Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



ĐÔI MẮT



                  Riêng gửi các bạn tôi, những người may mắn còn đủ hai mắt để nhìn rõ cuộc đời.

                   Phương-Duy TDC

     P hương từ từ mở miếng băng che mắt, sau khi được giải-phẫu thay một con mắt.

Ánh sáng tràn ngập vào mắt khiến Phương cảm thấy cay và chói. Phương nở một nụ cười mãn nguyện khi nhìn được cảnh quang trước mắt. Những tấm tranh treo trên tường như mỉm cười với Phương sau một thời-gian dài, chàng đã không thể nhìn thấy chúng.

Chàng đi vào phòng tắm, soi gương để nhìn rõ con mắt mới thay như thế nào. Trước tấm gương lớn, hiện ra khuôn mặt chàng với một con mắt xanh trong veo của một phụ-nữ. Chàng sung sướng biết rằng từ đây chàng đã thực sự chấm dứt chuỗi ngày sống âm thầm trong bóng đêm mịt mù, cô-đơn và buồn thảm của người khiếm-thị.

Nhưng trong nỗi vui vô bờ ấy, Phương còn mang một thắc mắc lớn: Ai là chủ-nhân của con mắt xanh kia? Người nào đã cho chàng món quà quý giá nhất trên cõi đời này? Chàng rất muốn biết .

*

Phương đến Mỹ năm 1975 khi miền Nam bị Cộng-sản cưỡng chiếm. Sau khi ổn định tinh-thần và cuộc sống, chàng miệt mài học hành để đạt được ước mơ về học-vấn: chàng tốt-nghiệp Kiến-trúc-sư như mộng ước khi còn ở bậc Trung-Học. Chàng có công việc tốt, bên những người bản xứ da trắng. Cuộc đời chàng đang có chiều hướng đi lên rất thuận lợi. Nhưng cay nghiệt thay, trong một tai nạn bất ngờ, chàng đã bị mù cả hai mắt. Từ đó, Phương sống âm thầm trong bóng tối, dù đã có nhiều lúc chàng chán nản, muốn tự-tử. Nhưng rồi, chàng lại nghĩ rằng tự-tử là hèn nhát, khi chỉ vì đôi mắt, mà chàng lại hủy hoại tấm hình hài của mẹ cha sinh ra, ở nơi đất khách quê người, để cha mẹ già phải buồn đau khóc hận nơi quê nhà.

Rồi ngày qua ngày, Phương quen dần đời sống giới-hạn của người khiếm-thị. Chính âm-nhạc đã giúp chàng vượt qua chặng đời đáng chán này. Hết nghe nhạc classics, chàng lại nghe nhạc êm dịu, nhạc tình-cảm để mơ mộng về một thế-giới thần-tiên của những ngày đôi mắt còn nhìn thấy mọi vật, mọi người. Đúng rồi, những năm tháng ấy quả thật thần-tiên với một người đã mất thị-giác như chàng. Bây giờ chàng mới biết quý, thì đã muộn rồi. Chàng chỉ còn biết hoài-niệm dĩ-vãng xa xưa...

Nghe lời khuyên của một người thân, Phương trông đợi sự tiến-bộ của y-học nước Mỹ sẽ có thể đem lại ánh sáng cho người mù trong một ngày không xa. Bây giờ, chàng gom góp số tiền dành dụm được trong mười tám năm qua, để hy-vọng một ngày nào đó, với số tiền này, chàng có thể tiến tới việc thay mắt khác. Chàng ghi danh ở một bệnh-viện lớn để có tên trong danh-sách những người chờ thay mắt. Chàng chờ đợi trong niềm hy-vọng.

Cho đến một ngày trước lễ Giáng-Sinh, một tin vui đã đến với Phương. Chàng đã đượcbệnh-viện báo tin đã đến lượt chàng được thay mắt. Chàng vui mừng phấn khởi trong niềm tin tưởng vào sự tiến-bộ của khoa-học, đã thay được những bộ-phận hư hỏng của con người. Thời-gian qua, tính bằng năm, mà chàng đã thấy qua đi nhanh chóng, nhưng nay chỉ chờ hai tuần lễ để vào bệnh-viện thay mắt, chàng đã thấy thời-gian dài lâu hàng thế-kỷ!

Rồi ngày giải-phẫu thay mắt cũng đã đến. Một ngày trọng đại nhất của cuộc đời Phương.

Phương nằm trên giường được cô y-tá Mỹ đẩy vào phòng mổ, chàng lâm râm cầu nguyện.

Bỗng một giọng đàn ông Mỹ bập bẹ câu nói tiếng Pháp một cách khó khăn, để hỏi chàng trước khi gây mê:

“Parlez-vous francais?”

Tuy ngạc nhiên, nhưng là “dân trường Tây” khi còn học ở Việt-Nam, nên theo phản-xạ, Phương trả lời nhanh:

“Oui, Docteur!”

Rồi Phương chìm vào cơn mê khi thuốc mê đã thấm vào mắt chàng. Có lẽ cuộc giải-phẫu đã diễn ra vài giờ, mà chàng đâu có biết.

* *

Phương nghiêng đầu ngắm nghía đôi mắt của mình. Chàng mỉm cười với mình trong gương soi:

Bên phải: một con mắt giả, vô tri vô giác.

Bên trái: một con mắt thật, nhưng không phải mắt đen của người Đông-Phương, mà là con mắt xanh của một phụ-nữ Tây-Phương.

Chàng ước ao được biết tên ân-nhân của mình, và nếu được thì chàng tò-mò muốn biết vì sao “nàng” đã cho con mắt này và sao lại chi có một con mắt? Và con mắt còn lại kia đâu rồi?

Thắc mắc này cứ vương-vấn mãi trong trí chàng, mỗi khi đứng trước gương nhìn ngắm đôi mắt “so-le” của mình.

Một ngày hè, chàng đang phơi mình trên bãi biển Santa Cruz. Nhìn ra phía xa biển Thái-Bình-Dương, từng đợt sóng trắng vỗ vào bờ cát vàng. Chàng nghĩ đến cha mẹ già cách xa nửa vòng trái đất. Chàng che mắt nằm im nghe ngóng âm-thanh trùng điệp của trùng-dương. Rồi chàng thiếp đi trong mơ màng.

Bỗng chàng thấy một thiếu-nữ tóc hoe vàng, đôi mắt xanh biếc, thân hình với những đường cong bốc lửa, vừa bước ra khỏi đôi mắt chàng. Thiếu-nữ nhoẻn cười, nói với chàng bằng tiếng Pháp, giọng nói trầm ấm của một cô “đầm” chính hiệu:

“Bonjour! Tôi xin tự giới-thiệu tôi là Marie, một cô gái Pháp.”

“Còn tôi – Phương – một người Việt-Nam. Rất hân-hạnh được quen biết với cô. Xin cho phép tôi hỏi một câu: Cô là ai? Sao lại từ trong mắt tôi bước ra? Lần đầu tiên tại Mỹ, tôi được nghe tiếng Pháp thốt ra từ miệng một thiếu-nữ xinh đẹp như cô, làm tôi nhớ lại cô giáo người Parisienne đã dạy tiếng Pháp cho tôi khi tôi còn học ở trường Providence ở Huế. Giọng cô giống hệt giọng của Madame Mouter thuở xưa dạy tôi.”

“Tôi à? Tôi... Em là người mà từ lâu anh muốn biết. Vì chính em đã hiến tặng cho anh con mắt xanh đấy. Anh nhìn như thế nào? Có tốt không?”

Phương kêu lên kinh ngạc:

“Trời ơi! Sự thật hay là tôi mơ đây? Có phải tôi đã gặp ân-nhân của tôi rồi không? Cầu trời cho đây là sự thật, để tôi có thể nói lên lời đa tạ tấm lòng vị-tha quý báu của cô.”

“Anh khách sáo quá! Có gì mà anh phải cảm ơn. Như em đã giới-thiệu với anh. Em là Marie, hai mươi sáu tuổi. Cách đây một năm, sau khi tốt-nghiệp ban Triết-Học và Văn-Chương ở trường Sorbonne Pháp, em sang Mỹ vừa du-lịch mà cũng vừa tìm trường để có thể học thêm những ngành mà em thích.

Chẳng may em bị tai nạn xe hơi và thương tích quá trầm-trọng. Biết mình không thể qua khỏi, nên em đã viết giấy ghi lại nguyện ước cuối cùng của em là hiến đôi mắt của em trước khi qua đời cho ai bị hư mắt, cần phải thay mắt, với một điều-kiện duy nhất: chỉ cho mắt người nào biết nói tiếng Pháp và chỉ cho mỗi người một con mắt thôi. Tức là đôi mắt của em sẽ đem lại ánh sáng cho hai người khuyết-thị. Nghĩa là em muốn đôi mắt của em sẽ tiếp tục được “sống” sau khi em chết đi. Với đôi mắt của em, sẽ đem lại sự hạnh-phúc cho hai người kém may mắn.”

“Marie! Bây giờ tôi mới hiểu vì sao ông bác-sĩ Mỹ đã hỏi tôi câu tiếng Pháp trước khi thay mắt cho tôi.”

“Vâng. Đó là điều-kiện duy nhất để anh có thể nhận được con mắt của em. Nếu không, chắc anh sẽ được thay bằng một con mắt khác.”

“Quý hóa thay tôi đã được mang một con mắt của một người dân của Kinh-Đô Ánh Sáng! Ngay từ khi còn đi học, tôi đã mê những bài học về nước Pháp. Nhất là Paris, thủ-đô của văn-học nghệ-thuật thế-giới. Tôi đã mê vườn Luxembourg, nhà thờ Notre Dame de Paris, điện Panthéon, sông Seine, khu Saint-Germain-des-Prés và nhiều, nhiều nữa những thắng-cảnh cuả nước Pháp đã là giấc mơ tuổi trẻ của tôi.”

“Thì bây giờ, với con mắt của em, anh đã có thể thấy những cảnh vật ấy một cách rõ ràng, nếu anh muốn.”

Biển chiều đột nhiên trở lạnh. Marie rùng mình, so đôi vai, đôi mắt mơ hồ nhìn ra xa. Phương chợt hiểu, và chàng đã cởi chiếc áo jacket mỏng choàng lên vai nàng. Marie xích lại gần Phương hơn để thêm chút hơi ấm. Hai người cùng im lặng dõi mắt ra xa để nhìn từng đợt sóng vỗ vào bờ, tăng cái lạnh của buổi hoàng-hôn trên bãi biển. Marie đột ngột đề-nghị:

“Anh có thể đưa em về nhà không? Em không chịu được lạnh.”

Phương hớn-hở như đứa trẻ được quà. Chàng đưa Marie về nhà.

Bước vào căn nhà của Phương, chợt Marie “ồ” lên và nói với giọng ngạc nhiên:

“Nhà anh đẹp quá! Đúng là tổ ấm của một kiến-trúc-sư.”

Giữa phòng khách, một chiếc “piano à queue” làm tăng thêm vẻ sang trọng của căn nhà. Nàng liếc nhanh về góc phòng, một tủ sách đầy những sách đóng gáy vàng và những cuốn tạp-chí.

Nàng bước đến gần và reo lên:

“Anh cũng thích tạp-chí Playboy à?”

“Vâng. Tôi mê đọc tạp-chí Playboy từ khi còn đi học ở Việt-Nam. Qua đến Mỹ tôi là một độc-giả dài hạn của tạp-chí này liền. Đến nay, tôi đã có hơn ba trăm số rồi.”

Marie nhìn chồng tạp-chí chừng vài chục cuốn, đang còn nằm trong bọc plastic mầu đen, chưa bóc ra. Marie chợt hỏi Phương:

“Mấy cuốn này mới gửi đến hay sao?”

Phương chậm rãi trả lời:

“Bốn năm qua, dù tôi bị mất thị-giác, nhưng tôi vẫn tin có một ngày nào đó, trong tương-lai, mắt tôi sẽ nhìn thấy được. nên tôi vẫn tiếp tục cất giữ Playboy để ngày nào đó, sẽ đọc được. Nay là lúc tôi sắp lần lượt bóc nó ra và nhìn những hình ảnh mà tôi đã một thời yêu thích.”

Marie cúi xuống, cầm những cuốn Playboy lên và nàng xé những bao plastic bọc ngoài, rồi theo thứ tự năm, tháng, nàng tiếp tục xếp lên tủ sách của Phương

Phương đến ngồi trước đàn dương-cầm và chàng bắt đầu dạo bản nhạc “La Marseillaise” như một ý nghĩa chào mừng Marie. Nàng hát theo “Allons enfants de la Patrie...” cùng với giọng trầm trầm của Phương.

Phương trìu-mến nhìn Marie và xúc-động nói:

“Cô biết vì sao tôi chào đón cô bằng bản quốc-thiều Pháp không? Vì cô là V.I.P. nguờ Pháp của đời tôi đó!”

“Em cám ơn anh đã làm em nhớ lại quê-hương nghìn trùng xa cách của em, mà nay em không thể về thăm được.”

“Marie! Còn bản nhạc này tôi sẽ đàn để tặng cô. Cô hãy lắng nghe như lời cầu nguyện phước lành cho cô và tôi: “Ave Maria”.

Marie biết không? Chính nhờ cây đàn dương-cầm này mà tôi sống sót đến ngày nay. Lúc mới bị mù, tôi vô cùng thất-vọng, chán nản và đã có ý định quyên-sinh, vì thấy cuộc đời xem như đã tàn phế. Nhưng khi ngồi trước đàn, đặt tay lên phím đàn, tôi lại yêu đời trở lại. Những nhạc phẩm cổ-điển đã dần dần chinh-phục tôi trở lại. Ngày xưa, khi còn sáng mắt, mỗi ngày tôi chỉ dành hai tiếng đồng hồ để thả hồn vào âm-nhạc. Khi bị mù, thì lúc nào đến với cây đàn, là tôi lại thấy tâm-hồn bay bổng theo những nốt nhạc.

Lúc mắt sáng, tôi nhìn vào bản nhạc để chơi đàn mà nhiều lúc còn sai, chưa vừa ý với những âm-thanh của mình phát ra. Còn khi mù, tai thính hơn, tay có lẽ dẻo hơn, nên khi đàn có “nét” hơn.

Và Marie biết không? Bản nhạc “Ave Maria” mỗi ngày tôi đàn đi đàn lại hơn chục lần, như đọc kinh nhật-tụng để cầu nguyện vậy. Cầu nguyện cho một ngày tôi sẽ thấy lại ánh sáng, dù chỉ còn một mắt, nhưng cũng quý giá quá rồi. Và ngày ấy đã trở thành sự thật nhờ từ-tâm của cô.

Mà cô biết không? Tên Marie của cô - cũng là Maria trong bản nhạc - người đã hiến cho tôi con mắt đẹp để cho tôi tiếp tục nhìn đời và thấy đời sống có ý nghĩa.

Marie tiếp tục nghe Phương đàn thêm vài bài nhạc nữa. Hai người quay sang nói chuyện vô cùng ý hợp tâm đầu. Trước khi ra về, Marie đề-nghị với Phương:

“Từ này, xin anh cho phép em thỉnh thoảng đến thăm anh, để nói chuyện với anh bằng ngôn-ngữ mẹ đẻ của em.”

Nói xong, Marie khoan-thai bước vào con mắt xanh của Phương, khiến Phương ngơ ngẩn như người mất hồn.

Những ngày vui lần lượt trôi qua. Cho đến một ngày kia, Marie đưa một thiếu-nữ nói thạo tiếng Pháp đến thăm Phương với lời giới-thiệu:

“Đây là cô Jeanne, một người Canada chính hiệu. Cô nói tiếng Pháp rất sõi và là người mang con mắt kia của em.”

“Chào Jeanne.”

“Chào Anh. Em xin tự giới-thiệu với anh, em là dân Canada sang Mỹ du-học và tốt-nghiệp Y-tá. Em làm việc tại một bệnh-viện tại tiểu-bang California. Một ngày kia, em vào làm việc tại một phòng thí-nghiệm và chẳng may phòng thí-nghiệm phát nổ, em bị mù hai mắt. Em chờ đợi để được thay mắt trong mấy năm qua. Và em đã được ân-nhân đây cho con mắt. Em cám ơn và cầu nguyện sao cho thấy được mặt ân-nhân của em. Nay em đã được toại-nguyện. Cô đã nói với em: cô không muốn đôi mắt của cô nhìn hai hướng khác nhau. Nên hôm nay, cô đưa em lại đây để được làm quen với anh, cũng như để cho đôi mắt cô được gặp nhau. Em nhớ đến câu nói của nhà văn Pháp Saint Exupéry: “Hai người yêu nhau là hai người cùng nhìn về một hướng”.

Marie tiếp lời:

“Em muốn hai con mắt của em từ nay sẽ cùng nhìn về một hướng.” Marie nhìn Phương, rồi nhìn Jeanne với đôi mắt u buồn, phảng chút dịu hiền, pha chút tinh nghịch.

Jeanne và Phương im lặng, không nói lời nào.

Qua lần gặp gỡ đó, Jeanne thường hay đến gặp Phương sau những ngày làm việc bận rộn. Và tình yêu đến từ lúc nào, không ai biết.

* * *

Nhân ngày được nghỉ lễ “Memorial Day” năm nay, Jeanne và Phương đã đến nghĩa-trang thành-phố Menlo Park, đặt một bó hoa tươi trước mộ-phần của ân-nhân: “MARIE DE RAINIER 1973 –1999.” mà tối trước đó, hai người đã được Marie báo cho biết nơi an nghỉ của nàng. Bùi ngùi trước ngôi mộ của ân-nhân, Jeanne và Phương cùng nói với Marie: “Chúng tôi có ngày hạnh-phúc hôm nay là nhờ lòng bác-ái của Marie. Và chúng tôi hứa với Marie sẽ giữ cho đôi mắt này gần nhau mãi mãi.” Hai con mắt thật nhìn nhau và hai con mắt giả cũng chạm nhẹ nhau, khi đôi môi của Jeanne và Phương chợt quấn quýt với nhau.

Chiều dần xuống, nghĩa-trang vắng lặng và buồn bã. Những chiếc lá rụng được gió nâng lên và đuổi nhau chạy.

Phương nói:

“Chắc Marie cũng vui lây với “đôi mắt để lại cho đời” của mình.” Jeanne quỳ xuống, làm dấu rồi lâm râm cầu nguyện.

Tâm-hồn hai người như đang bay bổng trong một khúc nhạc đê mê không lời.

Câu nói của nhà văn Saint-Exupéry thuở nào như văng vẳng đâu đây. Cùng với nhạc khúc “Ave Maria” trỗi lên trong lòng hai người, cũng như hai trái tim cùng một nhịp đập và đôi mắt cùng nhìn về một hướng.




VVM.18.3.2023

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com