H ơn một tuần nay…cứ mỗi buổi chiều vào một giờ nhất định; khi mặt trời vừa chếch về hướng Tây còn nắng thì lùi dần ở lại phía sau lưng…
…Người đàn ông xuất hiện và ngồi đó, ở một chổ nhất định trên một chiếc ghế đá cũng nhất định; trong công viên dưới bóng mát của cây Bằng Lăng có những chùm hoa mỏng manh mang màu tím thanh khiết, một sắc màu làm cho tâm hồn người ta rất dễ bâng khuâng xao xuyến mỗi khi nhìn vào. Có lẽ người đàn ông đó đang mang trong lòng những nỗi niềm xao xuyến vì đôi mắt ông ta luôn đượm một vẻ u buồn với cái nhìn xa xăm, thường ngước lên cao và đậu lại rất lâu trên những cánh hoa Bằng Lăng màu tím ấy…nếu không muốn nói quá đi một chút thì hình như là ông ta đang khóc bởi vì thỉnh thoảng ông ta lại đưa tay lên quệt ngang đôi mắt của mình.
Dáng người dong dõng cao, số tuổi thì thật là khó mà đoán cho đúng, tuy áo quần ông ta mặc trên người hơi nhếch nhác luộm thuộm nhưng vẫn có một vẻ gì đó thật “bụi bụi”, hơi lãng mạn và che dấu bên trong một tâm hồn dạt dào như sóng vỗ, khuôn mặt gầy đen nhưng từng nét ở trên đó lại rất hài hòa cân đối, nổi bật nhất là đôi mắt…đôi mắt sâu thẳm ẩn chứa một nỗi buồn vời vợi.
Sự đều đặn vào mỗi buổi chiều của ông ta đã làm cho tôi phải chú ý; đến nổi nó đã trở nên quen thuộc và gần gủi. Bây giờ thì tôi đâm ra thích chờ đợi và thường đưa mắt nhìn về phía chiếc ghế đá ấy để rồi lòng chợt vui mỗi khi thấy ông ta ngồi vào đó. Nắng chiều chiếu sau lưng người đàn ông cô độc làm bóng ông ta ngã dài theo bóng nắng. Tôi tò mò săm soi để đoán xem trên nét mặt và trong đôi mắt của ông ta đang ẩn chứa điều gì…nhưng hầu như tôi luôn thất bại bởi vì ngoài cái nhìn chan chứa một nỗi buồn khó tả; thì hầu như ông ta không biểu lộ gì thêm.
Mỗi buổi chiều tôi vẫn thường ra công viên này để tập thể dục theo lời dặn dò của bác sĩ vì căn bệnh viêm khớp của tôi mặc dù tôi còn khá trẻ, nhưng mà bịnh hoạn có chê ai bao giờ? Và tôi đã chú ý đến người đàn ông này một cách rất tình cờ khi ông ta như một cái đồng hồ chạy đúng giờ...Nhìn sự cô độc của ông ta và đôi mắt mang nặng một nỗi buồn sâu lắng…tôi rất muốn đào xới tâm hồn của người đàn ông này để biết có gì đang ở trong đó? điều này cũng thật là vui vì tôi có thể thoát khỏi sự nhàm chán đôi chút khi sự đau nhức luôn hành hạ mình.
Tôi đến bên cạnh “người đàn ông buồn” và mời ông ta một điếu thuốc lá làm quen, hai chúng tôi cùng gật đầu chào nhau để bước qua cái hàng rào vô hình của sự xa lạ, thấy tôi có vẻ muốn ngồi xuống chổ trống còn lại, ông ta nhích người ra sát bìa ghế, lấy túi xách đặt trên đùi, tôi là người lên tiếng trước:
- Chiều nào cũng thấy anh ngồi đây…hình như anh đang chờ đợi ai thì phải?
Ông ta nghiêng đầu nhã khói thuốc cho bay xuôi theo chiều gió và trả lời cộc lốc:
- Vâng…
Tự nhiên tôi lì lợm một cách bất lịch sự khi cố hỏi tiếp:
- Nhiều ngày rồi…sao người ta không tới?
- Thế nào cũng gặp được…nếu chịu khó kiên trì.
Tôi nhìn bâng quơ lên ngọn cây Bằng Lăng có những hoa màu tím để tìm cách kéo dài câu chuyện:
- Màu tím của hoa Bằng Lăng đẹp quá…nó thật là thanh khiết…anh có thấy thế không?
Một cái gật đầu và câu trả lời cụt ngủn:
- Vâng…đẹp.
Tự nhiên tôi cảm thấy vui với sự lì lợm rất cố ý của mình:
- Hình như anh đang có tâm sự gì…nặng nề lắm thì phải?
Ông ta không trả lời mà ngữa mặt nhã cho khói thuốc bay lên cao, đôi mắt lơ đãng nhìn theo từng vòng khói tròn điệu nghệ tan dần trong không khí, tôi lại ra sức lì lợm đến nổi thật đáng ghét:
- Có tâm sự gì thì nói hết ra cho nhẹ lòng anh ạ…
Ông ta quay qua nhìn tôi với một nụ cười có vẻ châm biếm:
- Hình như anh thích làm phiền người khác lắm thì phải? Anh hỏi tôi hơi nhiều đó nhé.
Tôi cười và nói nịnh một câu:
- Đôi mắt anh thật đặc biệt, chính nó đã lôi cuốn làm cho tôi tò mò muốn biết đôi chút nỗi niềm tâm sự của anh.
Ông ta bỗng trầm ngâm cúi xuống nhìn đôi bàn chân của mình, những ngón chân co lại rồi duỗi ra, có vẻ như ông ta đang lưỡng lự nữa muốn nói, nữa lại không. Đang lúc ông ta định cất tiếng thì đứa con trai của tôi chạy đến níu tay tôi thúc hối:
- Mẹ biểu con đi kêu cha về ăn cơm…ông nội chờ…
Tôi đứng lên cố ý cười chào một cách thân thiện với người đàn ông cô đơn ngồi trên ghế đá trong công viên khi chiều sắp tắt nắng…không hiểu sao tôi lại lì lợm để nài nỉ thêm một lần nữa:
- Chiều mai nếu còn gặp lại anh…hy vọng được nghe anh kể chuyện.
Ông ta hơi nhếch miệng gởi cho tôi một nụ cười nữa mỉa mai, nữa như là muốn chế nhạo sự “cố lì” của tôi. Tôi cảm thấy hơi xấu hổ cho chính mình và tôi cũng không hiểu tại sao mình lại kèo nài một cách bất lịch sự đến như vậy.
Chiều nay tôi nôn nóng ra công viên sớm hơn mọi ngày, lòng hơi thất vọng vì không thấy ông ta ở đó; tôi ngồi xuống chiếc ghế đá mà ông ta thường ngồi, mặt trời chênh chếch phía sau rọi sức nóng vào lưng tôi; cũng may mà có bóng cây Bằng Lăng che bớt đi một nữa.
Hầu như tôi muốn reo lên mừng rỡ khi thấy người đàn ông ấy đang tiến tới gần chiếc ghế đá quen thuộc của ông ta mà tôi đã ngồi choán gần hết phân nữa. Tôi nhích ra phía bìa ghế chừa một khoảng rộng cho ông ta và mỉm cười chào:
- Gặp anh mừng quá, tôi cứ tưởng hôm nay anh không đến.
Lần này ông ta nói nhiều và có vẻ thân thiện hơn một chút:
-Phải đến chứ…vì chưa xong việc nên tôi còn phải đến…bao giờ xong việc thì tôi sẽ không đến ngồi ở đây mỗi buổi chiều…như anh thấy. Mà tại sao anh lại muốn biết chuyện của tôi quá vậy?
Khi hỏi câu này đôi mắt của ông ta nhìn xoáy vào mắt tôi làm tôi hơi ngượng, tôi thành thật trả lời:
- Tôi cũng không hiểu tại sao…nhưng ở nơi anh có điều gì đó lôi cuốn làm tôi đâm ra tò mò…rất ít khi tôi lại kì cục như thế này…nều không biết được chút xíu gì đó về tâm sự của anh thì có lẽ tôi sẽ ấm ức lắm.
Tôi chìa gói thuốc là hiệu Con Mèo mời ông ta, người đàn ông không khách sao rút lấy một điếu, nhếch miệng cười khẩy:
- Bao thuốc lá nào cũng cảnh báo sự nguy hại của thuốc lá vậy mà người ta cứ ưa vừa nhã khói vừa đọc hàng chử in trên đó…cuộc đời và con người thật khó hiểu quá. Mà thôi…tôi sẽ kể cho anh nghe chuyện của tôi…chuyện “tại sao tôi buồn”?...
…Chuyện không có gì là gay cấn hay li kì hấp dẫn, cũng chẵng dài dòng cho lắm nhưng mà…nó lại đeo theo tôi đến nặng nề cả cõi lòng…
Ông ta hắng giọng, nhã mấy vòng khói thuốc rồi ngữa cổ nhìn lên những đám mây đang trôi lờ lững trên trời, sau đó cúi xuống nhìn bâng quơ hai bàn chân có những ngón đen thui của mình…lần này thì ông ta chậm rãi, buồn rầu kể chuyện của mình cho tôi (đang rất sốt ruột) nghe:
- Chuyện xảy ra cách đây cũng hơn mười năm…
…Lúc đó tôi ba mươi hai tuổi, sự nghiệp đang trên con đường đi lên, tình duyên thì cũng đang tươi đẹp…ai nào ngờ một bữa kia vì bất cẩn nên tôi bị tai nạn tưởng có thể chết, nhưng may mắn thay lúc đó có một ông già đã kịp thời cứu thoát tôi…điều oan trái là vì cứu tôi mà bác ấy phải chết, dù các bác sĩ đã cố gắng hết sức mà vẫn không thể cứu sống bác ấy được, trước khi chết bác ấy trối trăng lại cho tôi là nhờ tôi chăm sóc cho cô con gái duy nhất của bác…bởi vì gia đình bác không còn ai ngoài hai cha con…Anh có biết Ơn Cứu Mạng nặng tình nặng nghĩa biết bao nhiêu không? và Lời Thề Hứa nó trói buộc tâm tư lẫn cuộc đời con người ta cứng ngắt đến ngộp thở như thế nào không?...tôi đang chính là con người ấy…
…Sau đó thì người yêu của tôi không chịu đựng được sự “lằng nhằng” ở nơi tôi nên nàng nhất định chia tay và nói là sẽ đi lấy chồng, còn cô con gái của ân nhân cứu mạng tôi thì cương quyết đòi làm vợ tôi…đành vậy chứ biết sao bây giờ? một lời thề với ân nhân cứu mạng - là người đã cho mình được sống lại thêm lần nữa - đó chính là món nợ nghĩa tình mà tôi phải trả suốt cuộc đời còn lại của mình…Anh ạ…sao mà nó lại nặng nề đến vậy?...
…Vợ tôi…nói thế nào đây nhỉ? Cô ấy hơi “tưng tưng và ương bướng”…nên khi sự chịu đựng của tôi đã vượt quá vạch mức mà tôi có thể chịu được thì tôi đã lớn tiếng với cô ta, đến nổi tát cho cô ta một cái thật mạnh…ấy thế là cô ta bỏ nhà đi bụi…Tôi đã phải gát hết mọi công việc để đi tìm “vợ” vì tôi luôn bị ám ảnh bởi ánh mắt đau đớn, tha thiết của “cha vợ” trước khi ông ấy nhắm mắt và lời trăn trối gởi gấm cô ta lại cho tôi, cùng với câu thề hứa của tôi nữa…đã hứa thì phải giử lời.
Có người cho tôi biết cô ta thường hay lang thang đến đây vào lúc chiều tối…thế nên tôi mới ra đây ngồi chờ. Mỗi ngày tôi chỉ làm việc một buổi sáng còn buổi chiều thì tới đây, công việc gì à?...thì cũng chỉ là đi làm thuê làm mướn tạm thời…Hạnh phúc là thứ gì đó rất xa lạ đối với tôi…
Ông ta vỗ vỗ vào bên ngực trái nơi có trái tim mình với một vẻ thảm não thế nào ấy, cữ chỉ này làm cho tôi cảm thấy mình có lỗi vì đã cố ý khơi mạch sầu trong tâm hồn của ông ta. Câu chuyện ông ta kể cho tôi nghe không lưu loát trơn tru; vì có những lúc ông ngừng lại nhã khói thuốc và nhìn lên trời, có lúc lại đăm chiêu nhìn màu tím của hoa Bằng Lăng…Tôi chì biết ngồi im lặng để chờ đợi và lắng nghe, hình như sự nặng nề trong trái tim ông ta đã lây sang tôi hay sao ấy; nên nó làm cho tôi cảm thấy vừa xót xa vừa ngộp thở, tôi cũng nhã từng vòng khói thuốc như ông ta và lại nghe một tiếng cười khẩy kèm theo câu nói:
- Biết rằng hút thuốc lá có hại cho sức khỏe mà người ta vẫn cứ say mê hút…biết rằng trái tim mình bị cột chặt bởi ân nghĩa làm cho nặng nề mệt mỏi ấy thế mà cũng cứ ráng…đeo vào…không sao cởi ra được.
Tôi nói một câu triết lý có lẽ là vô duyên lắm:
- Hình như đó chính là cái “Thú đau thương” trong mỗi con người của chúng ta…
Ông ta nhướng đôi lông mày lên và thở dài:
-Thú gì nổi hả anh?...khi đó là một món nợ mà tôi phải trả hoài không bao giờ hết…có hết chăng là khi tôi chết đi.
Tôi lơ đãng nhìn quanh công viên, chiều sắp tắt nắng nên người đến khá đông, những chiếc ghế đá không còn chổ trống…riêng trên chiếc ghế đá này có hai người đàn ông đang trĩu nặng một nỗi buồn, tâm tư người đàn ông này đã lây sang tôi rồi…một người buồn thật sự và một người…buồn “ăn theo”. Ừ nhỉ; nếu như tôi cũng mang nặng món nợ ơn nghĩa với ông bố nhưng lại phải trả cho người con gái…tưng tưng ương bướng…thì có lẽ tôi cũng sẽ mệt mỏi và buồn ghê lắm…
Chúng tôi im lặng nhìn chiều xuống chầm chậm ở sau lưng, bóng cây Bằng Lăng trải dài đến tận phía bên kia đường…
- Cha ơi về nhà…mẹ nói con ra đây kiếm cha…
Đứa con trai nhỏ của tôi chạy đến bên tôi, người đàn ông vuốt tóc nó và nói:
- Anh thật là hạnh phúc.
Tôi đứng lên nắm tay con trai mình và chỉ qua bên kia đường:
- Nhà tôi ở bên đó…nơi có cánh cửa sắt màu xanh, phía bên trong là tiệm tạp hóa của vợ tôi…
Ông ta gật đầu nhìn theo tay tôi chỉ, hai chúng tôi chào nhau mà không hẹn ngày gặp lại, cũng không hỏi tên của nhau, thật buồn cười hết sức…
Đã mấy buổi chiều nay tôi không thấy người đàn ông “buồn” đến đây, ngồi trên chiếc ghế đá quen thuộc trong công viên này mà chờ đợi…tôi có hơi bâng khuâng một chút, bồi hồi một chút nhưng rồi mọi thứ đều trở về với vị trí củ của nó; cả con người lẫn tâm tư tình cảm…có lẽ ông ta đã làm xong cái việc cần phải làm.
Câu chuyện của người đàn ông ấy chỉ ở lại trong đầu tôi chừng vài ngày, có nghĩa là tâm tư của tôi chỉ bồi hồi theo ông ta chừng đó ngày mà thôi và rồi nó đã đi vào quên lãng.
Ngày tháng trôi qua nhanh quá, vèo một cái hết mùa Hạ, vụt một cái qua mùa Thu, rồi vút một cái là cuối mùa Đông, trời đang chuẩn bị vào Xuân nên thời tiết thật dễ chịu…mọi thứ đều hiu hiu…như là trời hiu hiu nắng, gió hiu hiu thổi và không khí thì hiu hiu mát…tất cả những thứ “hiu hiu” này đã làm cho tâm hồn con người đâm ra…tự nhiên phơi phới. Tôi cũng “hiu hiu” yêu đời nên bất chợt có hứng thú là muốn làm một chuyến du Xuân sớm trước khi Xuân thực sự về. Tôi bàn với vợ (nói đúng hơn là tôi “xin phép” vợ):
- Anh muốn xách xe máy đi xa một chuyến cho đầu óc được thoải mái, sau đó về nhà phụ với em dọn dẹp chưng bày nhà cửa để đón Tết, em đồng ý chứ nhỉ?
Vợ tôi cười:
- Thì anh cứ đi theo ý thích của anh, miễn là đừng có theo cô nào đó để rồi “quên mất đường về”…thì em buồn lắm.
Tôi nịnh vợ:
- Còn có cô nào bằng được cô vợ này? Ngu sao mà đi với…ai…
Vợ tôi nguýt yêu tôi một cái thật dễ thương. Thế là tôi bèn “khăn gói quả mướp” để lên đường, nhưng trước khi đi phải coi lại con “tuấn mã bằng sắt” cho thật ngon lành. Tôi có một cái dở là ưa bị say xe nên mỗi khi muốn đi chơi xa thì chỉ đi được bằng xe gắn máy, đã thế lại có tánh ưa “ta bà” ngao du sơn thủy…may mắn thay là tôi lại có một người vợ biết thông cảm với ý thích của chồng nên nàng đã dành dụm được một số tiền đủ cho tôi mua một chiếc Môtô rất ưng ý để đi chơi xa.
Buổi sáng trước khi leo lên xe làm một chuyến “đường trường xa”…vợ tôi hỏi:
- Anh định đi những đâu? Và đi bao nhiêu ngày?
Tôi cười vuốt má đứa con gái nhỏ và trả lời vợ:
- Chưa biết được…
Vợ tôi nguýt một cái:
- Anh…lúc nào cũng vậy, mau mà về với mẹ con em đó.
…
Ngồi trên lưng “con ngựa sắt” máy nổ êm như ru, tôi ngữa cổ đón làn gió mát thổi vào mặt nhưng lại quên mất rằng mình đang đội nón bảo hiễm có tấm chắn bằng mica nên chẳng có ngọn gió nào lọt được vào mặt tôi…lòng không định hướng thế nên tôi cứ “phom phom” cho xe chạy trên “đường trường xa”, khi đến ngã ba Dầu Giây tôi rẽ trái và nhủ thầm “thôi thì lên Đà Lạt ngắm hoa Anh Đào vậy, mùa này hoa Anh đào đang nở…”. Tôi quên mất là hoa Anh Đào ở Đà Lạt sắp bị tuyệt chủng rồi, và Đồi Cù - nơi sáng giá nhất của Đà Lạt - thì bị rào kín không được vào, nhưng không sao vì Đà Lạt vẫn còn nhiều thứ để cho tôi ngắm, nhất là được “thả hồn theo mây; vẩn vơ theo gió và ngơ ngẫn cùng trăng”…hơn nữa ở Đà Lạt mà uống cà phê thì không nơi đâu tuyệt vời bằng.
Qua đèo Chuối một đỗi thì chuẩn bị leo đèo Bảo Lộc, càng lên cao không khí càng mát lạnh và dễ thở, tôi tìm một nơi để nghỉ chân, đồng thời cho “con ngựa sắt” nghỉ mệt trước khi leo lên đèo cao…À, hay quá chừng vì đã đến tượng đài Đức Mẹ Ban Ơn, ngừng nơi đây vừa nghỉ chân vừa cầu nguyện xin bình an cho chuyến “ta bà” này của tôi thi không nơi đâu bằng…
Đẹp quá…Tôi thốt lên như vậy. Đã bao nhiêu năm rồi tôi không đi trên tuyến đường này vì tôi toàn là ra Vũng Tàu hay Long Hải tắm biển mà thôi. Không ngờ cảnh nơi đây đẹp và nên thơ quá. Tôi ngừng xe lột nón bảo hiễm và bước lên Đài Đức Mẹ đọc đúng ba kinh Kính Mừng xong là tôi đi loanh quanh ngắm cảnh. Phía bên phải của Tượng Đài Đức Mẹ có một ngọn thác nhỏ nằm tận trên đỉnh núi, mùa này nước chỉ lưng lững nhưng sức chảy của nó khá mạnh, cũng đủ làm bắn tung tóe những hạt nước li ti lên cao tạo thành một tấm màn trắng mỏng bằng bụi nước, khi dòng chảy của cái thác xuống thấp dần thì nó trở thành một con suối đi xuyên qua bên kia đường đèo bắng một hàng cống lớn, ai đó đã đặt những cái ống nhựa để hứng nước từ trên cao đang tuôn xuống đổ tràn trề vào một cái thùng nhựa khá to, tôi đưa hai tay ra hứng đầy nước suối để rửa mặt, nước mát lạnh và rất ngọt. Có một cây cầu bắt ngang qua con suối, bên kia cây cầu là một quán cà phê xấp xệ bởi mái tole thấp lè tè, nhưng ở ngoài trời lại có một số bàn bằng đá thiên nhiên và mấy cái bàn làm bằng những gốc cây cưa phẵng mặt, tất cả được kê rải rác phía bên hông từ trên cao của thác nước chạy dài theo con suối…Tôi thích thú khi nhìn thấy khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp và quán cà phê “bụi” này.
Bước qua cầu tôi thấy có một chị đàn bà chừng bốn mươi tuổi đang ngó mông ra con đường đèo trước mặt, thấy tôi chị ta không có một chút phản ứng gì, hay là một lời mời chào khách phương xa dừng chân ghé uống cà phê. Tôi kéo một cái ghế ngồi xuống bên một cái bàn đá cạnh con dốc ở lưng chừng thác nước và kêu:
- Cho tôi ly cà phê đá.
Chị ta uể oải đứng lên đi pha cà phê, tôi cố ý bắt chuyện:
- Chị là chủ quán?
Một cái gật đầu thay cho câu trả lời…lát sau chị ta đem ly cà phê đá tới cho tôi rồi lại lạnh lùng quay lưng đi qua cầu, ngồi xề xuống chiếc ghế cạnh cái bàn bằng nhựa, gần đó có một cái kệ gổ; trên kệ bày những bó nhang và một cây đèn dầu (dành cho khách ghé lại thắp nhang miễn phí) chị chống tay lên cằm ngó mông ra con đường đèo uốn quanh, trên tay chị ta đeo những chiếc vòng vàng sáng chóa…hình như chị ta đang có ý chờ đợi ai đó, lát sau thì có thêm hai người đến ngồi với chị; một đàn ông và một đàn bà, lúc này mới thấy chị ta cười nói vui vẻ, rồi thêm một người đàn ông trạc tuổi chị ta quẹo xe đạp vào, anh ta lột chiếc nón vải máng lên ghi đông xe và ngồi xề xuống cái ghế còn lại. Bốn người vui vẻ lôi ra một bộ bài…Họ chia bài để sát phạt nhau.
Tôi rất dị ứng với những người cờ bạc, nhất là mỗi khi thấy đàn bà đánh bài là tôi kỵ lắm. Tôi không chú ý đến bốn người đó nữa mà nhìn cảnh quang chung quanh, ngọn thác này đẹp quá, hơn nữa đã có bàn tay cũa con người làm đẹp thêm cho nó bằng những con đường cong cong, ngoằn ngoèo lót đá với những bật cấp đi lên. Phía trên cao có mấy người thợ lúi húi làm việc, hình như họ đang dựng một cái chòi giống như cái bên kia nằm sát vách đứng của một núi đá, tuốt trên cao ở đằng xa cũng có một cây cầu giống như cây cầu “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài” trông thật là thơ mộng. Đang quan sát thì có một người đàn ông ở trần cầm cái cưa máy từ nơi đám thợ đi xuống…khi ông ta đến gần thì tôi hơi giật mình vì trông ông ta có vẻ quen quen, hình như là tôi đã gặp ở đâu rồi thì phải? Đôi mắt…a…đúng rồi; đôi mắt của người đàn ông trong công viên mà tôi đã “cố lì” hỏi chuyện…Ông ta cũng hơi ngẫn người ra, nhíu mày một cái như để nhớ lại tôi…Và rồi cả hai chúng tôi cùng một lúc nhận ra nhau, cùng “Ồ” thật to và rồi cùng mừng rỡ mà chồm vào nhau, bắt tay nhau miệng rối rít kêu lên:
- Chào anh…
- Chào anh…
Hai đứa chúng tôi cùng ngồi xuống, tôi hỏi:
- Cà phê nhé?
Người đàn ông cười vui:
- Uống chứ…
Và ông ta đứng lên tự đi pha cà phê cho mình, tôi nghỉ thầm “chắc anh ta là khách rất quen của quán này”…ông ta hỏi:
- Anh đi đâu mà ghé vào đây?
Tôi rút bao thuốc mời ông ta và trả lời:
- Tôi đi ta bà…định lên Đà Lạt hứng gió lạnh. Còn anh? Anh đang làm gì ở đây thế? Đã tìm được vợ chưa?
Ông ta rít một hơi thuốc lá, ngữa cổ chu miệng thổi một hơi dài, những vòng khói tròn bay lên cao rồi to dần, loãng ra và méo mó sau đó thì tan nhanh. Đôi mắt vẫn mang một nỗi buồn thăm thẵm dù miệng cười tươi và nét mặt sáng, ông ta kể nhưng giọng không còn ảm đạm như hồi đó:
- Tìm được cô ấy rồi nên tôi mới về đây…anh vẫn còn thắc mắc và rất muốn nghe chuyện của tôi lắm phải không?
Ông ta đưa tay chỉ quanh một vòng phía bên này và kể:
- Quán cà phê này là của tôi tạo dựng, cũng là một sự tình cờ, một cơ duyên như là đã được định sẵn từ trước, sau khi tôi cưới con gái của ân nhân làm vợ thì việc làm ăn của tôi ngày càng sa sút, cho đến nổi tôi phải bỏ quê mà đi, tạm thời để vợ ở lại nhà người chú…suốt thời gian đó tôi sống khá vất vả, lang thang khắp nơi cho đến một hôm rất tình cờ tôi ghé vào nhà thờ Bảo Lộc…anh biết không…bao năm qua tôi hầu như quên mình từng là con chiên của Chúa. Khi quỳ trước tượng Đức Mẹ trong nhà thờ tôi đã khóc thật nhiều…rồi khi ra khỏi nhà thờ thì gặp cha xứ, ngài hỏi và tôi kể hết mọi chuyện đời tôi cho ngài nghe…cha xứ lấy xe Honda chở tôi ra tới chổ này, từ lâu nơi đây đã có dựng tượng Đức Mẹ rồi, Ngài hỏi tôi có thích chổ này không? trời ơi…làm sao không thích cho được khi mà cảnh nơi đây quá đẹp. Thế là ngài cho tôi một ít vật liệu để dựng tạm một cái chòi, nhiệm vụ của tôi là chăm sóc chung quanh khu vực này cho thật sạch sẽ…tôi ở đây 24/24…thấy khách đi từ Sài Gòn lên hay từ Đà Lạt xuống đều dừng lại đây trong chốc lát, tôi bèn mở quán bán cà phê, mì gói, bánh kẹo…và làm đủ thứ việc…từ từ nơi đây trở thành một chổ dừng chân thật đẹp…anh nhìn quanh thì thấy…sau đó tôi về quê đón vợ lên…cô ta ương bướng bỏ đi vì đối với cô ta thì “nơi đây buồn phát khiếp”…vậy nên anh mới gặp tôi trong công viên ở Sài Gòn ngày đó…
Ông ta kể tiếp:
- Hiện nay cha xứ cho làm thêm mấy cái nhà chòi ở quanh khu vực này và chỉ lợp tole thôi…như anh thấy đó, để nơi này trở thành một điểm dừng chân lý tưỡng cho khách du lịch và nhất là cho bổn đạo trong giáo xứ…cách đây cũng khá xa, phải qua hết đèo Bảo Lộc. Tôi có nhiệm vụ trong coi thợ và cùng làm việc với họ, “công trình” phải hoàn thành trước Tết.
Tôi cười:
- Anh có tâm hồn lãng mạn, lại được ở một nơi thơ mộng như thế này…thật giống cõi Tiên…
Người đàn ông nhìn bao quát chung quanh và gật gù:
- Đúng vậy, nơi đây thật là đẹp anh ạ, ở đây tôi như quên hết mọi ưu phiền, có những lúc tôi ngồi bên tượng Đức Mẹ mà thấy lòng mình bình yên vô cùng… anh à; tôi đã làm rất nhiều bài thơ…hay là thế này anh nhé; anh hãy ở lại nơi đây với tôi một ngày…chúng mình cùng nhau bàn luận văn chương thơ phú. Tôi rất thích được nói chuyện, được tâm sự với anh. Ở đây tôi quen biết và tiếp xúc cũng rất nhiều người…nhưng để hàn huyên giải bày thì chưa bao giờ.
Kể ra bây giờ cũng khá chiều rồi, mà tôi thì đi “ta bà” không định hướng…thôi thì…
Tôi nhìn người đàn bà đeo vòng đỏ tay đang say mê sát phạt những quân bài rồi nhướng mày ra dấu, ông ta gật đầu:
- Vợ tôi đó, mà thôi…đừng để ý làm gì…anh theo tôi vào đây xem những cái này hay lắm…
Tôi đi theo ông ta vô phía trong và ngạc nhiên quá chừng khi thấy ở trong này ông ta chưng bày rất nhiều những tãng đá lớn có, nhỏ có, thô sơ có và được mài bóng nhẵn cũng có, đó là những hòn đá Phong Thủy, ngoài đá ra còn có rất nhiều những gốc cây dáng lạ và đẹp. Lúc mới đầu dừng xe bên ngoài tôi chỉ ham ngắm nhìn dòng thác và con suối; cùng cảnh quang bên Đài Đức Mẹ nên quay lưng lại với những gì ở phía sau, bây giờ thì thật ngạc nhiên làm sao. Tôi hỏi:
- Tất cả những cái này là của anh?
- Vâng, tôi đã từng theo một nghệ nhân để học cách mài nhẵn những tảng đá này, và cách tạo dáng cho những gốc cây, đây là đá lấy từ trong núi của vùng Lâm Đồng, những hòn đá nhỏ tôi chở bằng xe Honda, còn những tãng đá lớn phải mướn xe tải nhỏ đấy…
Tôi ngạc nhiên: - Vậy là phải tốn nhiều tiền lắm nhỉ? Ông ta cười: - Tôi bán những hòn đá Phong Thủy này cho khách vãng lai để nuôi “trại đá” này đó chớ, từ nhỏ thành to, từ ít thành nhiều, chỉ cần mình có ý chí và sự đam mê là được thôi mà anh. Tôi đọc trên những thanh đá màu đen được mài láng có những câu viết rất hay, nét chử theo lối Thư Pháp rất đẹp, ông ta nói đó là chử của Thầy ông ta viết, vì thật ra thì… - Chử của tôi xấu như cua bò gà bươi…Này…tôi mời anh thật đó, ở lại đây một đêm nhé rồi ngày mai hẳn đi, tôi tha thiết mời anh, vì khi nói chuyện với anh thì tôi như trút được bầu tâm sự luôn đè nặng trong trái tim mình, tôi cảm thấy nhẹ nhàng trong lòng anh ạ. Tôi đồng ý ở lại với ông ta một đêm, ông ta vui mừng lắm nên vội vàng kéo tôi vô tuốt trong nhà rồi dọn cho tôi cái phòng duy nhất có được,vừa làm ông ta vừa nói: - Đêm nay anh sẽ ngủ ở đây, vợ chồng tôi sẽ ngủ bên ngoài… Tôi ái ngại lắc đầu: - Đừng anh à, cứ để tôi ngủ ngoài này cũng được, với lại chúng mình còn thức đêm để cùng nhau tâm sự nữa mà. Chiều trôi qua rất nhanh và khi màn đêm buông xuống thì khí lạnh từ trong núi bắt đầu tỏa ra, sương mù giăng kín. Bây giờ chúng tôi thân nhau nhiều hơn và cũng đã biết tên của nhau…Bá Tiên là tên của ông ta, một cái tên đầy ấn tượng, bốn mươi sáu tuổi; vậy là hơn tôi ba tuổi. Bá Tiên đốt một đống lửa kế vách núi đá dựng đứng bên thác nước, anh lúi húi nấu hai gói mì tôm và cho vào trong hai cái tô, mỗi tô lại còn được “độn” thêm một ít bắp cải và hai cái trứng gà, Bá Tiên trồng mấy cây ớt quanh thác để “khách ăn mì tôm không sai anh phải đi lấy ớt vì đã có sẵn trên cây”…Chưa bao giờ tôi được ăn một tô mì tôm ngon đến như vậy, vừa cay vừa nóng mà trời thì lạnh…sau đó Bá Tiên pha hai ly cà phê đen, tôi bóc gói thuốc lá con mèo ra… Nước từ trên thác đổ xuống đủ mạnh để anh làm một hệ thống “thủy điện” thắp sáng hai bóng đèn dài trên Đài Đức Mẹ và mấy bòng đèn ngắn trong nhà anh. Buổi tối nơi đây không một bóng người, thỉnh thoảng mới có vài chiếc xe tải chạy qua, ánh đèn pha quét một đường dài ngoằn ngoèo rồi mất hút. Tiếng của những loại côn trùng rã rích, rồi tiếng thác nước từ trên cao tuôn xuống ầm ầm cùng với tiếng róc rách của con suối, tất cả hòa quyện vào với nhau tạo thành một thứ âm thanh riêng biệt của núi rừng nghe thật lạ lùng…hèn gì mà vợ anh chán và than buồn, kể ra thì cũng tội nghiệp cho chị ấy; vì: - Khi trời chạng vạng tối thì nơi đây thật là buồn…cho đến khi ánh bình minh ló dạng thì mới có được đôi chút rộn ràng của những chiếc xe và khách lạ dừng chân ghé vào. Âý là chưa kể là vào mùa mưa; trời cứ dầm dề lê thê, thác nước thì ầm ầm tung bọt trắng xóa…tuy đẹp nhưng buồn lắm. Đó là lời diễn tả của anh. Hai chúng tôi ngồi bên ánh lữa bập bùng và nói đủ thứ chuyện. Hình như có bao nhiêu chuyện nhớ được chúng tôi đều kể ra cho nhau nghe, kể cả những chuyện thầm kín nhất của mình mà ngay cả với vợ con của chúng tôi chưa chắc đã biết . Bá Tiên kể về người yêu của anh với một giọng thật ngậm ngùi…thì ra cô ấy vẫn không đi lấy chồng như lời “hù dọa” năm xưa, chỉ vì cô muốn anh làm tròn lời hứa với ân nhân của mình; mà không phải bị lấn cấn bận bịu vì tình yên đối với cô, đó là một sự hy sinh vô cùng cao đẹp, điều này là một vết dao bén ngót cứa sâu vào trái tim anh làm nó cứ bị “chảy máu” hoài, và anh nhớ mãi cô ấy…nhớ không nguôi. Hai ly cà phê chỉ vơi đi một ít nhưng gói thuốc lá thì còn chừng vài điếu. Qua ánh lữa lung linh nhảy múa bập bùng, đôi mắt của Bá Tiên sâu vời vợi, anh thở ra một hơi dài, mỉm cười buồn bã nói: - Bây giờ thì tôi thấm lắm về “thú đau thương” mà anh đã nói với tôi chiều hôm đó, nhưng tôi phải Thăng Hoa thú đau thương này của mình, phải vùng vẫy và hòa tan trong nó thì tôi mới sống và làm việc được, kể cũng lạ…được làm những công việc mà mình yêu thích và khi say mê dồn hết tâm trí vào đó; lại chính là cách để tôi “thăng hoa” thú đau thương của mình… Anh cười khẩy: - Thú đau thương làm cho ta héo úa tâm hồn…như hút thuốc lá sẽ bị nám phổi…biết là độc hại nhưng mà vẫn…thích. Người yêu tuy xa xôi mà thật gần…ở tận trong trái tim, còn vợ tuy gần sát bên nhưng lại xa nghìn trùng…mà thôi, được nói hết với anh những lời này tôi cảm thấy lòng thật nhẹ nhàng… Rồi anh lại đọc thơ: …Quen biết đầy thiên hạ. Đêm đã khuya lắm rồi, đốm lửa tàn dần, Bá Tiên đưa ly cà phê lên miệng hớp một hơi hết sạch, anh nói với tôi: - Đi ngủ thôi, xem ra anh có vẻ mệt rồi thì phải… Tôi không khách sáo vì thật sự cái lưng của tôi nó mỏi nhừ. Nằm trên chiếc ghế bố bên cạnh là những hòn đá “phong thủy” đủ kiểu đủ dáng, tôi nghiêng người nhìn chăm chăm vào đó và cảm thấy như là mỗi hòn đá, mỗi gốc cây đều mang một cái hồn, và cái hồn này có được là do anh Bá Tiên đã thổi vào từ sự “thăng hoa cho thú đau thương” của anh. Tôi chập chờn đi vào giấc ngủ; trong giấc ngủ tôi mơ thấy những hòn đá cùng những gốc cây đang trò chuyện với nhau bằng những vũ điệu riêng của chúng…lung linh…huyền ảo… Có tiếng gà gáy rộn ràng làm tôi thức giấc, trời chỉ mới tờ mờ sáng nhưng anh Bá Tiên thì đã dậy từ lúc nào, anh nấu nước châm một bình trà và chuẩn bị làm hai tô mì gói như tối qua. Anh hỏi tôi: - Ngủ say không? - Khá say nhưng ngắn. Anh cười vui: - Có lẽ vì chúng mình nói chuyện nhiềù...gần hết một đêm. Buổi sáng nơi đây thật tuyệt vời, không khí trong veo sạch sẽ vô cùng. Sau khi ăn sáng xong Bá Tiên dẫn tôi đi khắp hết khu vực của Tượng Đài Đức Mẹ, từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, từ bất ngờ này đến bất ngờ nọ… Tôi nói với anh: -Vì anh tên là Bá Tiên nên anh ở nơi đây…hợp với anh quá rồi, thật tuyệt vời; anh như một ông Tiên trẻ… Bá Tiên cười lớn: - Tôi là Tiên ông mắc đọa dưới trần ấy mà. Rồi anh hứng chí đọc hai câu thơ nghe rất dễ thương: Ta cứ ngỡ xuống trần chơi một lát, Chúng tôi đến ngồi bên thác nước - nơi đêm qua đã ngồi - và nói chuyện tiếp, hình như Bá Tiên quên mất bà vợ của mình, anh đọc cho tôi nghe thêm nhiều bài thơ mà anh vừa chợt nhớ ra, bài nào cũng hay, cũng mang một ý tứ sâu thẵm với một nỗi buồn mênh mang, nhất là khi ngồi bên dốc đá chênh vênh này, cạnh con thác đang ầm ì đổ nước xuống dòng suối phía dưới kia, tôi kéo anh về với thực tại khi chỉ cho anh thấy vợ anh đang tới gần, anh xua tay ra dấu cho vợ đừng đến và kể thêm với tôi: - Cô ta chỉ cần mỗi ngày được tôi đưa cho một ít tiền để đánh bài mà thôi, còn những việc khác thì cô ta không hề quan tâm đến, đã một lần tôi suýt bị sạt nghiệp khi giao hết tiền bạc cho cô ta cất giử…bây giờ thì đành phải “tiền phát gạo đong”, mà tôi nào muốn thế…nhưng tôi còn phải để dành tiền cho hai đứa con học hành nữa chứ, các cháu đang ở với ông bà nội. Tôi đâm ra bồi hồi xúc động và cảm thương cho một tâm hồn lãng mạn tài hoa như anh Bá Tiên…anh nói tiếp: - Vợ tôi không bao giờ biết xúc động với những tác phẩm do tôi làm ra, cô ta không có sự đồng cảm cùng tôi, đối với cô ta thì sự đồng cảm chỉ dành cho những con bài tây mà thôi…buồn lằm…nhưng mà quen rồi nên chi tôi cứ lăn xả vào việc sáng tác hình dáng lạ của những gốc cây, hòn đá…có đôi khi tôi còn nói chuyện với chúng và cảm thấy lòng mình rất là ấm áp... Có lẽ nếu tôi còn ở lại đây thì anh Bá Tiên sẽ còn tâm sự nhiều hơn nữa. Một vài người thợ đang đi tới nơi mà hôm qua họ còn làm dang dỡ, Bá Tiên đi qua đó với những người thợ. Tự nhiên tôi đổi ý không muốn lên Đà Lạt nữa mà lại muốn quay về Sài Gòn…“Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt”...Tôi đã may mắn hơn anh rất nhiều. Bá Tiên cố níu chân tôi ở lại thêm một ngày nữa vì: - Tôi còn nhiều điều muốn nói và nhiều chuyện muốn kể… Bá Tiên lại đọc thơ: Tôi đã gặp tri kỷ. Tôi cảm động với sự trao gởi tấm lòng của anh nhưng đành hẹn lần sau, tôi hứa với anh là chừng nào anh hoàn thành công việc đang làm thì tôi sẽ lên chơi một chuyến, tôi chân thành nói: - Từ bây giờ anh Bá Tiên và nơi chốn này sẽ ở trong trái tim tôi, tôi sẽ đến đây mỗi khi gặp chuyện gì đó dù vui hay buồn và anh sẽ là người để tôi trút hết mọi nỗi niềm. Bây giờ thì tôi phải về để anh còn làm việc. Bá Tiên và tôi rời khỏi chổ ngồi bên vách đá và đi men theo dòng thác đổ, qua cây cầu mà tôi gọi vui là cầu “Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài” rồi về nơi ở của anh; cũng là nơi “trú ngụ” của những “Linh Hồn tượng đá” mà anh đã ra sức mài giũa để tạo dáng, anh chọn một thanh đá trơn láng màu đen có dáng rất đẹp để tặng tôi, trên thanh đá viết hàng chử “Quen biết đầy thiên hạ, Tri kỷ được mấy người?”. Tôi không từ chối vì nếu từ chối là bất nhã, nên tôi nhận lấy với tất cả tấm chân tình. Trước khi tôi lên xe, bất ngờ anh hỏi: - Chúng ta kết nghĩa Huynh Đệ nhé? Tôi cảm động gật đầu: - Đúng là chúng mình phải kết nghĩa vườn “Đá và Nước”. Anh cười thích chí: - Vậy thì anh sẽ làm một bài thơ có tựa đề là “ Vườn Thạch Thủy” nhé, lần sau chú lên đây thì phải ở chơi lâu lâu với anh, cảm ơn chú…anh rất hạnh phúc…Chúc chú đi đường bằng an. Đường trường xa…Đường trường xa…không ngờ chuyến đi “Ta Bà” này của tôi tuy ngắn nhưng lại đầy thi vị và có nhiều ý nghĩa đến như thế; với một đêm bên ánh lữa bập bùng cạnh vách đá, với tô mì gói, với những câu chuyện thầm kín và mối chân tình rất đáng quí của anh Bá Tiên…thật khó quên. Cái tên “Thạch Thủy” đầy ý nghĩa; cứng như Đá và mềm như Nước…dễ vở như Đá nhưng cũng mau chóng liền lại với nhau như Nước. Kết nghĩa huynh đệ “Vườn Thạch Thủy” với anh Bá Tiên…ôi hay quá...Tôi lan man suy nghỉ mãi trên chặng đường dài hai trăm cây số về nhà mình. Hình ảnh anh Bá Tiên lãng mạn đầy chất thơ, say mê thổi hồn vào những tảng đá, những gốc cây đủ mọi hình dáng, với bàn tay tài hoa anh đã khéo léo biến chúng từ những vật vô tri trở thành những tác phẩm sống động, tâm hồn anh lênh láng đầy cảm xúc nên dễ dàng nhã chử thành những bài thơ mượt mà, nói theo lối trừu tượng thì anh thật là “giàu có”, nhất là khi anh còn ấp ủ trong trái tim một cuộc tình dang dỡ nhưng đẹp đến não nùng (tình chỉ đẹp khi còn dang dỡ mà)…Thế nhưng bên cạnh đó là hình ảnh rất tương phản của vợ anh…một người đàn bà “phàm tục” với cổ tay đeo đầy vàng, với những lá bài được xòe ra một cách thành thạo đến điệu nghệ. Hai hình ảnh, hai con người trái ngược nhau hoàn toàn nhưng lại chung sống bên nhau để rồi lúc nào cũng “đồng sàng dị mộng”.Vậy thì điều gì đã trói buộc họ phải ở mãi với nhau? Nhất là về phía anh Bá Tiên? Phải chăng là lời hứa với “ân nhân cứu mạng”? cứu mạng sống anh nhưng lại vô tình…giết chết lòng anh?...hay đây chính là “phân bón” nuôi dưỡng “chất thơ” nằm sâu trong tâm hồn anh ?... Vì mối tình dang dở của anh Bá Tiên đã kết thành những bài thơ đầy ngậm ngùi, và những “Linh Hồn Tượng Đá” của anh là những tác phẩm có được từ sự thăng hoa của một nổi đau không thể nào thoát ra, nhưng tôi lại nghỉ rằng nếu như một khi anh thoát ra khỏi nổi đau ấy thì biết đâu anh sẽ không còn là một Bá Tiên tài hoa lãng mạn nữa? Đôi tay anh sẽ không còn lã lướt khi “uốn éo vuốt ve” lên những gốc cây, hòn đá? đó chính là luật bù trừ, là một cái giá phải trả: vì khi được cái này thì phải mất cái kia…Mà chắc gì anh ấy muốn thoát ra “khỏi nó” một khi anh đã quen sống trong “thú đau thương” của mình, và biết đâu anh lại thích thú, hạnh phúc khi được trầm mình trong “thú đau thương” ấy? Gần đến nhà tôi rồi, có một điều tôi biết chắc chắn là hình ảnh và câu chuyện của anh Bá Tiên đã đậm nét trong lòng tôi - “Hẹn anh một ngày rất gần ở vườn Thạch Thủy, đó là tên riêng của chúng mình”, ngày đó sẽ không xa, có thể là sau khi giúp vợ dọn dẹp nhà cửa chuẩn bị đón Tết - trước hoặc sau gì đó - bởi vì tôi đã bị những “Linh Hồn Tượng Đá”; bị khung cảnh đẹp tuyệt vời của thác nước dưới chân đèo Bảo Lộc, bị ánh lửa bên vách núi chênh vênh…nhiều thứ để tôi “bị” lắm, và nhất là tâm hồn lai láng của anh Bá Tiên trong “thú đau thương” với sự thăng hoa…đầy sức quyến rũ, tất cã sẽ lôi cuốn sự trở lại của tôi…một ngày rất gần. Quen biết đầy thiên hạ, Cánh cổng màu xanh trước mặt…Tổ Ấm của tôi đây rồi…
Tri kỷ được mấy người?…
Nào ngờ đâu ở mãi tận hôm nay.
Người ấy chính là anh.
Tri kỷ được mấy người…?
VVM.04.8.2023-NVA.31312