra ở riêng?
-Giờ của xã tôi chả dám xin! Ông vẫn thực thà, không biết mưu mô “rung cây” thăm dò của hắn.
Cũng lạ cho cái gia đình này, đã thành rớp, cứ mỗi khi có giỗ chạp, cha chú, anh em, con cháu ngồi xuống mâm cỗ, rượu vào lời ra là cãi nhau, đánh chửi nhau lộn tùng phèo. Cha con, chú cháu ai cũng to, chẳng ai chịu ai. Hàng xóm điếc tai, thành quen, dẫu chúng họ cầm dao cầm gậy đuổi nhau, đánh nhau đổ máu, cũng chẳng ai dám sang can. Lỡ động vào là tổ kiến lửa hùng hổ kéo sang “lấy thịt đè người”, “cả vú lấp miệng” như bỡn. Nên rất nhiều nhà xung quanh “bình chân như vại” và ngại đối khẩu.
-Tội gì không tranh thủ đục nước béo cò! Kiết dựng lên một màn kịch bố con cãi nhau kịch liệt. Lần ấy, nhà gã có giỗ, đang yên ắng chợt bùng lên như ong vỡ tổ. Gã chửi bới om xòm rồi đuổi một thằng con ra ở riêng. Buổi tối, Kiết sang nhà Lý Tấn: Cháu định mượn xã miếng phía tây bên đất cũ nhà cụ cho nó ở tạm. Khỏi va chạm bố con…
-Cái đấy là việc của nhà bác! Vẫn nhìn vào quyển sách cũ trên tay, Lý Tấn thủng thẳng đáp.
Tháng sau, thằng con gã nằn nèo xã cho mượn một khoảnh đất phía nam khu vườn, đắp nền dựng tạm một túp nhà gianh. Để lâu cứt trâu hóa bùn! Bây giờ thì khoảnh đất mượn ấy đã được hợp lý hóa, sổ đỏ hẳn hoi thành đất nhà nó. Căn nhà xây, lợp ngói chễm chệ mọc lên. Không thấy ông Việt Minh nào một thuở trốn ẩn ở nhà Lý Tấn lai vãng hỏi thăm. Cũng có người vuốt đuôi đãi bôi: Xã lấy đất của cụ thế này là sai chính sách! Khỏi ngõ nhà ông, có kẻ lại quay lưng: Đất cát bề bề… Địa chủ hiện về… Chết là phải!...
XIII-PHÚ QUÍ PHÙ VÂN
T rong CCRĐ, nhà Lý Tấn mất chiếc tủ chè gỗ gụ cánh cong khảm điệp tích “Mai Hạc”; may còn lại bộ tràng kỷ cuốn, cũng gỗ gụ đóng liền, khá đẹp và chắc chắn. Bộ cuốn đóng liền này, bà cụ Lễ Đĩnh mua lại của cụ Thứ Phái, một ông cậu bên ngoại để đặt ở ngôi nhà khách thời Lý Tấn làm lý trưởng. Còn bộ tràng kỷ chấn song con tiện từ đời cụ Bá Tân, điêu khắc toàn phần vẫn bày trong ngôi nhà gỗ năm gian, cụ cho vợ chồng cô Hằng gái út. Khi chuyển sang Hải Phòng, cô Hằng lại nhượng cho cụ Thứ Phái. Được một vài năm, cụ Thứ Phái lâm cảnh sa sút do nghiện thuốc phiện đã bán lại cho chú Mãng con cụ Tiên Viễn. Vợ cụ Tiên Viễn là em cụ Lễ Đĩnh. Bộ chấn song con tiện tuy điêu khắc tinh xảo, nhưng khung bệ yếu ớt. Thời gian trôi đi, hầu như ít người chú ý đến những bộ đồ gỗ, vì lo ăn còn chảy máu mắt, huống chi kỷ chè tràng kỷ có cũng được mà không cũng chẳng sao. Một hôm Lý Tấn lại chú Mãng chơi. Đang ngồi uống trà, ông ngắm đi ngắm lại bộ tràng kỷ: Bộ này trước của cụ nhà tôi cho bà Cửu Yên, thuộc hàng đồ chấn song con tiện, điêu khắc điển chùm nho con sóc, giờ nhìn thế mà hay! Ông Mãng bắt chuyện luôn: Kể chỉ về nhà bác thì phải, vì nó vừa là thời cổ của nhà bác, sau vừa là của em gái bác! Còn bộ cuốn đằng nhà bác mua của cụ Thứ Phái, kể đổi bộ ấy lại cho em thì hay biết mấy!
-Kể thì vô cùng! Nhưng để bàn với nhà tôi xem sao!
Hồi trẻ, cô Hằng em gái út ông nổi tiếng là “Gái tướng cờ” đẹp người đẹp nết. Gương mặt cô đầy đặn, tròn như vầng trăng rằm. Hằng năm cô luôn được chọn đứng ngôi tướng cờ trong Lễ hội Tứ Xã. Một hôm cô đang cày ruộng ven đường, có một chàng trai phố ở Hải Phòng về quê xem hội bơi chải đình Lưu Thượng. Qua sào ruộng, chàng trai thấy cô thôn nữ khoẻ mạnh giờ này trống hội đang giục giã vẫn còn mải mê theo trâu thế kia, bèn dựng chiếc “xe lết” cạnh bụi tre, rồi đứng nhìn đăm đăm, khiến cô gái ngượng chín đôi gò má. Nhưng đường cày vẫn thoăn thoắt. Chả hiểu vì sao, chàng trai bỏ cả hội, theo cô về nhà… Thời gian sau đó chàng trai đón cô thôn nữ lên xe hoa sang Hải Phòng. Ông là Ngô Duy Yên một cầu thủ bóng đá của đội bóng đá Đông Dương xứ Bắc Kỳ lúc bấy giờ. Ông mua được chức cửu phẩm, nên người ta quen gọi ông là Cửu Yên. Cửu Yên mê cô Hằng, trong đó vì những mụn vá trên vai áo mịn màng, nốt vá nơi khe lách của tấm áo cô mặc lúc cày ruộng vừa kín đáo vừa bó lẳn lấy thân hình. Ông nhớ lời mẹ thường nói: “Khéo vá vai, tài vá nách” mà nghĩ rằng: Nhất định cô gái này hiền thục, khéo léo, thuỷ chung, con nhà gia giáo có nền nếp căn cơ!...
Nhưng rất tiếc cô Hằng hồng nhan bạc phận. Cô bị mắc căn bệnh tràng nhạc. Những chuỗi hạch mọc và chạy đầy quanh cổ, nhức buốt. Cụ Lễ Đĩnh đón con gái về quê chăm sóc, phải bán mất hai mẫu ruộng để lấy tiền chạy thuốc. Cuối cùng, căn bệnh quái ác đã cướp Hằng khỏi cuộc đời giữa lúc xuân xanh, bỏ lại người chồng trẻ cùng đứa con gái thơ ngây…
Tưởng chuyện hai bộ tràng kỷ chỉ là câu chuyện làm quà. Nếu có sự gì thì anh em cũng phải có lời có tiếng thỏa thuận. Đằng này chưa ai kịp bàn bạc đổi chác gì... Không ngờ lợi dụng ông anh lươm lũ cả ngày ngoài sông múc bùn, Mãng đánh bài cho người khiêng luôn bộ tràng kỷ chấn song con tiện lại đằng nhà Lý Tấn. Sau đó khiêng luôn bộ tràng kỷ cuốn gỗ liền đằng nhà Lý Tấn về nhà mình. Sự đã rồi. Bà Hai giận lắm, lại nhà Mãng mắng: Chẳng ai như chú, giậu nhà tôi đang đổ, chú còn bắt ngọn bìm lên. Chúng tôi đã nói gì đâu mà chú dám... tát cạn bắt lấy! Mãng xun xoe cười trừ: Thôi, đường nào cũng là kỷ vật của các cụ. Nay con cháu các cụ được hưởng, em cũng vậy mà bác cũng vậy! Bác trai bảo em... Châu về Hợp Phố mà lị. Nghĩa là đồng ý thôi bác!
Thế là ông ta chiếm được bộ tràng kỷ chắc chắn ấy. Bộ chấn song con tiện chả mấy năm bị rệu rã, gẫy mộng, long từng bửng gỗ, không thể sửa chữa lại được! Các cô con gái hỏi ý kiến cha: Đã mất đất lại mất cả của gia bảo! Chúng con đến nhà ông Mãng khiêng bộ tràng kỷ nhà ta về thầy nhé! Chứ bộ này toàn những vết dao trẻ con băm chặt. Mộng mẹo hỏng hết cả rồi…
Ông xua tay: Không nên thế, mất tình cảm các con ạ! Nhiều vết băm chặt càng tốt. Đấy mới là sự có hậu… Của đi thay người. Mất của còn hơn mất lòng… Thôi, đã trót! Chú ấy dùng cũng như nhà mình dùng!...
Vốn yêu quí em gái nên bộ tràng kỷ chấn song con tiện kia ông không muốn đổi trả lại. Có nó ông như thấy lại hình bóng cô Hằng trong ngôi nhà thân yêu mà em mình từng lẫm chẫm lớn lên và ra đi! Vả lại, theo ông, tiền tài, của cải, danh vọng là tài sản đấy nhưng không bằng sự thanh thản của nhân tâm. Ông lại đọc: Phú quí vi phù vân. Cổ kim vị kiến thiên niên quốc...
Lý Tấn, cuộc đời một con người lầm lụi, mắc nợ với đất đai! Hay tại ông sinh nhằm vào tuổi Thân, dân gian thường nói: Thân biết thân, không bao giờ được yên trí mà sống trong an nhàn sung sướng chăng?
Bỏng tay ai người ấy giãy. Ngẫm vào thời buổi bây giờ mới thấy ông thật là người kiên trì chịu đựng, như người chẳng biết đau! Vết sẹo đã chai, mưa gió, giông bão, nước và lửa có đổ vào tưởng cũng như không! Giấc mộng đất đai tan thành mây khói. Nhưng khát vọng trồng cây vẫn thôi thúc ông.
Buông quyển sách xuống tràng kỷ, Lý Tấn ra lấy xà beng đào nửa chiếc sân gạch lên. Tự ông lại trộn vữa, dùng gạch be bờ, tạo thành một ô vườn nhỏ. Ông xúc bùn, chở đất đổ vào và tiếp tục trồng thuốc lào, ít luống rau gia vị và ít hoa cảnh. Ông vẫn muốn ngôi nhà cổ chan hòa bóng cây xanh và hương hoa trái.
Gà gáy, ông bà lại tất bật đi nhặt phân chó, phân trâu về ủ. Sớm nay, những sọt phân đã nặng trĩu quang gánh. Ông bà quay về. Qua đoạn đường Cầu Khế giữa đồng không mông quạnh, bà Hai đi trước suýt vấp lên một người nằm sóng soài ngang chỗ đoạn cống: Ối! Ai lại nằm đoàng đoàng thế này? Không một tiếng động. Lý Tấn đi sau vừa tới: Việc gì thế bà?
-Người… người nằm giữa đường… Ông vội hạ gánh phân, giơ đèn sát lại:
-Nhà cu Chèm bà ơi! Ông lay vai người nằm dưới đường. Bất động. Lạnh toát. Chỉ vùng ngực còn ấm: Giời ôi! Đi đâu mà say xỉn, mà khốn nạn thế này?
-Lại ăn đêm chứ còn đi đâu?
Hai người xúm vào nâng hắn, vực đến một tảng đá mé cống. Người Chèm mềm oặt, mồm sặc sụa hơi rượu, quần áo ướt trương. Chắc uống ở đâu về, say quá, đái cả ra quần! Nốc cho lắm vào. Không chết là may! Cái miệng làm khổ cái thân! Bệnh cũng từ miệng mà họa cũng từ miệng! Bà Hai nhổ bọt: Thôi! Mặc cha nó! Gánh phân về đã ông! Không khéo mó vào, nhỡ làm sao, làm phúc phải tội!
-Bà về trước đi! Để mặc tôi. Tôi dìu nó về nhà nó. Giữa đường gặp chuyện chẳng lành, mình không thể vô tâm!
-Ốc không mang nổi mình ốc còn mang cọc cho rêu. Một thân ông làm sao mà vực được con trâu trương? Rõ khổ! Đã trót thì tôi cũng ở lại với ông!
Hai ông bà loay hoay vực Chèm đứng dậy. Hắn ú ở không ra lời. Miệng nhơm nhớp những bọt dãi. Được vài bước, Chèm lại gục xuống, rũ như sợi bún. Say quá, hắn không bước nổi! Hay bà để tôi cõng?
-Không được đâu ông ơi! Nó đè sập ông xuống ấy chứ! À! Tôi nghĩ ra rồi!
-Sao? Hay bà về gọi người?
-Không cần! Thế này nhá! Đổ hết phân xuống vạ đường, lấy quang gánh vực nó lên, khiêng về!
-Ừ! Mẹo bà thế mà hay! Ta ghép hai đôi quang lại làm bàn khiêng!
Bà Hai trút phân ra vạ đường, đem quang xuống mương rửa sạch sẽ rồi lồng từng cặp một. Rồi người vực nâng tấm thân béo ú nặng trịch, người luồn quang vào dưới lưng hắn. Cuối cùng, toàn thân Chèm đã nằm trong bốn chiếc quang mây. Hai ông bà ghé vào lấy sức gồng lên vai. Hắn rên ư ử, đầu ngửa ra, hai cánh tay rơi thõng quệt xuống đường. Vợ chồng già khom lưng, cố khiêng Chèm qua quãng đồng vắng. Bóng họ ì ạch, mờ ảo dưới ánh rạng đông bắt đầu xòe những nan quạt trong màn sương sớm…
Trên mảnh đất của nhà Lý Tấn bị lấy ra, xã phân cho năm, sáu gia đình đến ở. Thay cho màu xanh cây cối, mùi hương hoa quả là chuồng phân chuồng lợn tạp nham, hôi thối. Họ đều là những người tự dưng “của đi tìm người”. Có người có đất có nhà hẳn hoi, nhưng phòng xa “người đẻ, đất không đẻ”, đánh bài đi xin lấy đất khác. Có người xin miếng làm vốn để đấy, sau bán lại kiếm lời... Họ ở trên mảnh đất trộn mồ hôi và khát vọng của ông, rồi chuyển nhượng, buôn bán ngay trước mặt người vừa gù lưng toét mắt đắp nên. Đến đây lập gia thất, những người được phân đất chẳng mất một đồng xu nhỏ, chẳng mất một thẻ hương cho linh hồn tổ tiên người vật đất.
Hàng ngày ra ngõ gặp họ, Lý Tấn cười mà như mếu. Đôi lúc họ cũng tỏ vẻ cảm thông, nói những lời đãi bôi để mong được nhà ông cho nhờ vả cây củi, ấm nước. Ông cũng chẳng tiếc ai. Tiếc làm gì. Tình người mới là đáng quý, ra trông thấy nhau vào trông thấy nhau. Nhưng cái cảm giác thấy cơn mưa là nghĩ tới ướt, gặp cơn giông là nghĩ tới cành gẫy cây đổ vẫn lởn vởn trong đầu ông. Khoảnh đất phía đông phân cho một gia đình liệt sĩ. Gia đình này ở ngoài cánh đồng thuộc diện di dời để xã thực hiện kế hoạch khoanh vùng, dồn điền đổi thửa “đưa HTX tiến lên cao cấp làm ăn lớn!”. Nhưng cảnh nghèo khó, anh em tản mát đây đó nơi bờ sông bãi sú làm ăn, chỉ có hai bố mẹ già ở nhà; họ không lo nổi việc di chuyển. Thêm nữa, bà mẹ lại phân vân. Bà than vãn với mọi người: “Chỗ đất này là ruộng sâu chuyên cấy rau cần, nhà tôi nghèo lấy đâu công của mà dâng đắp? Vả lại đây là đất cụ Lý. Cụ phải cật lực đổ mồ hôi trên dồn mồ hôi dưới. Tôi chẳng nỡ lòng nào lấy không...”! Và ông bà đã cương quyết không nhận miếng đất này. Sau đó, người ta cho một gia đình ở xóm khác đến ở. Nghĩ tiếc đứt ruột, bà Hai lại ôm mặt khóc hu hu trong đêm: Thần Phật, giời cao có thấy gì không ?
Thời ấy, chưa có hệ thống kênh mương thủy nông dẫn nước ngọt về đồng, sản xuất và đời sống của cư dân chỉ trông vào nước trời mưa xuống. Những canh hạn hán, cả làng thiếu nước uống, cả làng rủ nhau qua đò sang gánh nước từ các giếng thơi bên phố huyện. Đồng ruộng chiêm khê mùa úng, cấy đứng gặt ngồi. Làng xóm nghèo khó, rất ít nhà có bể, chủ yếu nhiều ang vại hứng nước mưa. Có người phải đi gạn từng ngụm nước từ những vũng trâu đằm ngoài mương cạn. Có năm tỉnh, huyện phải chở hàng chục chuyến xà lan nước ngọt bơm từ các giếng khu Hà Bắc về đậu ở bến Cống Đào, bến đò Bưởi, Cống Quỳnh để cấp cứu cho dân các làng đến gánh về dùng. Chỉ mấy nhà có bể để chứa nước mưa. Nhưng họ bán lấy tiền hoặc đổi gạo...
Cái bể xây chứa tới hai mươi khối nước của nhà Lý Tấn vào hàng lớn nhất làng. Dân làng lũ lượt đến xin mua nước. Nhưng ông bà chỉ giúp, cứu khát cho bao nhiêu người. Cô con gái nhà chủ tịch xã Ngô Thị Khiển cũng thập thò đầu ngõ nửa xấu hổ nửa muốn vào. Ông bảo bà Hai ra mở ngõ: Cháu cứ tự nhiên vào múc về dùng! Một ngụm khi khát bằng một bát khi đầy. Chớ ngại!
Năm Đinh Tỵ 1977, hạn hán lớn. Dân làng vùng Hà Yên chưa bao giờ thấy một cái hạn lớn như thế. Người ta phải đi vét cả những vụm nước đọng lại trong những húng chân trâu trên các cánh đồng, dưới các lòng sông cạn. Đây đó đàm tiếu: Năm con Rắn có khác! Cạn sạch cả nước nôi! Đói còn thắt lưng cho chặt, chứ khát thì sống dở chết dở. Khéo cả làng chết khát đến nơi!...
Giúp người quá trớn, đến lượt nhà không còn một giọt nước bể để dùng, anh em Tầm phải lên Cống Đào lấy nước xà lan. Mãi đến mồng Một tháng Bẩy âm lịch mới thấy những cây quéo tự nhiên nở bung trắng ngọn. Đến đêm thì trời đổ mưa như trút. Có mưa, xã viên HTX vội vàng cày cuốc, đem thóc giống ra gieo. Ruộng đất cày bừa sống sít, muộn vụ cấy. Song việc làm cứ làm, không biết có được gặt hay không? Nhưng may mắn, vụ mùa năm đó trời vẫn cho ăn!
Đám trai làng rủ nhau lũ lượt ra sông ra bãi kiếm sống. Minh Thảo, con trai thứ ba cũng đòi sắm thuyền nan ra mạn rừng Tiên Yên dấm cá bống. Bà Hai khuyên con: Làm sao làm được cái nghề ấy? Nhà mình xưa nay con cháu nhà chữ nghĩa, có ai thạo đơm cá bắt tôm đâu? Chợt nhói đau nhớ cái chết oan uổng của Quỳnh, bà dằn lòng lại khỏi ứa nước mắt: Thôi, ở nhà đi học tiếp con ạ! Thảo nhìn mẹ, quả quyết: Làm được mẹ ơi! Con sẽ có tiền mang về cho mẹ đong gạo. Chỉ để cho anh Tầm học là được rồi!
Bà Hai bồi hồi nhớ năm Thảo mười bốn tuổi, dịp nghỉ hè có người chủ thuyền đánh cá đến nhà xin mướn Thảo đi ở kéo chã. Chưa được chục ngày Thảo đã bỏ về mếu máo: U ơi! Ngoài Cô Tô, Long Châu biển to sóng lớn con chịu được sóng to gió lớn. Con kéo được dây chã… Thảo chìa hai bàn tay đầy nốt chai sẹo do dây chã cứa nham nhở: Nhưng họ toàn mắng chửi con địa chủ, phú nông… Đói thì đói, con cũng ở nhà với thầy u, với anh em con, chớ không đi ở nữa đâu! Bà Hai rơm rớm nước mắt: Rõ khổ! Thời hợp tác rồi chứ là thời nào mà chúng họ còn tuôn những lời độc địa vào con tôi như thế? Đấy, ông xem! Lý Tấn nhìn con, ngậm chặt miệng lại. Một lát bình tâm, ông mới thốt nên lời:
-Thôi ở nhà rau cháo có nhau. Anh em chúng mày chịu khó đập đất trồng trọt với thầy!
Lần ấy, Thảo như một con dê non nhớ đàn, đang ở đâu chợt chạy về. Anh em lại quây túm lấy nhau. Thảo mập khỏe, cao lớn thuộc dạng nhất nhà. Tính lại hiền lành, như con gái. Thảo có nhiều nét giống Quỳnh, mộc mạc như sá đất mới cày. Thảo học khá không kém bạn bè cùng trang lứa. Học về là buông sách theo các anh ra đồng, vừa mót lúa, mò cua, bắt cá vừa lẩm bẩm đọc bài. Thảo ít nói. Nói câu nào chắc câu ấy. Không biết dối dí với ai. Khi nói khi cười, một bên miệng lún sâu, méo xệch, giống một đồng tiền ấn lệch trên cái bánh xốp.
Lần này thấy con một mực đòi ra biển, ông bà đành sắm chiếc thuyền nan, hai trăm cái lờ bống và các vật dụng đi biển. Ông chẻ nứa đan một cái “vịt” đựng cá, chặt hai ống vầu làm phao bên hông “vịt”, neo sau lái thuyền cho Thảo. Đêm chia tay nằm bên em, Minh Tầm không sao chợp mắt, vì càng nghĩ càng thương thằng bé. Anh em bắt đầu như đàn chim xa nhau mỗi con một hướng bay đi tìm mồi... Tầm theo cha đưa Thảo ra bến sông. Chiếc thuyền nan tròng trành. Thảo kéo cánh buồm lên, vật lái rất thành thạo. Ông Lý Tấn thầm nghĩ: Thằng này được! Tự tin! Khi cánh buồm nâu nhỏ bé cùng bóng dáng Thảo khuất sau ghềnh đê, ông mới quay về, vừa bước vừa lau hai hàng nước mắt. Lòng ông tràn ngập nỗi buồn, chợt nhớ câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du: Buồn trông cửa bể chiều hôm. Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa...
Cũng như ông, tuổi thơ của anh em Minh Tầm gắn với hương lúa cùng những hạt cỏ may găm vạt áo quần, với đám ruộng trước nhà thả diều vào những buổi chiều nhạt nắng, Những tối giúp cha mẹ đập lúa, rũ rơm, chúng xếp những bó rơm thành đụn hang, chui vào nằm cuộn khoanh, cười đùa một lúc, rồi nằm im nghe tiếng vạc ăn đêm kêu từng giọt, từng giọt xa lắc về cuối trời và ngủ quên cơ nào không biết. Khi con gà trống gáy chao chát ngoài cây bưởi và mùi khói rơm mẹ đun bếp thổi cơm xộc vào mũi cay ngái, chúng ùa ngay dậy. Bà Hai đã rang xong mẻ cám gạo thơm phức và đóng sẵn vào ống bơ. Chúng gánh bó vó tép, đứa xách rổ, đứa buộc ống thính ngang lưng... theo nhau ra ngoài ngòi cất vó. Rồi những buổi đi câu cá rô, cá ngạnh, bao giờ Thảo cũng được nhiều hơn.
Suốt mùa hè sang hết mùa thu, Thảo vừa lội bãi đặt lờ dấm cá vừa vào chợ bán cá. Dấm cá bống là một nghề cực nhọc. Gặp con nước, dù nắng lửa mưa dầu cũng phải đày mặt chang chang ngoài bãi. Khi đánh bắt, đợi thủy triều dâng to ngập ngang thắt lưng, lội dọc bãi triều, lấy chân dũi ngầm dưới bùn thành một hố nhỏ, rồi đặt chiếc lờ bống vào đó. Trong chiếc lờ đã đặt sẵn miếng mồi là những con cà đa (giống như con cáy, nhưng to hơn và vỏ cứng hơn) soi từ đêm đem băm thành từng miếng nhỏ. Đặt lờ xong phải lấy cây cắm vè làm dấu để nhớ mốc. Đặt hết hai trăm chiếc lờ, người mệt phờ, rồi quay trở lại vớt lên là vừa. Những chú cá bống ham mồi đã chui vào lờ giãy tanh tách, chỉ việc dốc lờ đổ vào chiếc vịt dắt theo. Cứ thế quay đi quần lại một buổi đánh tới hai, ba lần… Cũng một bầy thuyền bống, riêng Thảo bao giờ cũng phát hiện ra bãi cá, đánh bắt được nhiều và sống cá tươi nguyên hơn hẳn mọi người. Vào bến giao cá, sản phẩm của Thảo thường hết trước.
Kiếm được đồng nào Thảo cũng góp gửi về cho mẹ đong gạo cứu đói. Tầm học được hết cấp ba, cũng chính là nhờ cả những hạt gạo đổi từ những cân cá bống do đứa em lặn lội ngoài bãi biển! Ma không thương người ốm, trộm đâu thương kẻ nghèo. Ban đêm, không biết ai đó mò đến đổ trộm chiếc vịt cá buộc dưới lái thuyền. Sáng ra nhấc chiếc vịt lên thấy nhẹ bẫng, Thảo bàng hoàng: Ôi! Cá đâu mất một nửa? Thảo rất buồn, chả lẽ lại chửi cả bầy thuyền trong đó có ông chú họ? Không nói câu nào, Thảo lẳng lặng đánh thuyền sang bãi khác...
Giữa chừng mùa cá bống, một cơn bão đêm bất ngờ ập đến. Bầy thuyền nan không kịp trở tay. Mọi người hò nhau cột thuyền vào gốc sú, buông chùng dây, chống chọi với sóng và gió mưa xối xả. Sóng đánh táp vào mặt, trùm cả bầy thuyền muốn kéo ra biển. Thuyền bị úp sấp. Thảo gồng mình đội thuyền lên, vừa quắp chân vào gốc sú vừa ngửa mặt để thở. Bụng đói cật rét. Suốt đêm ròng rã chịu bao nhiêu con sóng quật quã ầm ầm vào lườn thuyền, om cả đầu óc. Khi bớt gió, lật được ngửa thuyền lại mới tin mình còn sống.
Trận bão đó ở quê đổ sập nhiều nhà cửa. Bà Hai khóc cạn nước mắt. Cả nhà phấp phỏng đợi tin. Ông bà ra bến Cống Mang đi dọc bãi hỏi thăm. Mấy hôm liền bặt vô âm tín, không thấy bầy thuyền của Thảo về, tưởng chừng tuyệt vọng. Rồi bầy thuyền cuối cùng xuất hiện ngoài cửa sông. Thảo về. Chiếc thuyền nan tã tượi, tuột cả cạp và bục đằng mũi. Đặt vào tay mẹ những đồng tiền nhợt nhạt vì ngấm nước mặn, Thảo chỉ cười ngỏn nghẻn: Con về đây! Mẹ đừng lo! Ông Lý Tấn nhìn con từ đầu đến chân, bảo: Con dê này gặp bão mới nên người!
Sau chuyến đó ông nhất quyết: Từ nay thầy không cho đứa nào đi làm nghề sông biển nữa! Nỗi đau sông nước không thể lặp lại lần thứ hai!
Đầu năm Kỷ Mùi 1979, nước ngọt của công trình thủy nông hồ Lập Thành vượt sông Tranh bằng hệ thống ống xi phông sang đảo Hà Yên. Người dân lần đầu tiên trong đời được nhận dòng nước ngọt theo hệ thống kênh mương dẫn về các cánh đồng, về đến từng ngôi nhà. Nước ngọt từ rừng núi đã ngấm vào lòng đất, thau rửa những phèn chua, mặn lợ ở vùng đất vốn bị xâm mặn từ xa xưa. Ngày nước ngọt về đồng như một ngày hội hóa giải khát vọng bao đời. Dân làng hò nhau vây quanh miệng hai ống xi phông đẩy nước vọt lên. Họ giơ tay hứng làn nước tỏa xuống: Nước ngọt! Nước ngọt thật rồi! Đổi đời thật rồi bà con ơi!
Lý Tấn ra kênh máng đứng lặng hồi lâu: Đây đúng là cơn mưa từ lòng đất! Ông cúi xuống vục làn nước mát lên mặt. Mùi của đồi núi, hương của rừng cây, của muôn vàn mạch nước li ti từ ngàn năm lắng đọng trong làn nước ngọt thấm vào da thịt. Đang ngắm dòng nước trong vắt long lanh ánh cả vòm trời xanh thẳm, ông giật mình nghe tiếng ai đó hỏi: Có phải bác Lý Tấn không ạ?
Ông quay lại: Vâng! Tôi đây! Anh là ai lại biết tôi? Người đàn ông trạc bốn mươi tuổi tách đoàn cán bộ chắc là đi tham quan, khảo sát công trình, bước nhanh lại cầm tay ông: Cháu! Cháu đây! Thằng Báu đây! Bác không nhận ra cháu ư? Bác có khỏe không? Nom bác già nhiều quá!
-Bác vẫn khỏe! Sắp hết đời người rồi còn gì mà trẻ nữa cháu? Ông dừng trên gương mặt người cán bộ khá lâu: Bác chưa nhận ra cháu là ai!
Người cán bộ bỏ chiếc mũ lá ra, nắm chặt tay ông: Cháu đây! Thằng Báu con nhà Tổng Cương đây bác ạ!
-À! Thằng Báu! Bác nhớ ra rồi! Anh làm cán bộ tỉnh à?
-Dạ vâng! À không! Cháu là kỹ sư trên Bộ Thủy lợi, trong đoàn thiết kế công trình Thủy nông đem nước ngọt về quê ta đây ạ!
-Ôi! Vậy thì giỏi quá! Cháu bác giỏi quá! Đi học từ bao giờ mà giỏi thế?
-Dạ! Chuyện dài và cũng vất vả lắm bác ơi! Hôm nào rảnh cháu sẽ đến thăm và thưa chuyện. Còn hôm nay cháu rất mừng khi nhận ra bác!...
Báu là con trai thứ tư của ông Tổng Cương. Sau CCRĐ, gia đình Tổng Cương như tổ chim vỡ, tản mỗi người một nơi. Ngôi nhà gỗ cổ to đẹp thuộc hàng nhất nhì tổng Hà Yên bị tịch thu. Báu được chị gái lấy chồng trên Hà Nội về dắt em lên đó nuôi ăn học. Anh rể làm công tác tổ chức nhân sự trong Bộ Thủy lợi, biết em vợ học giỏi các môn tự nhiên nên đã tạo mọi điều kiện tranh thủ cấp trên và bảo lãnh lý lịch cho đi học trường đại học thủy lợi. Báu học giỏi, nên con đường học tập thật hanh thông. Đỗ đại học Thủy lợi, Báu trở thành kỹ sư chuyên thiết kế các công trình thủy lợi trên miền Bắc. Không ngờ anh lại được Bộ giao nhiệm vụ trong nhóm sáu kỹ sư vẽ đồ án, thiết kế và trực tiếp tham gia thi công công trình thủy nông hồ Lập Thành trên quê hương Quảng An của mình. Anh được dịp trở lại và đền đáp nơi sinh thành bằng thành quả khoa học đưa nước ngọt trên rừng thẳm núi cao về vùng đồng chua nước mặn mà hàng trăm năm nay cư dân nơi đây chưa thể dám nghĩ tới.
-May quá! Bác cháu mình có duyên nên mới được gặp nhau ở đây! Cũng là đại phúc, cháu ơi!
-Dạ! Thưa bác! Cũng nhờ làm cán bộ thiết kế thủy lợi mà trong một lần đến Hải Phòng, cháu đã tìm được tung tích ngôi nhà gỗ lim cổ của bố mẹ cháu…
-Vậy ư? Thế thì quí hóa quá! Nó lưu lạc ở đâu?
-Dạ. Ở Kiền Bái! Sau kháng chiến chống Mỹ, người ta đã bán ngôi nhà cho một người làng Kiền Bái-Thủy Nguyên. Chủ nhân lại là một anh nhà thơ, bạn cháu. Anh ấy kể bố anh mua được bên tổng Hà Yên. Đến đời mình, anh dỡ ra cất dựng lại. Cốt gỗ lim vẫn giữ nguyên. Cả bộ cuốn thư, câu đối cũng giữ nguyên... Đẹp lắm bác ạ! Cháu ngắm mãi, mê mẩn cả người. Cháu bảo anh nhà thơ: “Cảm ơn anh! Nhờ anh mà tôi được thấy lại hình bóng xưa của bố mẹ tôi…” Anh nhà thơ ngạc nhiên:
“Nghĩa là sao?” Cháu nói mà phát khóc: “Bạn ơi! Đây chính là ngôi nhà của bố mẹ tôi bị tịch thu trong Cải cách ruộng đất!”. Từ đó, thỉnh thoảng qua Hải Phòng, cháu lại tranh thủ ghé thăm, ngắm lại ngôi nhà cho đỡ nhớ…
Chuyện ngôi nhà cổ truyền sang ông Lý Tấn một cảm giác rưng rưng đầy tiếc nuối. Đây là ngôi nhà gỗ lim thuộc hạng to và đẹp nhất hàng tổng bị tịch thu làm nhà hội trường Thắng Lợi cho dân hội họp, rồi làm nhà “chiếu bóng”. Nó là một công trình nhà gỗ cổ thượng thặng với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc tinh xảo, thể hiện tính cách phong lưu, hào hoa của bác Tổng Cương. Dưới ngôi nhà ấy, ông cũng đã bao lần ngồi trên bộ tràng kỷ cùng chủ nhân và các bằng hữu đàm đạo văn chương, thế sự... Khóe mắt rớm lệ, nhìn xa xăm vào khoảng không cánh đồng, ông không khỏi chạnh lòng: Không biết chiếc tủ chè điển Mai Hạc của nhà mình lẫn chỗ nào trong thiên hạ? Quay lại Báu, giọng ông nghèn nghẹn trong tiếng nước chảy: Thôi! Được nhìn thấy thế cũng là tốt rồi cháu ạ! Phú quí phù vân. Tình người hoàng thổ…
Buổi sáng, chủ ý bảo Tầm mang theo hai chiếc vỏ chai đựng rượu, giờ nhớ ra, ông bảo con: Múc hai chai nước mang về cho thầy!
-Thầy làm gì ạ? Bõ bèn gì hai cái chai này?
-Thầy đặt lên bàn thờ để thắp hương Tiên tổ. Để báo cáo với các cụ nhà ta…
Chiều chiều Lý Tấn lại quẩy đôi thúng quét hắc ín gánh nước mang về tưới cho những luống rau trên thẻo vườn bé xíu còn lại. Màu xanh vươn lên tươi tỉnh như những mảnh vỡ của giấc mơ khiến ông mừng lắm. Múc từng gáo nước tưới cho cây, lắng nghe tiếng nước thấm xèo xèo dưới đất, lòng chạnh buồn tê tái, ông bảo bà Hai: Đây là một sự kiện chưa từng có của vùng Hà Yên mà xã hội đương thời làm được! Giá lúc này còn vườn đất mà tăng gia, trồng trọt, mà tưới tắm thì tốt biết bao bà nhỉ?
Tiếc thay, lúc chiếc đòn gánh và đôi thùng muôn thuở gác vào góc bếp thì tư liệu sản xuất không còn. Lúc nước đến với đất như một cuộc giao duyên vốn dĩ của tình yêu tạo hóa mà thời buổi dành cho, thì đất đã như một cô gái bị cướp sang sông. Lúc chính sách khoán sản phẩm đi vào cuộc sống nông nghiệp cũng là lúc sức vóc của ông sụp xuống như một bức tượng bị rút xương cốt. Người của đất rỏ máu cho đất còn đâu đất để lặn ngụp móc bùn, để ươm cây gieo hạt trên mảnh đất quê yêu dấu? Khát vọng xanh của ông chưa kịp thực hiện trọn vẹn thì dòng đời cứ thế cuốn trôi đi!
XIV- NỖI NIỀM CỦA ĐẤT AI HAY?
C ó điều lấy làm lạ, khó giải thích: Khi gia đình Phan Văn Nại, một cán bộ dưới xóm Chùa là con chú họ Phan Văn Chèm đến mảnh đất đầu ngõ ông Lý Tấn xây nhà dựng cửa, trú ngụ được vài năm, thì tự dưng anh ta chết vì bệnh ung thư. Tiếp theo, ba đứa con trai cũng lần lượt mắc bệnh hiểm mà ra đi. Một gia đình khác ở mảnh đất phía tây, vợ chồng đang làm ăn suôn sẻ, bỗng anh chồng nghe bạn bỏ đội thợ mộc đi lao động ở Malayxia theo đường “chui” cũng bị chết bất đắc kỳ tử, phải thiêu, đi máy bay mới mang được cốt về quê...
Trên khu đất này Phan Văn Chèm bắt các cụ lão thành đào một dãy hào sâu để ngăn cách vườn thuốc nam với cánh đồng, với nhà Lý Tấn. Bà Cu Vía trong xóm đi hái rau muống, đứa con gái năm tuổi theo sau. Đứa bé lẫm chẫm trên bở ruộng. Mẹ mải hái rau. Con gọt dưa ăn. Luống cuống thế nào quả dưa rơi, nó cúi nhặt bị ngã nằm úp sấp xuống bùn nước. Không ai biết. Khi có người đi qua phát hiện thì đứa bé đã chết tự lúc nào. Cả xóm toáng lên như vỡ chợ. Người làng chỗ nào cũng thấy xôn xao: Thật vô cùng đau đớn! Nếu vườn đất cụ Lý Tấn không bị tước đoạt, nếu tay Chèm không đào con hào này thì đứa bé gái ấy liệu có oan thân thiệt phận không?
Gần đây, cặp vợ chồng nhà Trẩm làm ngôi nhà mới trên cái ao cũ, trên mảnh đất có căn lều sinh thời Quỳnh hay ngủ canh vó cá ngày xưa… cũng mắc bệnh thối gan mà ra đi. Tiếp theo, thằng con mắc nghiện ma túy cũng ra đi nốt. Dư luận làng xã một thời gian đồn lên: Không biết những cái chết trùng và nối tang này do đâu? Do “động long mạch”, làm nhà “sát hướng”, “sát chủ” hay do tâm linh “người mất đất còn”?
Trước những gương liếp tai hoải ấy, có người nửa đêm thường dậy ra sân thắp hương lẳng lặng khấn vái lên trời, đăm đăm khẩn cầu che chở. Có người còn nằm mơ thấy khi một ông nông dân mặt mũi lấm lem bụi cát, lúc một cụ già giống như thổ địa chống gậy lên... đòi đất!
Trên đất ấy, cũng có người được thăng quan tiến chức. Họ như diều được gió bay lên. Đất đai ấy chẳng khác gì mâm cỗ đã bày sẵn, người đời chỉ việc đến ngồi! Đã có lúc Tầm đem nỗi niềm tâm sự với những người trẻ tuổi trong số họ, những mong ít nhất cũng giúp họ hiểu phần nào về cội rễ mảnh đất dưới chân họ không phải từ trên trời rơi xuống. Nhưng họ chỉ nghe lơ đãng như nghé con nghe tiếng đàn vẳng lên đâu đó. Lòng anh buồn vu vơ: Họ, một thứ sản phẩm thời mới chỉ việc khoanh đùi hưởng thụ, vô tâm với quá khứ, với thời kỳ bom đạn gian lao, với những xa xót của nông dân bao đời một nắng hai sương thì gốc gác đối với họ chỉ là gầu nước dội thoảng qua! Cho nên hiện tại, do một thời khiếm khuyết về giáo dục, về văn hóa cội nguồn, không ít người lớp trẻ tuổi ăn xổi ở thì, quay mặt với tiền nhân, với truyền thống, gốc gác quê hương, không thuộc lịch sử nước nhà, cũng đương nhiên thôi! Ngẫm cho cùng cũng không thể trách họ!
Không gian trước nhà Lý Tấn trước đây thoáng gió cánh đồng. Mở cửa ra là thấy lúa, thấy nắng mênh mang, thấy dải sương giăng xanh lơ tận làng Đông An, làng Hải Triều, làng Hương Hội xa xa, thấy mưa bay mờ ảo lẫn hương đồng mùa nào vị ấy. Mùa hạ, màu lúa chín ngợp chân mây. Mỗi khi sau mưa rào, cả một dàn đồng ca bè thanh bè trầm của các loài ếch nhái, côn trùng tấu lên tưởng chừng không muốn dứt. Mùa thu thơ thới những sợi tơ vàng óng ánh, lơ lửng. Sớm mai, lấp lánh nắng gieo bờ cỏ. Hoàng hôn, long bong tiếng cá đớp mồi ngoài ao. Tiếng cuốc kêu dóng dả, tiếng ếch điểm lộp độp bờ tre như nhịp chày giã gạo. Góc quê như một câu chuyện để kể…
Cánh đồng Hậu Hương ven làng Lụa là một thung lớn toàn ruộng “thượng đẳng điền”. Nơi đây ngày trước tập trung ruộng của các nhà giàu, các làng được chia và mua tậu trong các kỳ “đổ chương”. Sau cải cách ruộng đất, các ruộng này lấy chia cho bần cố nông, rồi tất cả đưa vào hợp tác xã. Do vậy, bỗng dưng ban đầu ruộng tốt của HTX Lụa Vân chủ yếu nằm ở đây. Đồng Hậu Hương cấy các giống lúa thơm trắng và ngon như: tám đồng, tám xoan, nếp cái hoa vàng... Ruộng dễ làm, dễ tát nước khi khô cạn và dễ rút khi mưa bão, úng lụt.
Chiến dịch khoanh vùng đổi khoảnh, đắp bờ kẻ thửa diễn ra. Để lấy thành tích phấn đấu trở thành HTX điển hình, dẫn đầu toàn huyện, tiến lên làm ăn lớn, đạt 5 tấn thóc một hec ta, Ban quản trị HTX Lụa Vân xung phong đem toàn bộ số ruộng tốt của cánh đồng Hậu Hương đổi cho HTX Lưu Thuợng, lấy ruộng thấp chua mặn vùng cánh đồng Bồ Nước nằm phía bắc làng Lụa. Với khẩu hiệu: “Quyết tâm cải tạo cánh đồng Bồ Nước thành cánh đồng Bồ Thóc!”, hàng vạn công lao động được huy động đào mương, đắp bờ vùng bờ thửa, tạo nên những thửa ruộng chiều ngang rộng 25 mét, chiều dài tùy theo địa thế. Người ra sức đạp năn cắt cỏ. Trâu gồng vai kéo cày kéo bừa. Máy bơm hoạt động sà sã. Thau chua rửa mặn. Cày sâu cuốc bẫm. Tăng cường nuôi lợn nuôi trâu lấy phân chuồng. Từng đoàn thuyền ra các rừng bãi cắt lá sú lá mắm mang về ủ phân xanh dận ruộng. Lúa giống mới chăng dây cấy thẳng hàng. Cuối cùng thì cánh đồng Bồ Thóc cũng hình thành và đơm những ruộng lúa sây bông.
Nhưng phương án trên sổ sách vẫn dần giảm sút vì công điểm và chi phí mỗi vụ một đội lên. Cân đối ngày công lao động vượt ngưỡng, chênh quá cao với sản lượng thóc thu được. Bình quân ăn chia tụt thấp. Đống rơm thì to. Thóc thì sụt mớn. Có vụ phải gặt lúa non để lấy thóc ăn chống đói… HTX Lưu Thượng nhận cánh đồng Hậu Hương, Thượng Đồng như vớ được vàng. Nhìn sang làng Lụa, cán bộ, xã viên Lưu Thượng mủm mỉm cười. Họ lập tức khai thác cánh đồng. Trước hết bán cho dân cuốc lớp đất màu phía trên đem về dâng vườn tược trồng cây. Bà Hai cũng ra xin mua được một ít gánh mang về đắp gốc những cây bười còn lại. Sau, HTX Lưu Thượng áp dụng phát triển thủ công nghiệp, san nền dựng lán xưởng, khai thác mỏ đất sét, đắp lò nung, mở cơ sở sản xuất gạch ngói mang tên “Lưu Thượng”. Sản phẩm của họ ra đời, đạt chất lượng cao, đã đi các nơi cung cấp vật liệu xây dựng cho dân chúng và các công trình trong huyện, trong tỉnh. Đời sống xã viên họ ngày một cải thiện. Lưu Thượng liên tục xây cất nhà hội trường, nhà trẻ, nhà mẫu giáo, nhà dân và mở mang đường sá, cầu cống, mua máy phát điện về thắp sáng...
Làng Lụa vẫn lẹt đẹt thuần nông! Vẫn nhiều nhà tranh vách đất. Đường làng vẫn ngày nắng gồ ghề; ngày mưa lầy lội; đây đó thành những chiếc thang khấp khểnh sống trâu. Tệ hơn, các cánh ruộng lúa làng Lụa ven Lưu Thương từ đó vụ nào cũng bị áp lốp, nhẹ bông. Nguyên nhân do chính khói lò gạch lò ngói theo hướng gió từng mùa táp vào mà há mồm, lép hạt. Sớm chiều, bữa cơm trong dân xóm vắng cả mùi xào nấu. Nhà nào có máu mặt mới dám sắm chiếc xe đạp Phượng Hoàng, Thống Nhất. Ông Ngàn trốn địch ngày xưa từng nằm trên bộ ván nhà Lý Tấn được trên phân phối giá rẻ cho một chiếc xe đạp Diaman. Không dám đem ra tập đi vì sợ ngã làm bong sơn, ông treo lên, lấy chiếu đắp kín. Thỉnh thoảng lại cầm chổi quét bụi, mở chiếu ra ngắm. Chiếc xe ngủ trong chiếu năm này qua năm khác như người đàn bà nằm cữ sợ gió.
Đến thời kỳ lò gạch lò ngói Lưu Thượng giải thể. Không gian cánh đồng Hậu Hương, Thượng Đồng lại từ từ đầy ngộn mộ phần thành hai, ba nghĩa địa san sát nom như một “thành phố Thiên cổ”. Nhưng đấy là nghĩa địa của làng Lưu Thượng lấn át, mở rộng ra xung quanh áp sát làng Lụa Vân. Còn làng Lụa Vân không có đất, phải lấy khu đượng Bà Mau để chôn người quá cố. Lâu năm, đượng Bà Mau thành nghĩa địa lớn, tựa một miếng da trâu tạp bạ vào cánh đồng Trại Tây. Khu mộ hung, huyệt đào chen chúc, chôn xuống, bới lên, chồng vết lên nhau. Bí đất, dân đánh liều đặt luôn mộ cải táng bên cạnh thành khu mộ cát; rồi nhảy ra khu miếu Nghè phía nam, khu đượng cổ Vườn Lau, Lò Ngói phía đông. Một chiếc đèn cù đất đai “vặt mũi đút miệng” chạy lùng quanh trong nhân gian làng Lụa.
Lại nói về khu đượng Bà Mau. Khu đượng này xưa vốn là vườn và nhà ở của gia đình Trần Tường, cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật cùng thời với Phùng Tuấn. Hòa bình lập lại, Trần Tường chuyển ra Cửa Ông làm việc ở bến phà Tài Xá. Còn bà cụ Mau mẹ Trần Tường ở lại một mình dưới túp nhà tranh vách đất. Trần Tường từng bế mẹ lên võng rước đi, nhưng bà cụ lại toài xuống nhất quyết không rời khỏi túp nhà “các cụ đã đẻ ra tao!”. Mảnh vườn rậm rạp cây cối như một góc rừng. Kẻ yếu bóng vía không dám vào.
Một đêm tháng chín sương sa mù mịt. Khu vườn đang ắng lặng bỗng ầm ĩ tiếng chó sủa vang động cả vào trong làng. Tiếng chó sủa mỗi lúc thêm dữ dội, lúc rít hồng hộc như tiếng hổ vồ mồi, lúc thét quằn quại như bị ai bóp cổ. Người làng ra ngõ hỏi nhau: Không biết trộm đạo hay có chuyện gì mà con chó bà cụ Mau sủa ghê thế? Tiếng chó vẫn oăng oẳng vột lên, phải đến quá nửa đêm mới thấy chìm lắng xuống. Sáng, đám thanh niên tò mò ra cánh đồng đến đượng bà Mau, vào vườn cây mới vỡ lẽ: Đêm qua, con chó vằn đánh nhau với con rắn hổ mang chúa. Hai con giao tranh quần nát cả những vạt cỏ, vạt rau muống từ trong vườn ra ngõ. Cuối cùng cả hai cùng chết quay lơ. Con rắn to bằng cây bắp cày bị cắn nát nhừ cổ và lưng nó gãy đứt làm đôi. Còn con chó vằn ngấm nọc độc của con rắn, chắc kịp chạy vào sân nên thấy nằm cứng đơ cạnh vại nước. Bà cụ Mau đang lúi húi đun bếp rạ nấu cơm, bình thường như không có chuyện gì xảy ra...
Mảnh đất cũ sát nhà Lý Tấn chen chúc những mái nhà, tường rào, cổng ngõ, chen chúc tiếng cãi cọ nhau tranh giành từng ly đất. Góc xóm quê bao đời thanh sạch ban mai dần dần nhuốm đủ thứ màu hoen ố, khô khốc và vô cảm. Cống rãnh ứ đọng, bế tắc. “Thượng đồng úng, hạ đồng khan”, nhà nọ kiêng kỵ, ngăn cấm nhà kia không cho nước chảy qua. Hàng đời nay nước như con rồng thông mạch, thoát xuôi ra cánh đồng, ra sông ngòi bỗng bị bẻ chảy ngược lại, gây úng ngập. Đất, hôm trước còn là của nhà mình, hôm sau đã là quyền của người ta! Hàng xóm thì nhiều nhà ích kỷ, ăn cháo đá bát. Giọt nước mái ngói rớt xuống, chúng họ cũng la lối, thắc mắc. Đông chiếm tây chiếm. Nay xê một tẹm giậu râm bụt. Mai dịch một tí đất vườn. Diện tích đất còn lại của nhà Lý Tấn mỗi ngày một bị gạn hụt đi. Ngôi nhà gỗ lim bao đời bị đẩy lùn xuống như một tòa tháp gạch cổ nằm dưới đáy ao.
Kế liền ngôi nhà gỗ cổ là căn nhà gạch nhỏ làm nhà bếp ở phía tây sân. Căn nhà chất đủ thứ: nào chạn bát, thùng trấu, vại cà, hũ mắm cáy; nào cối xay, cối giã gạo, rồi rơm rạ, củi khô, lá mục… dự trữ cho ông vua bếp nuôi ngọn lửa quanh năm. Mùa hè, anh em cu Tầm thường dậy sớm trước hết tranh thủ đun ấm nước pha trà cho cha, tiếp đun nồi cơm húi xuống đống tro, rồi nấu nồi cám lợn. Tầm hay dùng cành tre pheo nhỏ làm que đun bếp, ngồi xa với tay đẩy rơm vào lòng bếp cho đỡ rát mặt. Lắm lúc mồi rơm bén nhanh quả, bốc ngùn ngụt liếm sát lên mái nhà, liếm cả vào lông mày. Cậu vừa cời những mảng tro hồng rực ra cạnh nồi cơm, vừa dùng đôi đũa bếp như mái chèo nguấy nồi cám to đùng cho nhanh chín. Bà Hai thoăn thoắt bện một con bùi nhùi rơm quấn quanh nồi cơm, phủ kín lên cả chiếc vung cho ngọn lửa bén âm ỉ. Bà nhắc nhở con: Làm thế này cơm sẽ đượm nhiệt, chín rền hơn! Nấu bằng niêu đất thì phải đun dè chừng sao cho vừa lửa để niêu không nổ, cơm không bị cháy khê. Cái giống gạo tám nấu niêu đất trên lửa hồng rơm rạ ngon cơm, giòn cháy, mở vung ra cả xóm cùng thơm…
Mùa đông đứa nào cũng xí đun bếp, cũng muốn ngồi sát xoè bàn tay hơ ngọn lửa. Khói phả vào mắt cay xè, vẫn xán cạnh bếp vừa xụt xịt vừa ngoảnh mặt phẩy khói về phía khác. Con mèo cũng ngồi bên đám tro, đôi mắt lim dim, hai cánh mũi phập phồng thở khò khè như một ông già mắc chứng hen xuyễn. Có lúc ngọn lửa tạt ra, loáng cái đã lia mất một đoạn bộ ria cong. Ngửi thấy mùi rơm, mùi rau cám nóng nồng quen thuộc, lũ lợn đã lục rục gác mõm lên tấm gỗ cửa chuồng kêu eng éc. Đàn gà cũng mổ nhau chí choé cùng đàn vịt chạy ào ào xuống mặt ao. Bầy chim bồ câu xập xoè vỗ cánh, cất tiếng gù đùng đục trong dãy chuồng gỗ treo trên chái hồi dưới lùm cây… Không gian làng quê rộn rực trong tiếng bếp reo quyện những làn khói lam thật thanh bình…
Giáp Tết, trước ngày 23 tháng Chạp, cha con Tầm ra đồng lấy đất sét khô về giã trộn với bủi cám, nhào xâm xẩm nước cho dẻo, cho săn mịn, rồi nặn ba ông vua bếp mới để thay ba ông vua bếp cũ đã sứt mẻ, đen cháy vì tôi luyện trong lửa. Bà Hai mua ba con cá chép to bằng hai ngón tay về thả vào chậu thau nước. Sau một hồi tất bật nấu nướng, bà xếp cỗ lên chiếc mâm gỗ đã sờn mép cho ông thắp ba nén hương cắm vào đĩa xôi bốc hơi thơm nức. Ông lầm rầm khấn vái trước ba ông vua bếp, cầu tránh khỏi hoả hoạn, thiên tai, dịch bệnh, nhân khang vật thịnh, nhà cửa bình an... Liệu cơ, anh em Tầm mang cá chép ra bến sông Cổ Thành, thả phóng sinh. Con cá quẫy nhẹ một cái rồi biến mất vào lòng nước. Chắc là nó xuyên qua dòng sông quê ra Cống Đào, Cống Trộm, Cống Mang... Tầm thầm mong cho nó được ra tận ngoài sông Tranh, sông Vân Cừ và tận xa đâu nữa để cùng chúng bạn hoá rồng!
Xong các thủ tục cúng bái, cả nhà quây quần quanh mâm cỗ để thụ lộc. Tầm thường vừa ăn vừa ngắm nhìn ba cục đất còn tươi nguyên màu đất ruộng cày mà cha nặn rất khéo. Thường những lúc ấy, ông lại kể sự tích Vua Bếp cho cả nhà nghe cùng những lời giáo huấn: Vài ba năm phải đắp lại ba ông mới thay thế ba ông cũ. Đừng để ba ông sứt mẻ, vỡ nát, bắc cái nồi cái siêu lên nấu mới không đổ ngã. Để là cục đất, dô lên thành ông Bụt! Dù sao người ta cũng là Thần! Ngồi đun bếp, các con chớ khạc nhổ vào đấy! Tầm nghĩ: Hình như điều gì cha cũng biết và có sẵn trong bụng để răn dạy các con!
Căn nhà gạch nhỏ ấy không còn nữa. Nó mất đi cũng vì một lý do rất đỗi tin người của ông. Đợt xã thu đất, để giữ miếng đất sau ngôi nhà gỗ năm gian ăn liền với căn nhà này, bà Hai nhờ một ông chú họ sát bờ giậu nhận làm đất của bên ấy. Chú thím họ đã nhận và ươm rau khoai mấy năm liền. Khi yên cơ sự, ông Lý Tấn xin lại, tiếp tục trồng cây ăn quả. Nhưng mảnh vườn vẫn luôn bị hàng xóm dấm dúi nhổ bờ giậu lấn dần, thu hẹp lại. Lúc này lại xảy ra việc anh em thằng cháu nội của bác Đoàn Ngải cạnh nhà ông, do ăn ở va chạm, sinh mâu thuẫn, rồi dẫn đến đánh nhau.
-Thầy nghe chừng hai anh em chúng như hai con dê qua cầu. Các con sang can ngăn xem sao… Ông cho vợ chồng Minh Tầm gọi vợ chồng thằng em sang bàn bạc, ngỏ lòng giúp chúng: Tránh voi không hổ mặt nào. Nước gần thì tốt. Nhưng anh em thì nên ở xa nhau. Thôi các cháu cứ lấy miếng đất cùng căn “nhà con” của ông bà, chú thím mà ở tạm. Khi nào tìm được chỗ khác thì trả lại! -Chúng cháu xin đội ơn ông bà với chú thím! Hai đứa cúi đầu cảm kich.
Gia đình ông đã cứu được cảnh “gà cùng một mẹ đá nhau”.
Nhưng không ngờ hơn ba năm sau, vợ chồng thằng cháu này đã bí mật bán miếng đất và căn “nhà con” cho ông chú họ. Khi ông bà biết thì sự đã rồi! Vợ chồng nó đã bán lấy tiền thêm vào mua đất bên làng Lưu Thượng. Nghĩ giận cháu, lại vướng ông chú họ liền hè kẽ mái. Chả lẽ “mổ mèo lấy cá”? Ông đành chịu mất miếng đất có căn nhà bếp mang bao kỷ niệm đó.
Những đêm khó ngủ, ông nằm nghĩ miên man, day dứt, suy rộng ra: Có lẽ cho đến mai sau, câu ca “mượn đất ba năm mất nhà” vẫn luôn đúng với người đời, giữa người với người và cả giữa các quốc gia với quốc gia! Bờ cõi, chỉ sai một ly, sơ sểnh một tý là đi một đường một dặm! Rồi ông tự trách mình: Để mất đi đất đai, vườn tược như vậy, ta đã vô tình mang tội với tiền nhân?
Vợ chồng Cả Toan xây cất ngôi nhà mới trên xóm Bến đò Chiêm, mời mọi người thân thích trong gia ổ đến chia vui. Cả Toan là người khỏe mạnh, quả quyết, mạnh bạo. Ngay thuở bé đã tinh nghịch, làm “Tướng trẻ trâu”, khiến bọn con trai con gái trong làng rất phục. Ngày tết mồng Năm tháng Năm, cô cầm đầu toán trẻ trâu dàn quân, phất cờ lau chạy nhong nhong, reo hò ầm ĩ khắp cánh đồng. Cúng lễ xong, có lệnh của chị cả bọn trẻ mục đồng mới được phép ngồi trên bãi cỏ ăn cỗ… Bằng hữu ông Lý Tấn có ông lang Đặng, một danh y nổi tiếng trong vùng. Tình cảm giữa hai người thân thiết và lịch thiệp. Hai ông thường lui tới nhà nhau đàm đạo văn chương, hay đọc và bình những bài thơ Đường cổ. Ông lang Đặng có cả một bài diễn ca dài về thuốc Bắc, về những cây thuốc Nam quanh nhà. Thỉnh thoảng có thêm bạn, mọi người lại rải chiếu chơi tổ tôm. Họ ngồi chơi một cách bình thản, thanh tịnh và tao nhã như các vị tiên hiền thưởng thức một thú giải trí sang trọng. Ông gả Cả Toan cho con trai ông lang Đặng, trong lòng mong muốn con gái về nhà người ta sẽ có thể học và thêm nghề bốc thuốc cứu người bệnh tật. Nhưng thời thế như những đợt sóng thay đổi, vợ chồng Cả Toan không thực hiện được ý nguyện đó. Làm ruộng, buôn bán… đã từng bước giúp họ có bát ăn bát để. Vợ chồng tậu đất tậu nhà trên bến đò Chiêm. Thời bao cấp khó khăn, nghề “bám mích” đã góp phần cải thiện đời sống không chỉ riêng gia đình mà còn cho cả xóm và dân các nơi xung quanh. “Bám mích” là tiếng lóng người dân vùng sông nước gọi những người “leo tàu”, chuyên thông đồng với thuỷ thủ tàu lai dắt xà lan để lấy bớt lương thực, xi măng, hàng hóa của nhà nước, sẻ trộm xuống thuyền nan rồi tập kết về nhà bán lại. Đêm đêm, từng đoàn thuyền nan chực sẵn trong những vạt rừng sú vẹt ven sông. Khi có vệt đèn pin trên tàu quét tín hiệu lên trời và xuống sông, các thuyền này ào ra, quăng dây thừng ngoắc vào cột bích thành xà lan. Tiền trao cháo múc. Cầm bọc tiền không cần đếm, chủ tàu đổ hàng sang thuyền. Thuyền đầy mớn thì tháo dây… Một thời dân các làng xã ven sông sống nhờ lối làm ăn này qua bao năm mất mùa, đói kém. Biết bao tấn gạo mậu dịch, bột mỳ, mộc mạch, phân đạm u rê trên các xà lan sang mạn, phân tán vào hai bên bờ sông. Cán bộ các xã ven sông đi tuần bắt các vụ “bám mích” nhiều lần, sau không xuể, cũng đành làm ngơ. Do đời sống mỗi ngày một quá khó khăn, “mẻ cũng phải ăn”, nên họ thường trông vào đây để phục kích, ăn chặn và chia chác khẩu phần.
Cả Toan người đàn bà tính đàn ông, nóng như lửa. Dân bám mích phong cô là “Kình ngư của biển”. Cô từng túm đầu một thằng dân chơi rũ xuống chiếu bạc trong canh xóc đĩa, khi nó định ăn non ôm đám tiền bỏ chạy; từng tát vào mặt tay công an đường thuỷ khi tay này kiểm tra thuyền gạo mà cô vừa đánh từ xà lan. Tay công an còn đang giữ bọc tiền vừa tịch thu được của chủ tàu; cái tát của cô khiến bọc tiền rơi xuống sông. Bọc tiền liền bị cuốn vào chỗ nước xoáy. Toan lao xuống. Một lúc sau cô đã từ bãi sú cửa sông ôm bọc tiền bước lên đê… Đêm về Toan trằn trọc, không sao nhắm mắt: Người ta cũng khổ, mình cũng khổ. Người ta ghé tàu cho mình, mình mới có miếng... Chuyến sau đó, Toan hỏi thăm, chờ bằng được anh chủ tàu bị tịch thu tiền, ấn bọc tiền vào lòng anh ta: Chó không gặm xương chó!
Ngắm bao quát cơ ngơi của vợ chồng con gái cả nằm ven đê và nhìn ra xa cánh đồng trước mặt, dòng sông sau lưng, ông Lý Tấn dường như quên đi những cực nhọc, muộn phiền. Cảnh quê ven đê giống như bức tranh thôn mạc Tầm từng vẽ dở dang. Một bên nhà cửa nối dần vào nhau. Một bên bãi triều vươn xuống mép sông. Lỗ chỗ những doi đất mới dâng, doi cát mới đổ liếm ra mặt nước. Với tâm trạng phấn chấn, ông vào nhà con gái kéo tay anh Thới: Này cháu! Ra đây cậu bảo!
Thời gian đó Thới đang làm phó chủ tịch xã thì được trên điều lên làm cán bộ phòng Nông Nghiệp huyện. Hai cậu cháu ra khoảng đê trống. Ngoài mạn sông Tranh, trước mặt mênh mông dải rừng ngập mặn. Trong nội đồng, suốt từ tây sang đông các cánh đồng sắp vào vụ gặt, màu vàng dâng lên như mâm xôi gấc. Nếu không cách vệt sông ngòi và những thùng đấu sâu hoắm do người xưa lấy đất lên đắp đê, thì mâm xôi đầy ắp kia sẽ ngồn ngộn sát chân đê. Khoát hết một vòng tay, ông bảo Thới: Cháu thấy giang sơn quê mình có đẹp không?
-Đẹp thì có đẹp. Ngoài mẽ thế thôi, nhưng trong còn đói lắm cậu ạ!
-Đói thì cố mà bảo nhau làm giàu trên đất ông cha…
-Cháu chưa hiểu ý cậu. Bảo gì cháu, cậu nói thẳng ra đi! Thới xẵng giọng, vẻ khó chịu.
-Ừ! Thế này nhá! Cháu là cán bộ nông nghiệp huyện, cần quan tâm đến nông nghiệp đồng đất quê nhà. Cháu nên nghĩ đến việc “quân sư” cho cấp trên xây dựng vùng ta thành vựa lúa. Nhà dân trong các khu xóm làng kia, không nên để phát triển manh mún nữa. Mà nên giữ nguyên trạng các làng xã cổ, khuyến dân làm nhà ra vạ đê nước mặn ngoài phía sông thành các khu dân cư mới. Dân ở, cũng như loài ong xây tổ, họ sẽ lo bổn phận đắp điếm, bồi trúc cho nền nhà tức là bồi trúc cho thân đê to thêm để chắn sóng, chắn nước xói mòn. Làm như vậy, đê sẽ thành cái vành nong như bức tường thành vững chắc bảo vệ nội đồng. Còn nội đồng sẽ là một vựa lúa lớn, dân tha hồ cày cấy, trồng trọt, thẳng cánh cò bay. Mai kia sẽ đưa được cày máy như bên Liên Xô ấy… Sau này ăn nên làm ra, đường đê xây lát đá xanh hoặc đổ bê tông sẽ thành đường giao thông quanh đảo nối liền với các nơi… Thật là nhất cử lưỡng tiện…
Ông cậu đang hào hứng về những ý tưởng của mình, thì Thới cắt ngang: Vâng! Cháu biết rồi! Nhưng để dân ở, họ trồng cây cối chỉ tổ sinh ổ mối. Mối sẽ đùn lên hỏng ruột đê… chứ tích sự gì?…
-Ô… Đê vùng mình là đê nước mặn cửa biển, chứ có phải đê vùng nước ngọt sông Hồng đâu mà sợ có mối?
-Vâng! Hiện còn phải lo sao ăn chắc mặc bền đã bố ạ! Lương chúng con đây còm cõi ba cọc ba đồng. Bây giờ ôm thêm rơm là rặm bụng… Làm như cậu nghĩ thì lấy đâu ra tiền của, sức lực? Để đời sau bọn trẻ nó làm! Thôi vào uống rượu đã! Hơi đâu mà “cầm đèn chạy trước ô tô” với “dạy đĩ vén váy” hở cậu?!…
Lý Tấn chưng hửng, đành đứng lại một mình trên bờ đê. Ông lủi thủi bước thêm một quãng nữa, hít thở những làn gió đang tắt dần về cuối ghềnh đê.
XV- CHỮ NHẪN LÀ VÀNG
X uất thân từ nền nếp gia phong với bản năng cố hữu làm ăn, nên khi lỗi thời, ông Lý Tấn vẫn không thể nguôi quên việc nông gia. Cho đến lúc tuổi bẩy mươi ông vẫn thức khuya dậy sớm, vẫn ra đồng nhổ mạ lấy điểm, vẫn chân đất đi bộ đường xa. Ông lao động thực thà, không biết dối dí với ai. Có sao nói vậy, làm vậy, không gia giảm một ly một điểm. Nhiều người xung quanh vẫn thường cốt đánh dấu “gọng vó” dây máu ăn phần, lấy khống thóc của tập thể. Ông Vệ Lai đi làm cùng tổ Lão thành có hôm thấy ông vắng mặt, vẫn đánh “gọng vó” cho ông: Tội gì hả bác! Ai biết đấy là đâu! Lý Tấn vội xua tay:
-Cảm ơn chú! Đừng làm thế, mang tiếng! Tôi không nhận đâu! Chú cứ đánh dấu tôi nghỉ làm nghỉ hưởng! Có thế mới ngủ yên...
Thời vụ làm đông xuân, tiết trời giá rét, ngày gió bấc thổi vù vù, đêm sương sa như khói mờ mịt trên cánh đồng. Nhổ mạ xong, cha con lại vội vã chở thuyền và rải mạ ra ruộng để sớm mai xã viên kịp có mạ cấy. Đây đó xảy ra mất trộm mạ. Rét hại, lúa chết khá nhiều, xã viên cứ nơi nọ lại rình sang đồng nơi kia lấy trộm mạ đem về cấy. Cha con phải ra tận bờ mương, ngủ qua đêm để canh giữ. Chọn một chỗ bằng phẳng, ông rải một lần rơm khô, rồi rải tấm chiếu rách lên để nằm. Chỉ có chiếc chăn chiên, mấy cái bao tải gai đay đắp thêm và trên cùng phủ tấm chiếu nữa. Hai cha con chằng đầu mỗi người một chiếc khăn sợi cũ, bịt kín mặt, chỉ hở khóe mắt. Sương sa như nước mỏng. Một chốc sau, đầu tóc, mặt mũi lạnh ngắt. Tầm rờ tay, tấm chiếu đắp và ổ rơm đã ướt đầm đìa sương, chẳng khác gì vừa vớt dưới sông lên. Nằm ngửa giữa trời đất, hứng trọn cái giá rét vào người, tê buốt thấm tận tim gan. Giữa đồng không mông quạnh nhìn bầu trời, thấy lòng trời sâu thẳm, người mênh mang, mênh mang như đu võng. Giữa muôn vàn tiếng côn trùng, tiếng cá đớp mé mương, tiếng chuột rúc vạ cỏ, tiếng vạc bay qua, tiếng chó sủa trong làng xa đắm… con người sao bé nhỏ, thấp thủi lạ lùng… Nằm bên con, Lý Tấn chậm rãi tâm sự:
-Cuộc đời, cuối cùng ai cũng phải về với đất, ra cánh đồng nằm sương dãi gió dưới cỏ. Cỏ là cái chăn muôn thủa đắp cho người. Nên người ta mới gọi là ấm mộ. Tuy lúc ấy chả biết gì nữa, chả biết ấm lạnh thế nào… Giọng ông tự nhiên trầm hẳn xuống: Những đêm trông mạ lúa, còn được biết gió rét sương sa ngoài đồng, còn được nghe trời nghe đất như thế này, đúng là đời thầy còn may mắn! Năm xưa tưởng thầy chết giữa hai họng súng của thằng sếp Khương và ông Phùng Tuấn! Chỉ một tích tắc họ bấm cò là tong! Ăn hiền ở lành, đấy là lẽ sống của con người con ạ! Sinh ra ở đời, chẳng ai tránh khỏi giông bão. Giông bão chẳng chừa ai. Có điều ta phải biết vượt qua giông bão mới biết mình...
Tầm ôm chặt lấy cha. Hai cha con truyền hơi ấm cho nhau. Những lời ông thủ thỉ khiến Tầm chợt thấy tất cả những thanh âm, hình ảnh đêm đông xa gần như thể chuyển sang một cảm giác khác, tin yêu, ấm áp hơn! Tầm lặng yên lắng nghe, thẩm thấu, chắt lọc lấy mọi thứ…
Lê Văn Kiết trưởng thôn chúa chọn việc. Cứ việc nào dễ là anh ta lựa mọi cách để xí phần. Đang cuốc ruộng, đang xẻ đất đào mương ngon lành, gặp phải đám khó làm, Kiết liền giở bệnh đau bụng, lên bờ nhăn nhó. Nhiều lần như vậy hóa nhàm. Xã viên xì xầm kháo nhau: Lại đến giờ... “thấy tháng”! Đau bụng đau bão gì mà đẻ như vịt sòn sòn năm một! Đúng là cái tuồng “yếu đứng mạnh rèo”!
Kiết khôn ngoan như cáo. Để hằng năm được miễn trừ lao động công ích đắp đê, làm thủy lợi... gã biết tranh thủ mang cặp cá nướng, ổ trứng gà biếu bác sĩ để được cấp một tờ giấy “mắc bệnh đau bụng kinh niên, tránh lao động nặng”. Mụ vợ cũng vậy, chằng khăn bịt mặt cầm cữ quanh năm. Đứa lớn lò dò đứa bé đã thò ra. Năm nào vợ chồng gã cũng có giấy miễn “lao động nặng” hoàn toàn. Vụ nhổ mạ, gã lùa đám con đi sớm, xông thẳng vào giữa sào mạ nhổ xí phần. Được một đám để đấy, gã bảng lảng dạo đồng, nào dận dận đắp đắp bờ nậm, nào điểm mặt thợ mạ, đánh “gọng vó” thợ cấy… ra vẻ một cán bộ thôn tận tụy lắm. Mấy thằng con cũng láu cá không kém, cuốc ruộng thì một nhát đến tai hai nhát đến gáy; cân thóc giao nộp thì nhét nửa hòn gạch vào giữa bao. Bố đứng cầm cân nhập thóc trên sân kho làm bộ quát tháo đằng đằng sát khí. Khi chúng vác thóc đổ kho, đâu đấy, thủ kho mới phát hiện ra những hòn gạch thì sự đã rồi! Có bận thủ kho bắt được vật chứng, cầm hòn gạch lên dứ vào mặt gã: Cấm cãi nhá! Kiết liền quắc mắt: Có mà chú cầm sẵn đánh giâm! Chỉ bố láo! Thủ kho nghẹn đứng họng lắp bắp: Đồ cả vú lấp miệng…
Cha con ông Lý Tấn thường nhổ luống ngoài nhổ vào. Mạ luống ngoài to dảnh, dính bết đất rất khó nhổ, kéo gập lưng, dúi cả mặt, đập rễ sưng tấy cả hai đầu gối. Khi chuyển mạ, lại cấp tập gánh xuống bờ sông. Lừa lúc ông không để ý, Kiết du đám mạ của hắn sang lối mạ của ông. Vậy là bao nhiêu ông cũng thực thà gánh hết. Có lần phát hiện ra dấu lạt buộc không phải tay xoắn của mình, Tầm mách cha: Thầy ơi! Mấy bó mạ này không phải của nhà mình nhổ, mà của nhà anh Kiết lẫn sang... Giọng ông vẫn bình thường: Của ai cũng là hợp tác. Đội vào chợ, gánh cũng vào chợ. Chịu khó gánh cho thợ cấy kịp mạ con ạ! Kiết nghe tiếng, liền be cái giọng gắt như mắm tôm:
-Bố láo chi xiên! Ai thèm để lẫn! Định đổ thừa phỏng? Lý Tấn vội xua tay:
-Ấy chết! Tôi có nói gì đâu! Mạ nào tôi cũng gánh! Anh đừng chấp em nó!
Tầm ức lắm! Thằng cha này lông mày sâu róm chụm rậm vào nhau, bụng có lông, không trách hóm và đểu! Anh em nhà gã đều ruộc lông mày rậm ấy cả. Nhìn là biết không phải hạng tử tế! Là hàng con cháu mà dám hỗn láo với bậc cha bác. Chẳng gì nhà Tầm với nhà gã còn dây mơ rễ má, chị em đằng ngoại về đằng cụ nội. Về hàng, gã còn là liền em Tầm. Thời cha Tầm làm lý trưởng, bà nội và cha anh còn nuôi nấng, cưu mang cả người nhà gã. Nhà có việc có khách là cha chú gã được gọi sang giúp việc thổi nấu, gánh vác, có thêm bát cơm tấm áo…
Cũng trớ trêu thay, thời buổi gió đổi chiều, nhà gã lại phát về cái chức “thôn đội”. Thời cải cách ruộng đất, tay Bẩu, anh trai gã từng là một “chuỗi, rễ”. Sang thời HTX, chữ nghĩa ăn đong từ bình dân học vụ, cũng làm trưởng thôn. Bẩu dáng loắt choắt, miệng nhọn như miệng chuột chù, tiếng to như tiếng ễnh ương. Cộng thêm ổ anh em nhà gã chiếm tới non nửa cái thôn này. Dân chúng thường sợ kẻ to mồm. Khi họp bầu, bà con chỉ giơ tay cho xong việc. Đường nào thì nó cũng trúng! Nguyễn Y Vân! Vẫn Y Nguyên! Gạch đi nó vẫn trúng! Một lần đang họp đội sản xuất, bỗng có người mang vào cho Bẩu một xâu những chiếc lưỡi cào cỏ cải tiến kèm một tờ giấy. Hắn gỡ tờ giấy ra và cao hứng đọc ê a, nhưng giọng to ông ổng. Đấy là một bức thư ngắn hướng dẫn cách dùng cào cỏ lúa. Đến đoạn cuối, hắn đọc luôn một lèo: ký tên Lê Văn Đéo! Mẹ kiếp! Tên tuổi gì mà đểu thế? Cuộc họp bật lên cười như ong vỡ tổ. Một người lên xem kỹ: ký tên Lê Văn Đáo! Mắt mũi tèm hem, méo mó thì có! Thế mà cũng đòi đọc! Chỉ mỗi… cái bẹn vợ là không sai!
Hồi Tầm đang học lớp năm. Vào một buổi trưa Tầm và thằng Miềng hàng xóm đang chơi bi dưới mái ngõ thì nghe ngoài bờ ao cạnh vườn cam có tiếng “xì xì...” cùng tiếng kêu “kít kít...”. Nhìn ra ao thấy mụ Tá vợ Bẩu đang vừa xua vừa gọi bầy ngan cốm của nhà bên ấy. Chị ta lấy sành gạch ném xuống ao tùm tùm cho chúng sợ mà chạy vào bờ. Tưởng chuyện chỉ có thế. Ai ngờ chiều tối đi làm ở đâu về, tay Bẩu hùng hổ sang, kéo Tầm ra ngõ đánh đấm túi bụi:
-Ai bảo mày ném chết ngan nhà tao ngoài ao? Tầm chẳng hiểu gì cả, cố gắng chống cự, thoát ra khỏi tay hắn!
Chiều tối, ông bà Lý Tấn mới về. Tầm kể lại đầu đuôi. Ông gặng Tầm: Thế con có ném ngan người ta thật không? Dạ không! Tầm chạy đi gọi thằng Miềng sang làm chứng. Miềng nói: Chúng cháu chỉ ngồi chơi bi với nhau, không biết gì ạ! Sau mẹ Tầm sang nhà Bẩu hỏi, mụ Tá mới dấm dẳn khai: Con ngan bị chết, sợ nhà cháu nó đánh, nên cháu đổ liều cho chú ấy. Tưởng qua chuyện, ai ngờ sự thể lại như vậy... Thôi bà thông cảm!
Hồi cải cách, Bẩu vận động, xúi giục bà Hai đấu tố bà Cả bằng những lời bịa đặt: Bà cứ ra đấu! Tội gì! Đây là dịp kể khổ tố khổ. Bà cứ bảo nó cậy quyền vợ cả, nó không cho mẹ con bà đẻ lên nhà trên. Cậu cả nhà bà đỏ hỏn đã bị toét mắt vì khói bếp… Sau này khổ lắm đấy! Nhưng bà Hai trốn ra Cống Mang. Bẩu mách Đội Thẩm cho người tìm. Gà gáy, bà đã chèo thuyền ra Tuần Châu soi cáy. May quá gặp con nước giọt, mấy ngày liền bà mới về. Trong cảnh gia đình một chum hai gáo, không tránh khỏi những ghen tuông cùng những va chạm thường ngày. Bà Cả cũng từng có những đối xử coi thường, ganh ghét bà Hai, nhất là khi bà Hai đến lúc này đã sinh liền một lèo cho nhà Lý Tấn ba cậu con trai. Nhưng bà Hai đã giữ cho gia đình ông không bị nhúng vào chiếc nồi đang sôi trên bếp lửa của cuộc đấu tố, chia rẽ đó.
Ngồi trầm ngâm trên bộ tràng kỷ, ông Lý Tấn chỉ nhắc:
-Thôi! Chữ Nhẫn là vàng! Một câu nhịn chín câu lành. Đừng chấp kẻ tiểu nhân! “Rau má có họ”, tuy to xác thế nhưng chúng nó còn hàng em. Chúng bay bé mà hàng lớn. Làm anh khó lắm! Từ rày ra đường có kẻ nào nhổ bọt vào áo, chịu khó về nhà hãy lau!
Chuyện gì xảy ra trong xóm có bóng dáng anh em Tầm ở đấy là y rằng người ta nghi kỵ liên quan, đổ vấy “con nhà địa chủ”.
Một thời con nhà có máu mặt thường có mốt ăn chơi xe đạp Phượng Hoàng cánh chả, xe đạp Peugie cưỡi vi vu, đồng hồ Pônzôt, Senko đeo tay, bút máy Kim Tinh cài túi, mặc quần ống nứa, tóc chải đít vịt, miệng bịt răng vàng. Những tay này được liệt vào hàng phong lưu, cao bồi. Răng đẹp. Răng xấu. Răng đều. Răng sún… cũng trổ thêm chiếc răng vàng. Chiếc răng vàng làm cả hàm răng thêm vẻ sang ra. Các cô con gái cũng thường nhắm những anh có răng vàng.
Anh Ký Được làm kế toán HTX ngư nghiệp, nhà dưới xóm Trại Cau có chiếc răng cửa bị sâu cũng sang phố huyện trá một chiếc răng vàng. Vốn điển trai, lắp răng vào, khuôn mặt Ký Được càng thêm vẻ phong lưu. Từ đó anh rất hay cười. Mỗi khi cười, hai hàm răng trắng tinh chợt lóe lên ánh vàng chói. Một hôm đi ăn cưới. Cỗ cưới có đủ món thịt gà, thịt lợn, nem chua, chả nướng rất thơm ngon. Rượu vào nhời ra. Mải nhai, mải nói, Ký Được chẳng để ý… Vừa về đến nhà, chị vợ nhìn thấy hàm răng không lấp lánh như mọi ngày, liền hỏi: Răng vàng của anh đâu? Ký Được giật mình sờ lên miệng, vào soi gương: Bỏ mẹ! Đâu mất rồi? Hay rụng xuống chiếu? Hoặc dọc đường? Vợ đoán hỏi. Ký Được đơ mặt: Ơ… Rụng tôi phải biết chớ!
Ký Được liền chạy đến từng nhà có bạn ngồi uống rượu cùng chiếu. Ai cũng lắc đầu: Chả lẽ chúng tôi thò tay vặt miệng anh? Chả lẽ nó quyện với giò với thịt? À… Hay rơi ra, thằng Tầm con nhà Lý Tấn nó nhặt? Nó ngồi bên anh!
Ký Được tìm hỏi Tầm. Tầm cũng ngớ người, không biết. Anh ta nổi cáu: Chỉ có chú ngồi cạnh. Rơi ra chắc chú nhặt được? Chú hay đùa. Cho tao xin… Không! Em không biết gì mà!... Ông Lý Tấn buông quyển sách nho đang đọc xuống tràng kỷ: Nếu nhặt được thì em nó trả anh. Khéo nó lại trong cái “ông anh ruột” anh ấy chứ! Ký Được ngay mặt đáp: Anh cháu đi thuyền không có nhà! Tiên sư anh! Nom bóng bẩy thế mà lại hôm tâm. Anh ruột là trong cái ruột cái bụng anh ấy! Nghe chú, cứ chờ lúc nào đi đại tiện, anh rải lá chuối ra mà tìm…
Nhớ lời ông, anh ta bình tĩnh đợi… Hôm sau, buồn đi ị. Ký Được ra góc vườn cắt một tàu lá chuối to đặt xuống rồi ngồi xổm lên. Rặn. Đống phân lù lù như đống đụn. Ký Được lấy que, một tay bịt mũi, một tay tỉ mẩn bới. Một lúc sau, chiếc răng hiện ra vàng chóe. Anh ta cười sằng sặc: Ôi! Đây rồi! Cụ Lý Tấn thánh thật! Đúng là trong “ông anh ruột”! Vợ ơi! Suýt oan cho chú Tầm!
Bố Phan Văn Chèm lên thượng Thọ tám mươi. Bàn đi tính lại, anh chị em Chèm quyết định tổ chức lễ mừng Thượng Thọ gồm cả ăn tiệc và nghinh rước. Chèm đặt Tầm vẽ một bộ tranh trang trí. Vì thu nhập cho miếng cơm manh áo và cha bảo vì giữ tình cảm hài hòa với mọi người, Tầm cũng vui vẻ nhận việc để vẽ. Trong đó có một đôi câu đối. Hắn vào xin chữ ông Lý Tấn cẩn thận. Lục trong kho tàng Hán nôm, ông Lý Tấn tìm được một đôi hợp cảnh khá hay: Bát dật ban y xưng thượng thọ. Tam xuân hiến tửu lạc cao đường. (Tám mươi tuổi trời ban chiếc áo thượng thọ. Ba tháng xuân dâng tiệc rượu vui giữa nhà cao).
Tầm vẽ đôi câu đối đó theo lối viết thảo, chữ vàng trên nền đỏ tươi lồng hoa văn chìm rất đẹp, xung quanh chạy họa tiết triện “lan đằng”. Ngắm nghía đôi câu đối hồi lâu, hắn rất hài lòng. Ông Vạn Nhiệm bên phố huyện sang nhà Tầm chơi cũng tấm tắc khen: Đúng là cha con nhà văn hay chữ tốt! Nét chữ này là nét chữ người có hậu!
Nhưng trong buổi lễ mừng Thượng Thọ, mấy tay thầy cúng chữ nghĩa nửa mùa ngồi với bọn bợm rượu cố tình xuyên tạc, tán đểu, chọc tức Phan Văn Chèm. Chỉ bụng chơi xỏ Chèm, bọn họ vẫy Chèm đến bên mâm, trỏ vào đôi câu đối: Sao lại “Bát dật”? “Bát dật” có nghĩa là dậm dật, giành giật… Họ Phan nhà chú là chuyên đi giật giọng của người khác… “Tam xuân hiến tửu”, ba ngày xuân rót rượu, rót rượu ba ngày liền, nghĩa là mừng thọ xong cụ “Thượng” sẽ thành cụ “Hạ”. Cụ nhà ông được tưới rượu lên mộ ba ngày!... Động lòng ngu dốt, Chèm tím mặt, xé luôn đôi câu đối giấy đem đốt. Chả lẽ lão Lý Tấn chơi xỏ mình? Được! Cứ để đấy!
Trước đó, đêm túc trực mừng thọ, Chèm cột con lợn tạ ngoài bụi chuối để đến gà gáy chọc tiết. Trong nhà, trong sân rạp, khách khứa ra vào tấp nập, các bàn tổ tôm chắn cạ la liệt. Chỗ nào cũng mải mê, cắm cúi, nói cười vui vẻ. Bỗng một góc sân rạp nhốn nháo. Tất cả nhìn ra: con lợn tạ đứt dây trói đang xông vào sân rạp, chạy tung tung. Mấy tay gia nhân vội quẳng bài, hò nhau săn đuổi. Chắc do bị chói ánh đèn, nó lao như voi bổ làm bàn ghế xô đổ, cốc chén vỡ loảng xoảng, tung tóe. Một chốc thì trói được nó lại, cột vào chỗ cũ. Chèm đến tấm phản có bố đang nằm, lật chiếc chăn đơn lay gọi: Này cụ Thượng! Dậy! Dậy! Cụ Thượng đang thiu thiu ngủ, giật mình ngồi dậy dụi mắt: Hử? Đã sáng rồi hử?
-Sáng đâu mà sáng! Để mai có cỗ ăn mừng, mời cụ Thượng ra trông con lợn hộ chúng tôi!
-Trông lợn hử? Sao lại bắt tao trông lợn? Chèm gắt: Cả nhà đang bận tổ tôm chắn cạ. Cụ không trông thì ai trông? Hễ để nó xổng mất là toi luôn! Không thượng hạ gì sất!
-Rõ khổ! Đã bảo! Chỉ bày vẽ cỗ với chả bàn! Ông cụ đành lóp ngóp cắp tấm chiếu ra ngoài, rải cạnh bụi chuối trông con lợn…
Cuộc mừng thọ kéo dài ba ngày mới vãn. Xong việc, Chèm vào mắng vốn Lý Tấn. Mắt Chèm đỏ như mắt trâu bị cắt tiết: Ông… ông cho đôi câu đối ấy là… là chơi xỏ tôi! Thứ câu đối độc địa… Sau đây… mà bố tôi mệnh hệ gì… tôi bắt vạ ông! Lý Tấn sững người:
-Ô! Chữ nghĩa là chữ nghĩa. Nó vô tư như hạt ngô hạt lúa, chả xỏ xiên ai! Sao anh lại động lòng?
-Tôi… Tôi… bắt vạ ông!
Đàn bầu đem gẩy tai trâu! Không sao theo kịp miệng hắn để giải thích, ông đành ngậm đắng nuốt cay. Tự dưng lại mắc cái họa chữ nghĩa!
Năm qua tháng lại. Cụ thượng-bố Chèm sống ngót tuổi chín mươi. Mồ yên mả đẹp cho bố xong, Chèm tới xin lỗi Lý Tấn ký cốc: Dạ! Cháu đã vỡ ra cái dại của mình. Mong bác thông cảm! Lý Tấn cả cười:
-Cũng nhờ đôi câu đối ấy mà cha anh được trời gia hạn, kéo phúc thêm chục năm nữa đấy! Chung qui tất cả là do cái miệng người. Các thứ miệng người ăn vào thì không độc. Nhưng các thứ từ miệng người tuôn ra thì độc vô cùng!
-Vâng! Cháu hiểu! Mong cụ đại xá… Cháu biếu cụ lạng chè… Lý Tấn vội xua tay: Không, không! Cảm ơn bác! Cầm về đi! Lâu nay tôi chỉ uống chè vối. Nhà tôi còn nhiều chè tiếp khách! Chỉ mong bác nhớ cho điều này: Tâm thanh thì vô sự! Mọi sự do lòng người suy diễn, tự vận vào mình. Chứ chữ nghĩa nó là cái hoa tự thơm trong thiên hạ, chả biết trêu ai!
…....... CÒN TIẾP