Nguyên bản: КОЛЫМСКИЕ РАССКАЗЫ
(CÂU CHUYỆN TỪ KOLYMA)
Varlam Tikhonovich Chalamov (tên Nga: Варла́м Ти́хонович Шала́мов) sinh ngày 18 tháng 6 năm 1907 tại Vologda và mất ngày 17 tháng 1 năm 1982 tại Moscou.
Nhà văn, nhà báo và nhà thơ, Varlam Chalamov là một người đã sống sót được sau hơn 17 năm trong Gulag.
Ông đã trải qua phần lớn thời gian bị giam cầm từ năm 1937 đến năm 1951 trong các trại lao động cưỡng bức tại vùng Kolyma ở Sibérie , một phần là vì ông ủng hộ Leon Trotsky và ca ngợi nhà văn chống Liên Xô Ivan Bunin. Năm 1946, trước cái chết, ông trở thành trợ lý y tế trong khi vẫn còn là một tù nhân. Ông giữ công việc này trong suốt thời gian thụ án, sau đó thêm hai năm nữa mặc dù đã được trả tự do, cho đến năm 1953.
Từ năm 1954 đến năm 1978, ông viết một bộ truyện ngắn về những trải nghiệm của chính ông trong các trại Gulag.
Bộ truyện này được sưu tầm lại và xuất bản thành sáu tập, gọi chung bằng tựa đề Kolyma Stories (Kolyma Tales)- Câu Truyện Từ Kolyma.
Bản thảo gốc Câu Truyện Từ Kolyma được đưa sang Mỹ năm 1966 rồi xuất hiện trên tờ New Review trong những năm 1970 và 1976. Phiên bản tiếng Nga chỉ xuất hiện trên bản in vào năm 1978 tại Luân Đôn bởi cơ sở Overseas Publications Interchange Ltd . Năm 1980, John Glad đã xuất bản Kolyma Tales từ các bản dịch của chính ông, trong đó có tuyển tập các câu chuyện. Cuốn sách tiếp theo, Graphite, cung cấp thêm những câu chuyện từ Kolyma Tales.
Колымские рассказы (Kolyma Tales) xuất hiện lần đầu tiên ở Liên Xô vào năm 1989 và được người dân Liên Xô xếp hàng để mua.
Vào năm 2018, phần đầu tiên của ấn bản tiếng Anh hoàn chỉnh . Bộ sách bao gồm ba tập truyện đầu tiên đã được New York Review of Books xuất bản với bản dịch của Donald Rayfield. Ba tập truyện còn lại được xuất bản tiếp vào năm 2020.
Những "Câu Chuyện Từ Kolyma" được coi là kiệt tác của Chalamov và là "biên niên sử cuối cùng" về cuộc sống trong các Gulag.
Toàn bộ Câu Chuyện Từ Kolyma dựa trên hai lĩnh vực: kinh nghiệm cá nhân và lời thuật lại về những câu chuyện đã nghe. Các câu chuyện dựa trên cuộc sống của các tù nhân (chính trị hoặc chuyên nghiệp) trong trại tù và mối quan hệ của họ với chính quyền. Chúng ta tìm thấy lời kể của những tù nhân đã trở nên hoàn toàn thờ ơ, mất trí trong những điều kiện man rợ, giết người và tự tử một cách vô cảm.
Viết về việc bị giam cầm dưới chế độ Staline nhưng Chalamov chỉ đề cập một lần đến Joseph Staline trong bộ sách, chỉ một nhận xét ngắn gọn về bức chân dung lớn của Staline treo trong văn phòng của một cơ quan hành chánh. Có thể vì qúa ghê tởm khi nói đến Staline nên Chalamov không muốn đề cập tới tên của kẻ sát nhân này.
Bộ sách được chia thành năm phần: Truyện kể Kolyma, Bờ trái, Người thợ xẻng bậc thầy, Tiểu luận về thế giới tội phạm và Sự phục sinh của cây thông rụng lá.
Chúng tôi xin được lần lượt giới thiệu cùng qúy độc giả những "Câu Chuyện Từ Kolyma".
TỪ VŨ
♣ ♣ ♣
T ôi bị K.G.B. bắt giữ vào đêm ngày 11 rạng ngày 12 tháng 1 năm 1937, đây là lần thứ hai.
Lúc đầu, người thẩm vấn tôi là một người thực tập, một Romanov hay Limanov nào đó, một thực tập sinh trẻ với đôi má hồng hào, đỏ mặt trước mỗi câu hỏi của chính mình - một thứ động cơ mạch máu, một ảo tưởng của các mạch máu, đỏ mặt đến chân tóc hoặc thậm chí đến cả tận ngón chân.
- Vì vậy, anh đã có thể viết cho tới năm 1929, anh đã chia sẻ những ý kiến này, và bây giờ anh không còn chia sẻ chúng nữa?"
- Ừ, đúng như thế!.
- Anh ký được không?"
- Tất nhiên rồi.
Người thẩm vần trẻ hay đỏ mặt bước ra khỏi phòng, đưa một thứ gì đó cho một người nào đó xem rồi vào buổi tối, tôi được chuyển tới số 14 đường Bolshaya Lubyanka, cơ quan quản lý ở Moscow, nơi tôi đã tới đó tám năm về trước. Tôi biết tất cả các quy luật và tất cả những hứa hẹn của nơi này. Số 14 đường Bolchaïa Lubyanka là một cái "cũi" (khu vực tiếp nhận những người vừa bị bắt) mà người ta có thể được trả tự do (điều đó cũng đã xảy ra), hoặc giải qua cho số 2 đường Bolchaïa Lubyanka, có nghĩa là người bị bắt là tội phạm nhà nước, một tội phạm là kẻ thù cao cấp không xa với án tử hình cho lắm hoặc đưa qua nhà tù giáo dẫn Boutyrki, nơi được công nhận là "kẻ thù của nhân dân", ít hay nhiều người bị bắt cũng phải chịu chế độ cô lập.
Như vậy, Butyrki hứa hẹn cho sự sống nhưng không phải cho tự do. Người ta không thể tự do ra khỏi Butyrki được. Và không phải chỉ để bảo vệ uy tín cho Nhà nước (vì GPU có bao giờ tự dưng bắt bớ thường dân được !), mà đơn giản chỉ vì cái vòng quay của bộ máy quan liêu với bánh xe chết chóc này mà người ta không muốn, không thể, không biết cách tạo ra một nhịp điệu khác,cho quay một cách khác hoặc thay đổi hướng đi khác – hơn nữa người ta cũng không có quyền thay đổi như vậy. Boutyrki là bánh xe của Nhà nước .
Chính thẩm phán điều tra Botvine đã thẩm cứu vụ án của tôi và đưa ra kết luận cuối cùng - tất nhiên không phải tại tòa án, tuy nhiên anh ta cũng không quên đe dọa tôi bằng chuyện đó, mà thậm chí là "từ viết tắt bài báo" tồi tệ nhất trong số hàng triệu từ có hiệu lực: "KRTD" * mà tòa án nằm ở chữ T này. Trong hai chữ "Tòa Án" có chữ cái T chết người này, nhưng quan tòa Botvine chắc không thể xác định trọng lượng cụ thể của ký tự khó hiểu và bí ẩn đó trong bảng chữ cái tiếng Nga, xứng đáng với tất cả các vòng tròn ma thuật, xứng đáng với các diễn giải thần học.
Thẩm phán điều tra Botvine là một người uể oải biếng nhác, chạc tuổi tôi, và anh ta tiến hành vụ án xử tôi không mấy vội vàng. Trước mặt tôi, anh ta bỏ ngang cuộc thẩm vấn rồi ghim những mảnh giấy vào tập hồ sơ của tôi. Cuộc khủng hoảng về nhà cửa, chuyện thiếu cơ sở chuyên nghiệp ... đã gây ảnh hưởng trầm trọng thêm mọi hành động của anh ta. Khi anh ta phải "chăm sóc" trường hợp của tôi, Botvine được chỉ định làm việc trong một văn phòng với một khoảng thời gian giới hạn nhất định, sau đó anh ta sẽ bị đuổi ra ngoài hệt như "một kẻ thối nát tận cùng". Từ ngoài hành lang vọng vào giọng nói của một vị quan chức lớn nào đó:
- Một giờ nữa thì mày sẽ bị tống cổ ra như một tên tận cùng thối nát!.
Cấp bậc của Botvine không cao lắm; vì vậy, vừa hoài nghi lại vừa biếng nhác, anh ta đã cố kéo dài thời giờ làm việc với sự có mặt của tôi. Tất cả các ghi chú có liên quan đến trường hợp của tôi đã được bầy biện gần bàn anh ta.
Những chiếc bàn làm từ những năm 1900 vào thời Dzerzhinsky chật chội đến nỗi bốn chân hai chúng tôi phải chạm vào nhau trong buổi thẩm vấn.[Tôi có thể] đọc bằng chính mắt tôi tất cả các dòng chữ trên những văn bản được bày ra trước mắt tôi mà tôi không cần phải vội vàng hay mong muốn vội vàng. Sau đó, tôi thích thú tìm được ra một trò chơi bằng cách duyệt qua rồi đọc ngược lại "trường hợp" của riêng tôi khi bị bắt vào năm 1929. Bị bắt giữ, thẩm vấn, lập hồ sơ với lời khai của các nhân chứng từ lúc khởi đầu cho tới khi kết thúc cuộc điều tra và cuối cùng là tờ ... cuối cùng – tôi từ chối ký vào bản án của mình: ba năm trong trại tù và năm năm lưu đầy.[Ghi chú đính kèm] của một bàn tay thờ ơ của người chỉ huy bảo vệ. Khi đó ai là người chỉ huy trong đơn vị biệt giam tù đàn ông? Chỉ huy nhà tù là Adamson, nhưng ai là người trực? Không, không phải ở khu cách ly, mà ở khu chờ đợi chuyển giao nơi mà tôi tuyên bố tuyệt thực. Nguyên nhân ? Tôi không muốn bị bỏ tù chung với bọn phản cách mạng, tôi yêu cầu được chuyển đến chung với những người chống đối.
- Ở đây anh không là một bị can mà anh đã bị kết án!. Người chỉ huy đám lính canh giữ nói với tôi bằng một giọng thờ ơ, và thực sự , ông ta chìa cho tôi xem một tờ giấy chứng nhận, trên tờ giấy lại được viết bởi một bàn tay nào đó, ghi chú rõ rệt : "Từ chối ký." »
Không vội vàng, Botvine cũng đọc đi đọc lại trường hợp của tôi, trong đó có một ghi chú đe dọa khác: "Sẽ được lưu trữ." Điều này có nghĩa là hồ sơ của tôi sẽ được lưu giữ vĩnh viễn.
Tất cả những điều này tôi đã biết hết. Việc khiến Botvine quan tâm là một thứ khác. Anh ta chỉ đơn giản muốn thiết lập vụ án này một cách tốt đẹp nhất nếu có thể được, vào thời điểm đó việc làm này sẽ mở ra những cơ may vô tận cho Botvine. Botvine luôn mang theo cả đống tài liệu đến một số cuộc họp. Bên cạnh nét hoài nghi và lười biếng, anh ta lại thể hiện sự nhiệt tâm với nghề nghiệp,anh ta mong muốn không bỏ sót điều gì để tránh vấp ngã trên đường tiến đến vinh quang. Anh khai thác kỹ thuật tối đa những gì có thể cung cấp được cho việc mà anh ta mong muốn.
Botvin thốt nhiên la lên:
- Anh muốn phá hoại Đảng phải không !.
- Ai ?
- ANH !.
Ai đó ở cấp trên anh đã đặt những dấu chấm, dấu hỏi, dấu gạch ngang, v.v. vào tài liệu.
Đột nhiên Botvine thay đổi kế hoạch và tiến trình cuộc thẩm vấn. Sau khi nhận được hồ sơ cũ của tôi, anh ta đã cho kiểm tra lại tất cả các nhân chứng đã tham gia vào hồ sơ đó – lần này không còn nhắm đến việc xuống hạng lưu đầy, mà là hướng tới tòa án.
Trong vụ án của tôi có rất ít nhân chứng, mức tối thiểu này ngày nay thích hợp hơn là mức tối đa. Tất cả các đồng nghiệp của tôi - Goussiatinski , Shumsky - lại phải bị thẩm vấn.
Gusyatinsky đưa ra hàng loạt sự kiện mới - tôi đã đến Kyiv Ukraine, nơi đây tôi đã nói tốt về Efimov, giám đốc viện công nghiệp của thành phố, và nói xấu về những người theo chủ nghĩa Lénine trung thực. Tất cả những điểm có vẻ đáng nghi ngờ đối với anh ta, vì vậy Gusyatinsky đã chính thức khai báo tên của những người đã gởi gấm, giới thiệu tôi cho ban biên tập tạp chí Для обученных кадров .
Cũng chẳng có gì thay đổi trong lời khai của Choumski so với cuộc thẩm vấn lần trước . Rõ ràng Choumski không hèn nhát.
Nhưng những thay đổi trong lời khai của vợ tôi, theo lời Botvine, thì nghiêm trọng hơn nhiều, tuy nhiên tôi cũng chỉ biết những gì Botvine đã nói với tôi: “Ngay cả tới vợ của anh cũng chứng thực rằng anh là một kẻ chống đối tích cực; nhưng anh đã tự che giấu, anh tự ngụy trang cho anh, có thế thôi. Mặc dù nói thế Botvine không có một bằng chứng nào thích ứng được cho lập luận đó.
Rồi, có thế thôi, tôi bị kết án năm năm và bị gởi đi Gulag ở Kolima.
Mười bốn năm sau, khi vẫn chưa được phục hồi chức năng, tôi hỏi vợ tôi:
- Người ta bắt em viết gì trong bản khai?. Có thể là em nói hơi quá nhiều khi đó, năm 1937 !.
- Những gì em đã nói giản dị là: Rõ ràng là tôi không thể nói chồng tôi đã làm gì khi tôi vắng mặt, nhưng với sự có mặt của tôi, ông ấy không có một hoạt động Trotskyist nào cả.
- Rất hay.
- Anh sẽ gặp Pasternak mỗi tháng một lần, anh cứ đến đây, chẳng hạn, mỗi tuần một lần. Vợ tôi nói tiếp.
- Pasternak, tôi nói, “cần tôi hơn tôi cần anh ấy. Pasternak đã cho tôi những gì anh ấy có thể cho, trong những vần thơ vào tuổi thanh xuân của anh ấy, những bài thơ của My Sister Life. Pasternak cũng không nợ nần tôi gì cả.
- Hãy cho em lời hứa của anh rằng anh sẽ để Lena con gái chúng ta được bình yên, anh sẽ không phá hủy lý tưởng của nó. Nó đã được em nuôi dưỡng, cá nhân em, em xin nhấn mạnh chữ này, và em không muốn nó đi theo bất kỳ một con đường nào khác. Em đã đợi anh mười bốn năm, điều đó cho em được quyền đòi hỏi anh việc đó.
- Tất nhiên là như vậy – anh cam kết, anh sẽ giữ lời hứa đó. Còn việc gì nữa không em?.
- Nhưng đó không phải là điều chính, điều quan trọng nhất hay sao ? - anh phải quên đi mọi thứ.
- Cái gì chứ , quên tất cả mọi thứ?.
-… Dạ, anh phải tìm trở lại một cuộc sống bình thường …
VVM.15.7.2023