NHỮNG ĐIỀU CHIA SẺ
Trong một lần lên Pleiku
bằng máy bay để đi Kontum; chúng tôi gồm có:
Anh Nguyễn Thành Tấn, chị Trần Ngọc Hải và
tôi: Hồ Thủy. Qua sự giới thiệu của chị Ngọc
Hải; chúng tôi được biết và quen với Cha
Đông vì chị Hải
là người thân của Cha. Mặc
dù thời gian ở gần Cha, tiếp xúc chuyện trò với
Cha rất ít nhưng chúng tôi vẫn cảm nhận được đây
chính là
"thiên
sứ của người nghèo khó, bệnh tật... "
Và trong lòng chúng tôi đã có sự kính phục, yêu
mến lẫn ngưỡng mộ Cha.
Chuyến đi Kontum của
chúng tôi thành công ngoài sự mong ước khi được
Cha đưa đi viếng Đức Mẹ Măng Đen, đây là
lần đầu tiên chúng tôi được viếng Mẹ
Măng Đen. Trên quãng đường đi
và về chúng tôi được nghe Cha kể rất nhiều chuyện,
qua cách kể chuyện dí dỏm của Ngài chúng tôi không
cảm thấy " đường đi sao mà xấu và xa quá". Trước giờ ra phi trường
để trở về Sài Gòn, tôi ngỏ ý với
Cha là muốn được viết những câu chuyện vê công việc mà Cha đã và đang làm,
mỗi câu chuyện là một truyện ngắn, rồi tôi sẽ
làm thành một "tuyển tập truyện ngắn" với
tựa đề là:"Mùa Đông ấm áp". Nghe tôi "xin"
như vậy thì Cha lưỡng lự. Nhưng khi về Sài Gòn
rồi; tôi cứ gọi điện thoại; rồi email cho Cha, nói
chung là "lì lợm làm phiền Cha", cuối cùng
thì Cha cũng đành phải đồng
ý nên bảo thư ký của Cha gởi cho tôi tập tàì
liệu "
Những Điều Chia Sẻ
mà
Cha đã kể bằng lời trong thời gian Cha bị bệnh và
đang dưỡng bệnh vào năm 2011, rồi từ những lời
kể của Cha viên thư ký đã chuyển thể qua chữ viết.
Cha căn dặn tôi là:"
Chỉ đọc cho thỏa tính
tò mò của con mà thôi". Nhận được tập tài
liệu này tôi rất mừng và đã in ra để đọc,
càng đọc tôi càng xúc động, nhờ tập tài liệu
này nên chúng tôi được biết về những công việc
mà các vị Linh Mục Thừa Sai đã làm khi qua Việt Nam
để rao giảng Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô cho người Dân
Tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Rồi bây giờ, qua cách
sống hòa đồng, khiêm tốn của Cha đối với mọi
người, cùng những công việc Cha đang làm cho người
Dân Tộc nghèo khổ, bệnh tật, các thai nhi bị phá
bỏ được Cha chôn cất... nhất là những người đang
bị bệnh phong cùi, thì Cha đã và luôn noi theo tấm
gương của các bậc thầy và các vị Thừa Sai đi trước...
Tôi rất xúc động
vì những
ưu tư khắc khoải của Cha về việc Giáo Hội Công
Giáo Việt Nam
chưa có một
chương trình, một kế hoạch
cụ thể nào được đưa để loan báo Tin Mừng của
Chúa Giêsu đến với mọi người, nhất là những
người không Công Giáo. Cha đã trăn trở và ao
ước về điều này rất nhiều.
Những điều Cha ao ước
không phải là
quá to lớn, hay khó khăn
mà không thể thực hiện được, nhưng chỉ vì:
* Một cây làm chẳng lên non,
* Một con Én không thể làm nên mùa Xuân.
Nhất là Cha luôn tha thiết kêu gọi mọi người
hãy biết Chạnh Lòng nghĩ đến người khác>
Trong tập "Những
Điều Chia Sẻ" này Cha kể về những khó khăn,
gian nan vất vả của các vị Thừa Sai, các Linh
Mục, cũng như các Nữ Tu trong công cuộc loan báo
Tin Mừng cho người dân tộc thiểu số, những người
ở các vùng xa xôi
hẻo lánh, nhất là những
việc mà các vị Thừa Sai, các Linh Mục, các tu sĩ,
các nữ tu đã làm cho người
dân tộc nghèo khổ, người
bệnh tật phong cùi và cả những
người bị tâm thần
nữa... Cha Đông
là người Đã, Đang và Sẽ còn tiếp tục với những
công việc này.
Những lời tâm sự
của Cha trong những ngày nằm bệnh viện mà tôi
may mắn được đọc, ấy chính là cơ duyên của tôi... nên tôi cảm thấy
mình cần phải làm công việc là: Từ lời kể của
cha "để nghe"
mà người thư ký đã chuyển thành những trang viết
trên giấy. Nay tôi muốn viết thành một cuốn sách
" để đọc". Tập tài liệu : Những Điều Chia Sẻ
của Cha đầy ý nghĩa, rất có giá trị về tinh thần.
Cả ba chúng tôi là anh Nguyễn Thành Tấn, chị Trần
Ngọc Hải và tôi; Hồ Thủy đều cùng chung một nhận
xét về Cha như sau: Cha là một
Sứ Giả của người Dân Tộc thiểu số, của
những người nghèo
khổ bệnh tật, những người khốn cùng, và tập Những Điều Chia Sẻ
này chính là một Thông
Điệp cần được phổ biến rộng
rãi cho mọi người. Khi tôi có ý
định chuyển thể từ " văn nói để nghe" thành "văn viết
để đọc " tôi có xin ý kiến của Cha, Ngài
phân vân: "để Cha suy nghĩ xem có
nên đồng ý cho con viết hay không? Bởi vì Cha ngại
lắm nếu... nói về mình; hay... được người khác
viết về mình". Nhưng vì
tôi năn nỉ mãi nên cuối củng thì Cha cũng ... Chạnh Lòng...
tuy nhiên Cha bảo tôi là phải giử nguyên ý, kể cả
từng câu, từng chữ cũng không được khác với tập
tài liệu của cha, đồng thời Cha cũng không muốn đề tên Cha là tác giả.
Tôi biết Cha sợ tôi sẽ "múa bút quá tay"...
nên Ngài mới dặn dò như thế. Với Những Điều
Chia Sẻ của Cha thì tôi chỉ là người chuyển
thể và trình bày phần hình thức. Tôi rất vui với công
việc này, tôi cũng mong rằng sau khi chuyển thể xong
và in thành sách, rồi từ cuốn Sách này sẽ truyền
tải tới con tim mọi người, để có thật nhiều
người biết đến những người nghèo khổ; bệnh
tật cần giúp đở, cũng như những người chưa biết
đến Tin Mừng của Chúa, những người Dân tộc thiểu
số đang sống ở những vùng xa xôi hẻo lánh; những
người bệnh phong cùi... đang rất cần đến chúng
ta, mà cha Đông là người đã lo cho họ từ mấy chục
năm nay và Ngài vẫn còn đang lo..
. Những người nghèo khó, khốn khổ bệnh tật, nhất
là những người bị bệnh phong cùi đang
có rất nhiều ở quanh ta, họ rất cần đến sự chung tay, chung lòng và
góp sức của chúng ta. Sáng Chúa Nhật khi chúng
tôi dự Thánh Lễ ở nhà thờ Thăng Thiên,
cha Đông đã giảng một bài giảng làm chúng tôi
vô cùng xúc động, nhất là khi Cha nói
đến hai chữ Chạnh Lòng.
Chỉ có hai chữ
Chạnh lòng thôi nhưng
mà thật đầy đủ ý nghĩa.
text-decoration:none;color:#333333">Với cảm nhận của
chúng tôi thì cha Đông là một tấm gương sáng
để chúng ta học hỏi và
noi theo. Cuốn sách này là
cả tâm huyết của tôi; dù tôi chỉ làm công việc
biên tập mà thôi.
Biên tập: Hồ Thủy
1 . ĐỜI NGƯỜI VẮN VỎI
TÔI RONG CHƠI GIỮA ĐỜI BIẾT ĐÂU NGUỒN CỘI
Những ngày buồn nghĩ đến thấy vui vui, Những ngày vui sao lại thấy bùi ngùi...
Năm nay 2011, tôi được tròn 70 tuổi;
nếu tính theo kiểu của mẹ tôi thì năm nay tôi 71 tuổi,
bởi vì cả 9 tháng ở trong bụng mẹ nữa. Tôi sinh
ngày 24 tháng 3 năm 1941 theo giấy rửa tội, nhưng mà
nếu đi tu thì bắt đầu từ 12 tuổi; mà lúc đó
tôi được 14 tuổi cho nên phải làm giấy khai sinh lại,
hạ năm sinh của tôi xuống là 1943 theo giấy tờ. Tôi
tên là Nguyễn Vân Đông, tôi cũng không hiểu tại sao
không phải là Nguyễn văn mà là Nguyễn Vân. Có lẽ
khi làm lại giấy tờ thì người ta để cái tên như
thế, và bây giờ mãi mãi tôi là Nguyễn Vân Đông,
những người nào không thân thiết thì người ta đề
là Nguyễn văn Đông, mỗi lần tôi đi bưu điện để
nhận tiền thì người ta phải hỏi lại người gởi
để sửa cho đúng là Nguyễn vân Đông, lúc đó người
ta mới cho tôi nhận tiền. Quê tôi ở Bình
Định, một xứ đạo kỳ cựu của Giáo Phận
Qui Nhơn là xứ Nhà Đá, xã Mỹ Hiệp,
huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Nhà Đá
không phải là nhà tù, mà Nhà Đá là một
cái nhà thờ làm toàn bằng đá ong ở Biên Hòa. Tôi lớn lên ở
đồng quê, từ nhỏ tôi không được đi học cấp
Tiểu Học, học hành ít hơn đi chăn bò. Mỗi khi
muốn học thì phải dở cơm (mang cơm theo) tới nhà
một người nào đó, như
thầy Biên chẳng hạn để mà học cho biết cái chữ,
học được biết cộng, trừ, nhân, chia và chưa bao
giờ tôi được học cấp một như các em bây giờ. Khi tôi 14 tuổi thì
có một cha của địa phận Kontum, quê cũng ở nhà Đá, chịu chức năm 1953, là
khoảng thời gian mà Bình Định nằm trong vùng kháng
chiến (1945- 1954) và là vùng Việt Minh, nên cha đó
không thể về gia đình để Vinh Qui Bái Tổ được,
cho đến khi chính thể Đệ Nhất Cộng Hòa của ông
Ngô Đình Diệm lên cầm quyền vào năm 1955 thì Ngài
mới về. Ngài là Linh Mục Nguyễn Thúc Nên ( bây giờ
hưu ở Tòa Giám Mục Kontum). Sáng nào tôi cũng đi giúp
lễ cho Ngài, hồi đó không có lễ đồng tế cho nên
các Cha khách tới thì làm lễ ở bàn thờ bên cạnh. Rồi một ngày nọ
Ngài hỏi tôi: - Con có muốn đi
tu không? Đi tu ở Kontum. Tôi cũng chả biết
Kontum là ở cái chỗ nào. Ngày xưa mỗi lần
tôi ở chỗ nhà mình thấy trên núi nó
cháy thì tôi hay nói:" Núi
cháy mọi chạy ngay đuôi". Tôi trả lời ngay
là tôi muốn đi Kontum; bởi vì đi Kontum thì
tôi mới được dịp đi ôtô... Từ lúc nhỏ
cho đến khi đó chưa bao giờ tôi được đi
ôtô, cùng lắm tôi theo mẹ đi xe kéo, có người
kéo chạy... còn nhanh hơn nữa
là đi xe ngựa, đi xe ngựa thì 7 hoặc 8 người. Nhưng
mà nếu đi xa thì đi ôtô. Tôi đồng ý đi Kontum ngay.
Vì thế cuộc đời đi tu của tôi bắt đầu từ đó. Khoảng cuối tháng 8
năm 1955 thì tôi lên Kontum. Tôi nhớ khóa tựu trường năm
đó bắt đầu học là vào ngày 16 tháng 8 sau kỳ thi,
cho nên để thi vào Chủng Viện thì tôi thi có một
mình. Lần đầu tiên tôi gặp
một người Pháp là Đức Giám Mục Kontum. Sau này
tôi rất yêu mến Ngài. Cha Nên dẫn tôi lên gặp Ngài,
Ngài ôm tôi (mà ở quê Bình Định của tôi chống Pháp,
tôi cũng nghĩ người Pháp là thế này thế nọ). Ngài hỏi tôi bằng tiếng
Việt mà giọng lơ lớ: - Nhà con có
mấy anh em ruột? Tôi nghe không rõ, tôi
tưởng hỏi "Nhà con có mấy
đám ruộng"? Tôi trả lời với Ngài là: - Con không biết nhà
con có mấy đám ruộng. Ngài bảo: - Hỏi anh em ruột chớ
hỏi ruộng làm gì? - Hỏi anh em ruột thì
con biết. * Nhà tôi có
tất cả là 8 anh em, 5 trai và 3 gái. Và Ngài bảo các
Cha ra bài thi cho tôi. Bài thi gồm có một bài luận
văn (tôi chưa bao giờ làm luận văn) kể cuộc hành
trình từ Bình Định lên tới Kontum, tôi cũng không
biết làm cách nào để kể, nhưng mà
tôi biết chắc chắn rằng tôi nói giọng
Bình Định, mà có kể thì cũng không được bao nhiêu.
Tôi đã làm bài luận văn như thế này: "Ngồi trong xe dòm ra ngoài
thấy xe nó chạy, thấy cây nó chạy ngược hết".
Rồi thì tôi làm 1, 2 bài toán đố, tôi cũng chưa
bao giờ làm toán đố lần nào cả cho nên tôi cũng
không biết phải làm sao, tôi làm được nữa bài đầu
tiên: cộng trừ nhân chia gì đó, rồi sau đó làm
10 chữ tiếng Pháp. Qủa thật là tôi không biết một
chữ tiếng Pháp nào... nhưng mà may phước có một
chữ, ấy là tôi có một đồng xu để thắt kiện,
có một cái lông gà để đá kiện, một bên có
chữ Le Sou (là đồng xu), một bên có chữ đồng xu
nên tôi làm được một chữ là "Le Sou". Và
kết quả là các bài thi của tôi không đủ điểm vào
Chủng Viện Kontum. Nhưng để về
đến Bình Định thì phải có người lớn
dẫn tôi về. Mà hồi đó đi từ Bình Định
lên tới Kontum là phải đi 2 ngày, bởi vì
có mấy cái cầu trong thời kháng chiến bị sập cho nên khi qua
bên kia phải chuyển xe để đi xe khác, nhất là cầu
Hang Dơi trên đèo An Khê thì phải chuyển xe, rồi phải
đi bộ một đoạn mới tới An Khê, tới An Khê là
hết một ngày. Bây giờ đi chỉ có một tiếng rưỡi
đồng hồ thôi là tới An Khê rồi. Tôi nhớ khi tôi lên tới
Kontum là vào buổi tối (cuối tháng 8-1955). Trời ơi! Ban đêm từ An
Khê lên tới Kontum, lần đầu tiên tôi thấy bóng điện.
Lạ lùng quá! Lạ lùng hết sức đối với tôi và
tôi thấy các bạn của tôi nó rờ vô cái vách là
tắt, mà rờ lại ở đó thì nó sáng. Tôi cũng không
hiểu là thế nào, ăn cơm tối xong tôi lén lên gác,
tôi rờ thì nó không có sáng. Sau này mới biết là
phải vặn và vặn tròn thì nó mới sáng hoặc là
nó mới tắt được. Lần đầu tiên tôi lên
hỏi một Cha già: - Chớ con "đi gò
" thì đi ở chỗ nào? Cha già chỉ cho
tôi vào một cái nhà có mấy cái phòng, tôi
thấy cái chỗ đó (bây giờ cũng còn trong
Chủng Viện Kontum), có cái chữ W và chữ
C, tôi chả biết đó là chữ gì, tôi vào trong phòng
đó, nó bốc ra một cái mùi giống... và có một
cái lổ có nước. Tôi cũng chả biết phải làm thế
nào mà "đi gò" ở đó. Tôi bèn nghĩ tới
cái vườn ở Chủng Viện, nó là cái rừng không,
đi gò ở đó thì sướng hơn nhưng mà dù sao tôi cũng
hỏi Cha già: - Làm thế nào để
đi gò trong cái chỗ đó? Thì Ngài mới chỉ
cho tôi biết là phải đi như thế nào...
thế nào... Lần đầu tiên ở tuổi 14 tôi mới biết
"đi gò" một cách khoa học là như vậy đó. Đi chăn bò tôi đi chân
không, tôi thương bò hơn là yêu mến việc học hành.
Bò của tôi, tôi nhớ tên hết: con bò Pháo, con bò
Nu, con bò Mẫm, con bò Bét, con bò Kiệu... và con nào tôi cũng chăm
sóc kỹ lưỡng. Trời ơi! 14 tuổi mà
tôi chưa bao giờ đi dép... vì tôi quen đi chân
không. Cha tôi mua cho một đôi dép "bình trị
thiên", tôi nhớ bạc tín phiếu lúc đó
là 500.000 đồng. Tôi sợ mang nó mòn nên tôi bỏ vô trong cái rương, chừng đi
lễ tôi mang vào. Lần đầu tiên tôi mang đôi dép râu
vô đi lễ, các bạn của tôi ngó xuống chân tôi, chúng
nó cười kêu tôi là: "ông việt minh con...ông việt
minh con", làm tôi cũng mắc cở. Rồi ông Cha già Nhạn cho tôi một
đôi sandal. Trời ơi! Tôi xỏ chân vô mà nó rộng thênh
thang, chắc là bơi trong đó cũng được nữa, nhưng
mà nó không phải là chiếc dép "râu" cho nên...
thôi thì trông nó cũng dễ coi. Lần đầu tiên tôi mới
thấy cái bánh mì. Sáng
các bạn của tôi ăn bánh mì có pho mát nữa. Tôi ở
nhà chỉ có ăn bánh tráng Bình Định thôi, cho nên tôi
thấy người ta lấy bánh mì bỏ pho mát vô ăn, tôi
cũng làm vậy, nhưng mà... trời ơi! nó thúi quá tôi
ăn không được, tôi bèn bỏ miếng pho mát ra ngoài
rồi đổ nước mắm vô bánh mì mà ăn. Các bạn
tôi ngạc nhiên lắm. Và khi Chủng Viện
quyết định là tôi phải đi về, tôi cũng không
lấy gì làm quan trọng , chỉ đợi người lớn
dẫn về: "tôi về thì về".
Những ngày đó tôi đi thu lượm những cái chai bằng
thủy tinh, vì ở Bình Định quê tôi không có những
cái chai như thế cho nên tôi thu, góp thật nhiều, định
về cho cha tôi. Nhà tôi chỉ có một chiếc xe đạp,
mà xe đạp đó nó cũ lắm rồi, tôi thấy trên Kontum
xe đạp nào cũng có gắn một cái chuông, bóp nó
kêu "cưng cưng". Tôi thích lắm bèn xin ông Cha
già Nhạn cho tôi một cái chuông xe đạp. Ngài bằng
lòng cho tôi một cái, tôi để dành cái chuông đó,
tối tối tôi trùm mền lại rồi bóp cái chuông, nó
kêu "cưng cưng" làm tôi vui lắm. Trù tính để
đem về cho cha tôi. Nhưng tôi lại có
cái tính ưa tò mò. Trong Chủng Viện thì các
Linh Mục là người Pháp hết - thuộc Hội Thừa Sai Paris - tôi nhớ có cha Décrouille
(cố Tôn), cha Lantrade (cố Lãng), cha René Thomann (cố Mẫn).
Tôi hay chui vô phòng của các Cha để xem mà không biết
gõ cửa. Tôi coi người ta cạo râu, mấy ông Cha đuổi
tôi ra ngoài và rồi các Cha cũng có ý kiến với
Cha bề trên René Thomann về tôi thế này thế nọ. Cha René Thomann hỏi
tôi: - Con có
muốn học không? Tôi trả lời: - Con muốn học. Tôi nhớ đó
là đầu tháng 9 năm 1955. Cha René Thomann cho tôi
một cuốn sách bằng tiếng Pháp, thêm mấy
cuốn vở, rồi sách giáo lý và một cây bút. Tôi
hỏi: - Có cây bút mà
có bình mực không? Ngài cười bảo cái
bút nầy mình bơm mực vô chỗ này... chỗ này
rồi mình viết là khỏi cần bình mực. Lần
đầu tiên tôi thấy một cuốn
tập mà giấy nó lại trắng như thế. Ở dưới vùng
quê của tôi là giấy Việt Thắng, nó hâm hẫm, viết
bút mực dễ bị nhòe. Còn giấy này thì... ôi chu
cha! Nó đẹp ơi là đẹp. Rồi các bạn học, tôi
cũng học. Tôi nhớ lớp tôi lúc
đó là bốn mươi bảy người. Ngày nào làm bài thì
tôi cũng làm bài, ngày nào học thì tôi cũng học
và cuối tháng đó, trời ơi! Tôi đứng cao hơn hai
người trong lớp, mà hai người đó đã thi đậu vào
Chủng Viện. Cuối tháng 9 thì nhà trường quyết định
cho tôi được ở lại tu. Tôi thản nhiên không buồn
cũng không vui. Nhưng tôi
không có đồng phục của nhà trường, tôi chỉ
có áo dài đen với quần bà ba trắng mà
thôi. Đồng phục ngày Chúa Nhật của nhà trường là
áo sơ mi trắng với quần Pantalon trắng. Thế rồi
khi quyết định như vậy thì nhà trường mới may đồ
cho tôi. Chu cha ơi! Lần đầu tiên được bận đồ
Tây, tôi thấy mình cũng đẹp! Ở Bình Định thời đó
thì mọi người chỉ mặc vải ta mà thôi (vải thô, vải
tám ú), và tất cả vải thì phải nhuộm đen bằng cách
ngâm vải trong nước lá bàng nấu sôi, rồi sau đó
ngâm lại trong bùn để nó thành màu đen. Ở trong quê
tôi từ năm 1945-1954 là vùng kháng chiến chống Pháp,
máy bay thả bom luôn nên chỉ được mặc đồ đen, đồ
xám mà thôi, mặc đồ này khi gặp nước nó sẽ ra màu
dữ dội lắm. Một bữa kia, lần đầu tiên tôi mặc
bộ đồng phục màu trắng, bên trong tôi bận cái quần
vải ta nhuộm đen. Nên khi đi chơi dọc đường về thì
trời mưa to, cái quần xà lỏn đó nó ra nước, thấm
qua cái quần Pantalon trắng của tôi. Các bạn chúng
nó cười tôi. Chu cha ơi! Tôi khóc suốt một buổi
chiều luôn, bởi vì tôi chỉ có một cái quần đồng
phục đó mà thôi. Như thế là
tôi bắt đầu đi tu, tôi cố gắng học nên việc
học của tôi nó cũng tiến bộ lên dần dần. Nhà trường cho tôi
biết là cuối năm tôi phải đi thi để
lấy bằng Tiểu Học, vì có bằng Tiểu Học
rồi tôi mới có thể học tiếp lên lớp
trên cao hơn nữa... Hồi đó tôi cũng chả biết cái
bằng Tiểu Học là cái bằng gì? Nhưng mà tôi cũng
quyết tâm đi thi Tiểu Học cho nó đậu. Tết đầu tiên tôi không
được về nhà, bởi vì nhà tôi xa quá
không có ai dẫn về cho nên tôi
ở lại ăn Tết trong nhà trường, Cha bề trên René
Thomann Ngài cũng thương tôi, Ngài bảo các bạn ở Kontum: - Tết thì vô
chơi cho nó vui. Lần đầu tiên các
cha Thừa Sai cho tôi pháo đốt. Chu cha ơi!... Tôi
đốt pháo mà vui hết sức vui,
các bạn của tôi cũng đốt pháo ném nhau chơi vui lắm.
Đứa nào cũng được mặc đồ mới hết: một cái
quần và một cái áo bà ba trắng có túi đàng hoàng.
Thế rồi ba đứa tụi tôi thấy một bãi cứt bò,
nó “ấy” ngay trước Chủng Viện. Tôi thì quen cái
đó rồi thành ra tôi quì xuống cắm viên pháo vô
đó. Ba đứa kia chằm hăm ngó, viên pháo bị đốt nó
nổ cái "phạch", chu cha nó văng phân bò tùm
lum lên mặt, lên áo. Các cha Thừa Sai đứng trên lan
can nhìn xuống, các Cha cười tụi tôi quá chừng quá
đổi. Cha bề trên nói với
chúng tôi: - Chưa bao giờ Cha được
" ăn" tết ở Việt Nam mà vui như vậy
đâu. Thế là các Cha
cho chúng tôi pháo để đốt tiếp. Năm đầu tiên tôi đi tu là
như thế. Rồi thì cuối năm
tôi thi Tiểu Học, ngôi trường mà tôi đi thi
tên là Trường Tiểu Học Ngô Đình Khôi ( bây
giờ là chợ Kontum). Khi có kết quả thì
người ta "alô" tên thí sinh, rồi hô
phiếu báo danh số mấy... tôi đứng trên cái bàn để
chờ nghe "alô" tên mình. Chu cha ơi! Tôi đậu
Tiểu Học thì tôi mừng gì mà mừng... đang đứng
trên bàn tôi nhảy nhanh xuống để chạy về. Nhưng trên
bàn có một cái đinh, nó kéo rách cái quần của
tôi từ dưới lên trên mà tôi cũng không biết, khi
về tới trước Chủng Viện là cái đồi, tôi cảm
thấy chân nó lạnh lạnh, tôi liền ngó xuống, "Trời!... Cái quần của mình nó rách
hồi nào mình cũng không biết nữa". Tôi
về khoe với cha bề trên: - Con đậu rồi cha ơi...
mà con bị rách cái quần. Cha bề trên cũng rất
mừng khi biết tôi thi đậu Tiểu Học để
có thể học tiếp nữa. Và tôi bắt đầu
năm đầu tiên ở Chủng Viện là như
thế. Đó là năm 1955-1956. Tới kỳ nghỉ
hè tôi về thăm quê nhà, tự nhiên
tôi cảm thấy mình cao hơn và oai hơn. Và Chúa đã
gọi tôi sau đuôi những con bò. Cũng vào năm 1955 thì Đức Cha mở trường
và mời các Sư Huynh dòng Lasan lên dạy. Chúng tôi vừa
học trong Chủng Viện, mà Trường Lasan ở gần Chủng
Viện cho nên chúng tôi cũng qua học ở bên trường Lasan,
nhưng lớp của tôi chỉ học tiếng Pháp ở bên đó,
còn các môn khác thì học ở nhà. Cho tới năm 1959, lúc bấy giờ Chủng Viện
mỗi năm đều có tuyển chủng sinh. Nhất là các trại
di cư ngoài Bắc vào sinh sống ở vùng Ban Mê Thuộc,
tỉnh Đăk Lăk bây giờ, thì chủng sinh ngày càng đông.
Thế nên nhà trường muốn tuyển một số học sinh
đi học chương trình Pháp, và tôi là một trong số
mười ba người được tuyển đi học ở Dòng Phanxicô
-Thủ Đức. Học viện đó học chương trình Pháp. Tôi
đã học ở dòng Phanxicô từ năm 1959 cho tới năm 1964
và thi đậu tú tài Pháp, sau đó nhà Dòng tổ chức cho
các chủng sinh thi tú tài Việt và tôi cũng may mắn thi đậu. Khi tôi về trình diện
với Đức Cha Kontum thì Ngài nói: - Bây giờ con có
bằng tú tài rồi, tú tài Pháp có, tú
tài Việt cũng có. Con hãy suy nghĩ cho kỷ... như
con đã biết Kontum là tận cùng thế
giới. Nếu con làm Linh Mục ở Paris thì con chỉ
cần dạy giáo lý cho tốt, rồi con có thể đi thăm
mục vụ, con có thể làm các phép Bí Tích cho mọi
người... như vậy là cũng được rồi, còn như mà
con muốn làm Linh Mục ở Kontum thì ngoài những việc đó
ra, con còn phải biết cho người nghèo
thuốc khi bị bệnh, con phải biết sửa xe đạp cho dân
làng, phải biết quay cho máy điện
nổ rồi con còn phải biết... đỡ đẻ nữa. Tôi nghe nói mà cảm
thấy mắc cười, nhưng quả thật là như thế, và tôi vẫn
quyết tâm đi tu làm Linh Mục ở địa phận Kontum, vì từ những
năm 1955
đến 1959
tôi đã rất thích núi rừng Kontum, tôi cũng rất thích
đời sống đơn sơ mộc mạc, chất phác của người
dân tộc, nhất là khi ở trong Chủng Viện cũng có
một số anh em là người dân tộc. Khi tôi quyết định
đi tu ở địa phận Kontum thì Đức Cha giới thiệu
cho tôi đi tĩnh tâm một tuần tại dòng Mỹ Ca
ở Ba Ngòi - Cam Ranh. Sau khi tĩnh tâm về tôi vẫn
nhất quyết đi tu ở địa phận Kontum. Ngài sai
tôi đi dạy học tại Chủng Viện Kontum niên khóa 1964-1965.
Kỳ nghỉ hè 1965 Ngài lại giới thiệu tôi
đi tĩnh tâm ở Dòng Thiên An - Huế- để xác
định lại ơn kêu gọi của mình, tôi nhớ ở
đó tĩnh tâm thì rất yên tĩnh, trong Dòng có
một vườn cam trái rất ngọt và
tôi đã từng được thưởng thức. Lần tĩnh tâm này về
tôi vẫn xác định với Ngài là tôi đi tu
ở Kontum. Ngài lại bảo tôi: - Con phải đi dạy
học nữa! Tôi thưa với Ngài: - Con còn trẻ... Đức
Cha cho con đi Chủng Viện đi... chớ Đức Cha cho con đi
dạy miết vậy? Ngài bảo: - Cứ đi dạy
đi... Sau đó Ngài hỏi: - Con quyết tâm đi
tu, vậy con có áo Dòng chưa? Tôi nói: - Áo Dòng con may, nay mai
thì có chứ khó gì đâu. Ngài lại cho tôi đi
dạy học một tháng nữa. Rồi Ngài bảo: - Con chuẩn bị lên
học ở Giáo Hoàng Học Viện trên Đà Lạt. Tôi đã lên học
ở Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt 8 năm. Năm 1972 tôi
được thụ phong Linh Mục. Ở Đà Lạt có
hai nhà chủng viện Kontum ( vì lúc đó tỉnh Kontum bị chiến tranh ) một nhà gọi
là Chủng Viện Kontum Anh ( CVK anh), học cấp III, các chủng
sinh đi học ở trường Adran, còn một nhà nữa gọi
là Chủng Viện Kontum Em (CVK em) dành cho chủng sinh cấp
II. Nhà này Đức Cha mượn của Dòng Chúa Cứu Thế
- ở đồi Tùng Lâm- Đà Lạt. Hai ngôi nhà này bây giờ
Nhà Nước sử dụng hết rồi. Thế rồi Đức Cha
sai tôi qua ở bên nhà CVK anh để dạy học, làm quản
lý, làm linh hướng bởi vì trong nhà có mười một
giáo sư nhưng chỉ có hai giáo sư là người Việt mà
thôi. Tôi ở đó
cho đến năm 1975 thì đất nước xảy ra biến cố lớn,
mọi người đều di tản, Chủng Viện của chúng tôi
cũng bị giải tán chạy về Sài Gòn. Tháng 5 năm
1975 lúc tôi đang phục vụ ở giáo xứ Thị Nghè thì Đức Cha nhắn với tôi: - Cha về ngay Kontum, đừng
có ghé Đà Lạt nữa. Ngày 19
tháng 5 năm 1975 tôi về tới Kontum,
Đức Cha rất vui mừng khi gặp tôi và Ngài bảo: - Cha hãy chờ ở
đây và chúng ta sẽ tìm cách gom anh em mình lại. Năm 1972 Chủng Viện Kontum bị hư hại
nặng, nhưng trong 3 năm, từ năm 1972-1975 Đức Cha đã
cho tu sửa lại rất đẹp như chúng ta thấy bây giờ,
Ngài quyết định sẽ mở Đại Chủng Viện tại Kontum. Khoảng tháng 8 năm 1975. Cha Giuse Bùi
Đức Vượng lên làm cha bề trên của chủng viện,
còn tôi thì vừa làm quản lý vừa dạy môn Kinh Thánh,
có thêm cha Giuse Hiệu, cha Luca Bùi Thủ, cha Phanxicô Phạm
Hữu Thế làm giáo sư, dĩ nhiên là có Đức Cha Alexi Phạm
Văn Lộc... chúng tôi cùng làm việc với nhau và rất
yêu thương nhau. Tôi biết cái gì tôi dạy cái đó,
và các vị khác có lẽ cũng như thế! Anh em chủng
sinh học mỗi ngày một buổi, thời gian còn lại thì
đi làm mướn, làm cỏ lúa, làm cỏ đậu phộng
và làm bất cứ cái gì có thể làm được... Tháng
8-1976 thì Chủng Viện bị đóng cửa hoàn toàn
nên không còn một chủng sinh nào, và vì thế
mà tôi bắt đầu làm quản lý ở Tòa Giám
Mục. Quản lý thời bấy
giờ thì chỉ có nuôi heo, nuôi bò bán
nghĩa vụ cho Nhà Nước, rồi làm
ruộng, làm rẫy... Những năm đó là những năm vất
vả, ăn cơm lúc nào cũng có ghé (độn) mì. Cho nên
chúng tôi thấy những ngày, những năm tháng đó đúng
là: Những ngày buồn nghĩ lại thấy vui
vui. Mình thiếu thốn nhưng mình thấy trong
lòng rất vui. Cứ như thế
cho đến năm 1983 thì tôi bị kiệt sức. Tôi
đã khóc rất nhiều khi có lệnh phải giải
tán Chủng Viện Kontum. Trước đó mấy ngày
thì Cha giám đốc Chủng Viện bị bắt,
tôi có cảm giác chới với, hụt hẫng như
mình bị mất đi cái gì quí giá nhất. Trong nhà có
70 chủng sinh, điều làm cho tôi lo lắng là tiền cho
các chủng sinh làm lộ phí đi về cũng không có. Tôi
tự hỏi: "không biết ý Chúa như
thế nào" ? Anh em chủng
sinh đều ở xa, nào là Ban Mê Thuột, nào là Nha Trang,
rồi Sài Gòn... Nhưng bây giờ nghĩ lại thì tôi thấy
rằng Chúa đã sắp xếp hết mọi việc: khi giáo
dân người này dấm dúi cho ít tiền, người khác
cũng dấm dúi cho ít tiền, cuối cùng thì cũng giải
quyết được việc cho các anh em chủng sinh về. Một
số anh em ra nước ngoài và sau này trong số anh em đó,
có những người đã trở thành Linh Mục như: cha Tiến ở
Đài Loan, cha Lê Văn Thắng ở Hồng Kông, cha Thạch ở Mỹ,
cha Giảng và cha Đích ở Singapo, cha Hải ở Australia, cha
Thân ở Canada...Một số anh em khác thì về nhập Địa
Phận nơi địa phương của mình. Cuối cùng ở lại
Chủng Viện có cha Hiệu và tôi, còn có 8 con bò, nhiều
con heo, một chuồng thỏ, mấy bầy gà, ngỗng, vịt nữa,
rồi lại có một vườn rau xanh...như vậy mới thấy
được là các thầy đã làm việc rất siêng năng
và giỏi giang. Địa phận Kontum chúng tôi không có
nhiều ơn gọi như các địa phận khác. Lý do: Kontum chúng
tôi là một địa phận mà đa số giáo dân là người
thuộc các sắc tộc thiểu số, không có điều kiện học
hành như mọi người. Hiện bây giờ thì địa phận
Kontum có khoảng gần 250.000 giáo dân, Linh Mục chúng
tôi thì chỉ trên dưới 70 người. Trong khi Địa Phận
Huế trên dưới 70.000 giáo dân thôi mà đã có cả
trăm Linh Mục. Địa phận Qui Nhơn cũng thế, khoảng 70.000
giáo dân mà cũng có cả trăm Linh Mục. Chúng tôi có gần
250.000 giáo dân, và trong 26 địa phận ở Việt
Nam thì giáo dân người dân tộc
là đông nhất, với khoảng 150.000 người, lại có 7
thứ tiếng khác nhau, và vì thế mà công việc của
các Linh Mục trong Giáo Phận rất vất vả và gặp nhiều
khó khăn. Các Linh Mục phải học các thứ tiếng dân
tộc, cũng có Linh Mục học được vài thứ tiếng,
thế nên việc thuyên chuyển Linh Mục từ vùng này sang
vùng khác cũng là một vấn đề không mấy dễ dàng
đối với các Linh Mục trong Địa Phận Kontum. Người kinh trong địa
phận chúng tôi có không tới 90.000 người,
nhưng mà nói đủ thứ giọng: từ giọng Bắc, Hà Tỉnh,
Quảng Bình, Quảng Trị, Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Bình Định... trong nhà thờ người kinh không thôi cũng
đã khó đọc kinh chung với nhau rồi, nếu người Bắc
xướng kinh thì người Quảng Ngãi chịu thua, mà người
Quảng Ngãi xướng kinh thì người Bắc cũng không đọc
được, cho nên chúng tôi cũng khá vất vả trong vấn
đề mục vụ và luôn cả vấn đề phụng vụ. Một
cuốn lịch mà đưa về Qui Nhơn thì chỉ việc bán
cho giáo dân, còn ở Kontum thì chúng tôi phải dịch
ra tiếng Bahnar, rồi tiếng Jarai...v.v... Đó là cả một
sự cố gắng của địa phận Kontum. Kể từ năm 1975, thì chúng tôi bắt đầu
cảm thấy thật khó khăn, nhưng dần dà thì nhà nước
cũng có phần nào đổi mới về các chính sách đối
với các tôn giáo. Có một Linh Mục đã chia sẻ:" thời
bao cấp thì làm việc khỏe hơn nhiều, bởi vì không được
đi làm lễ và ban các phép bí tích!” Những năm tôi làm quản lý Tòa Giám Mục, ở đây
thiếu thốn về mọi mặt. Thời kỳ còn ở Chủng Viện,
từ năm 1975 - 1976, có 70 chủng sinh
nhưng lại không có một hột lúa, hay một viên thuốc nào.
Mọi người đều phải đi làm thuê làm mướn. Tôi
nhớ có một lần chúng tôi đi làm mướn, người
ta trả công cho chúng tôi một bao đậu phộng. Số đậu
phộng đó nếu như tôi là người biết tính toán
một chút - vì tôi là quản lý Chủng Viện mà - thì
tôi sẽ bảo đem phơi khô rồi làm muối đậu phộng
để dành trong nhà ăn từ từ cho nó đở, bởi vì
chúng tôi ăn uống rất là thiếu thốn kham khổ, nào
là ăn các thứ rau tập tàng, rồi mắm... còn nước
mắm thì pha thêm nước muối vào, nếu nhỏ lên bàn
một giọt nước mắm đó, đến chiều nó lại thành
một giọt muối. Không hiểu sao hôm
đó tôi thèm ăn đậu phộng luộc quá
chừng, cho nên tôi nói với thầy quản lý: - Thôi, mình đừng có
nấu cơm, mình luộc hết đậu phộng rồi cho mỗi
bàn một thố. Chiều hôm đó chúng tôi ăn toàn là
đậu phộng luộc... trời ơi! Sao mà nó ngon thật
là ngon, ai cũng ăn sạch bách luôn. Nhưng tôi lại không
biết một điều là: vì lâu ngày (tôi nhớ đó là
tháng 9- 1975)
không có chất béo trong ruột cho nên tối hôm đó tự
nhiên tôi cảm thấy đau bụng hết sức, còn muốn đi
tiêu nữa... tôi chạy ngay xuống nhà tiêu thì... trời
ơi! Trong nhà tiêu đầy người, kẻ thì ở trong, người
thì ở ngoài chờ, tôi thấy cha giám đốc cũng đau
bụng nữa, người ta chọc tôi: "mê ăn mà ra cả".
Tôi bỗng nảy ra một sáng kiến là: - Sao chúng ta phải chờ
như vậy? Chúng ta ra vườn đi... vườn chúng
ta rộng mà! Mọi người đều
ra vườn một cách vui vẻ. Tối đó vì chúng
tôi không có được một viên thuốc nào, nên các
sơ Phaolô mới nghĩ ra một cách là lấy lá ổi đem
nấu chín, lá ổi thì có vị chát, mỗi người uống
một ly nó cũng đở. Sáng bữa sau dậy đi lễ tôi
thấy mắt của Cha bề trên trỏm lơ, và mắt người
nào cũng trỏm lơ hết trơn. Chu cha! Nghĩ mình cũng dại
thật, nếu mà mình làm muối đậu phộng ăn thì
tốt hơn nhiều. Những năm đó
thật là vất vả, đi mua một chai thuốc đỏ
mà thôi cũng phải chờ đến cả tiếng
đồng hồ, khi gần tới phiên mình thì họ kéo cửa
cái rụp rồi lạnh lùng nói: - Hết giờ... Thế là lủi thủi
đi về, vừa đi mà trong bụng vừa ấm ức
tức tối, miệng thì lẩm bẩm cằn nhằn... Cũng vào những năm
đó vì chúng tôi không có hộ khẩu cho
nên không được mua vải, ai có hộ
khẩu thì mỗi năm một người được mua 1m vải. Tới tháng
8 khi có quyết định phải giải tán Chủng Viện,
điều này làm chúng tôi nghẹn ngào, đắng lòng và
đắng miệng... * 13-6-1976: Cha giám đốc Chủng Viện
bị đưa đi cải tạo. * 8-8-1976: Có quyết định giải tán
Chủng Viện và tôi được chỉ định làm giám đốc Chủng
Viện. * 25-8-1976: Không còn một chủng sinh
nào được phép ở lại Chủng Viện. Đây là
những tháng ngày u ám nhất đối với chúng tôi. Tôi cảm
thấy rất đau khổ và trong khoảng thời gian này tôi cũng
đã khóc rất nhiều. Kể từ năm 1976 tới năm 1983
tôi làm quản lý cho tòa Giám Mục. Trong 7 năm ấy tôi
đã làm đủ thứ nghề bất đắc dĩ như:
làm lúa, trồng mì, trồng huỳnh tin, trồng gừng, trồng
đậu phộng, rồi còn ép dầu đậu phụng mướn để lấy
bã đậu nuôi heo, đặc biệt làm món cổ truyền của quê
tôi là bánh tráng, rồi đem bánh tráng đổi lấy phân
bò của người dân tộc, như thế họ có cái ăn mà mình
lại có phân bò để bón cây. Trong chuồng heo không lúc
nào là dưới 50 con, toàn là heo thượng, trông tướng mạo
của nó thì xấu xí mà thịt lại rất ngon. Trong khuôn
viên tòa Giám Mục có rất nhiều cây me, tới mùa me tôi
trở thành “chuyên gia” hái me, rồi đem bán để có
thêm tiền mua cái ăn cho tòa Giám Mục. Người ta gọi đùa
tôi là Linh Mục theo "Dòng cây me", chứ không gọi
tôi là linh mục của dòng Menkisêđê... Năm 1983 thì tôi bị kiệt sức và
người ta chở tôi đi bệnh viện Nguyễn Văn Học ở
Sàigòn (bây giờ là bệnh viện Ung Bướu- đường
Nơ Trang Long ). Tôi ở trong bệnh viện 33 ngày để chờ
mổ bao tử, nhưng cuối cùng bác sĩ bảo: - Cái vết thương nó
lành lại rồi nên khỏi cần phải mổ... Và thế
là tôi về lại Kontum. Đức Giám Mục cho tôi nghỉ, không phải làm quản lý Tòa Giám
Mục nữa. Đến tháng 3 năm 1983 Ngài
nói: - Công việc của Cha bây
giờ là đi làm cha xứ ở Tân Phú. Tôi làm Cha sở ở
Tân Phú được ba năm rưởi. Tình nghĩa bà
con giáo dân rất là mặn nồng, tôi cũng đi làm đổi công
với giáo dân của tôi. Rồi dạy dỗ, tuy cũng có nhiều
khó khăn nhưng rồi mọi việc cũng trôi qua tốt đẹp.
Tình nghĩa của Cha sở với giáo dân, của giáo dân
với Cha sở vô cùng đầm ấm. Năm 1984 Đức Cha giao cho tôi coi thêm xứ Trung Nghĩa
có khoảng 2000 giáo dân, thay cho cha Trần Khánh Lê vì Ngài
bị bệnh nặng. Tôi rất
biết ơn giáo dân của 2 giáo xứ này vì tình
cảm chân thành của họ dành cho tôi, cùng với những
gương tốt trong đời sống đức tin của họ, điều này đã nâng đỡ cho cuộc đời làm
Linh Mục của tôi rất nhiều. Tới một
ngày kia, vào khoảng cuối năm 1985 thì nhà nước chủ trương
là tất cả các Giám Mục phó phải về tòa Giám
Mục (Lúc đó Đức Cha phó là Đức Cha Phêrô Trần
Thanh Chung đang ở Đức An - Pleiku, Đức Cha chính thì
đang ở Tòa Giám Mục Kontum; hai nơi cách nhau 50 cây số)
cho nên Đức Cha Chung cũng phải về tòa Giám Mục. Đức Cha Lộc đề nghị
tôi đi làm Cha sở Đức An, Ngài hỏi tôi: - Cha có bằng lòng đi Đức An không? Lúc đó tôi
đang ở Tân Phú, tôi nói: - Đức Cha sai con đi thì
con đi, chớ mà hỏi con có bằng lòng không
thì con không bằng lòng. Ngài hỏi: - Tại sao thế? Tôi nói: - Con không chịu được
lạnh, mà Pleiku là xứ lạnh... con thì ở dơ mà bụi
bặm của Pleiku là đất đỏ. Con đã ở dơ mà còn
làm biếng tắm thì nó dơ lắm. Lại nữa (tôi cũng
nói thật với Ngài) con là dân Bình Định, con không
hiểu tiếng Quảng Bình cho lắm, dân Đức An là dân
Quảng Bình, mà dân Quảng Bình nói giọng trọ trẹ khó
nghe. Thế rồi Đức Cha hỏi
tôi: - Như tôi thì
sao? (vì Ngài cũng là dân gốc Quảng Bình) Tôi nói: - Mỗi khi Đức Cha nói
giọng đó con cũng khó nghe, khó hiểu nữa. Đức Cha làm thinh nhưng
rồi Ngài bảo tôi: - Khi nào Cha vui lòng
thì tôi sai đi, chứ tôi không muốn Cha phải
đi một cách miễn cưỡng. Tôi nói:- Con không miễn
cưỡng, nếu Đức Cha sai con đi thì con đi... nhưng
mà bằng lòng đi thì con không bằng lòng đi. Tới mùa Vọng năm 1985,
Ngài cứ vận động các sơ cầu nguyện cho các Cha
biết vâng lời. Các sơ cũng có nói với tôi. Tôi bảo: - Không phải là tôi
không vâng lời, nhưng tôi không bằng lòng mà thôi,
phải phân biệt hai điều đó chớ. Cuối cùng tôi thấy thương Ngài cho nên tới Chúa Nhật
thứ tư mùa Vọng năm 1985
tôi nói với Ngài: - Con bằng lòng đi
Đức An. Ngài bảo
tôi: - Phải
đi sớm trước năm Dương Lịch. Tôi nói: - Thưa
Đức Cha, Đức Cha trình với nhà nước cho con đi
trước năm Âm Lịch thôi. Tôi cũng định kéo dài
thời gian một chút vì tôi có khóa giáo lý
rước lễ lần đầu phải lo. Đến gần tết thì
tôi xin Đức Cha: - Xin cho con ăn cái tết
này với giáo dân của con, qua tết rồi con sẽ đi. Sau tết thì tôi
xin Đức Cha: - Cho con... sau Phục Sinh
đi. Đức Cha chấp thuận
và nhà nước họ cũng đồng ý. Nhưng đến thứ
sáu Tuần Thánh thì công an sở ( hồi đó Gia Lai và
Kontum là một tỉnh) đến gặp tôi; lúc đó tôi đang
giải tội mùa chay. Họ nói: - Anh Đông chuẩn bị
sau lễ (lễ Phục Sinh) thì phải đi Pleiku. Tôi nói: - Cho tôi tới kỳ
hè đi, sau tĩnh tâm năm thì tôi đi cũng
được. Công an họ nói: - Tôi thấy giấy của
Chính Quyền quyết định cho anh đi đấy, sau lễ
là phải đi. Tôi nói nữa đùa nữa
thật: - Chính quyến là
mấy ông chớ còn ai nữa đâu... Thứ hai sau Lễ Phục
Sinh ( năm 1986) thì Đức Cha Lộc được
gọi tới làm việc với Công An, sau đó Ngài cầm về
một tờ giấy quyết định với nội dung là: "Ông
Đông phải đi ngay xuống Đức An". Và ngày 19 tháng 4 năm 1986 Đức Cha Alexi chính thức bổ
nhiệm tôi làm cha sở Đức An. Tôi
ở Đức An gần 20 năm, kiêm nhiệm luôn kinh tế
mới Vườn Mít, kinh tế mới Lò Than, kiêm nhiệm
cả xứ La Sơn, xứ Lệ Chí, làng Hà Bàu Jarai (bây giờ là xã
ChưĐangYa, huyện ChưPah), làng YaLuh sắc tộc Sêđăng xã
Nghĩa Hưng, ChưPah. Ngày 27 tháng 7 năm 2005
tôi được bổ nhiệm về làm cha sở giáo xứ Thăng Thiên. Năm 2011 tôi lại bị kiệt sức, rồi
bị rối loạn tiền đình. Tôi lại về Sài Gòn chữa
bệnh. Bác sĩ
bảo: - Máy nó chạy
đã 70 năm nay rồi nên thứ gì ở trong máy
nó cũng bị... rơ... rơ một chút. Vì thế
mà cha cần có thời gian nghỉ ngơi tĩnh
dưỡng, cũng như cái ao nước nó đã hết
nước rồi, bây giờ phải chờ nước mạch nó lên. Vậy nên Đức Giám
Mục đã sắp xếp cho giáo xứ một cha Phó
(cha Trí dòng Tên)... vì thế mà tôi được
đi nghỉ dưỡng bệnh gần 6 tháng ở dòng Biển
Đức tại Thủ Đức và Lộc Nam- gần Bảo Lộc
- Gia đình
tôi có tám anh chị em 5 trai 3 gái, có một
người đi tu sơ dòng Nữ Vương Hòa Bình, còn tôi làm
Linh Mục... Tôi muốn nói những
lời tâm tình này: Bởi vì cuộc đời của mình thật
là vắn vỏi. Con cháu của tôi đứa nào cũng
lo bươn chải làm ăn mà ít khi nghĩ về đời sống
đạo đức hay biết lo chuẩn bị về đời sau của
mình. Tôi muốn những người thân của tôi được biết: Sức khoẻ thì nó mỏng
và dòn, cuộc đời thì vắn vỏi, chúng ta phải sống
như thế nào để chúng ta có thể mưu cầu cho đời
sống hôm nay của chúng ta, ngoài ra mỗi chúng ta cũng
phải có bổn phận phải mưu cầu cho đời sống đời
đời của chúng ta. * Sinh ký Tử
qui: Cha ông mình đã nói như
thế. Cuộc sống chỉ là tạm, khi mình chết thì mình
mới đi vào cuộc sống vĩnh cửu của mình. Tôi luôn nhớ câu nói
của Đại Thi Hào Tagore: " Nếu
bạn yêu cuộc sống mình thì bạn cũng phải yêu
cái chết của mình, bởi vì cái chết chính là
cánh cửa mở ra để bạn bước vào cuộc sống đích thực của
mình". Tôi không có ý
chỉ trích một ai mà đây chỉ là những
tâm tình được bộc lộ cho những người mình thương,
để làm thế nào khi sống chúng ta biết được
mục đích sống của chúng ta là cái gì? Tại
sao chúng ta sống? Và khi chết thì chúng
ta sẽ đi về đâu? Người xưa có đặt
vấn đề: Nhân sinh
hà tại? Tại thế hà như? Hậu thế như
hà? Người ta đặt vấn
đề mà chưa có câu trả lời. Chính
niềm tin của Kitô giáo đã trả lời
được những câu này: * Nhân
sinh hà tại? Con người do đâu mà
có? Thưa: Thiên Chúa dựng nên mỗi người chúng ta.
Ngài yêu thương chúng ta, Ngài ban sự sống cho chúng
ta. * Tại thế hà
như? Trong cuộc sống này
thì phải sống như thế nảo? Cuộc sống này
thì phải sống Đạo đức,
sống Đạo Đức
sẽ làm nên giá trị cuộc sống con người. * Hậu thế
như hà? Sau cái chết sẽ
ra sao? Thưa là khi chết chúng ta sẽ về Nhà
Cha trên trời: -" Thầy đi trước, thầy dọn chỗ cho chúng con, hễ
thầy ở đâu thì chúng con ở đó với thầy".
(Tế Hanh).