Việt Văn Mới
Việt Văn Mới







CÔNG VIÊN PARRAMATTA,

QUÃNG NHỚ MÔNG LUNG…



1.

Sáng này, nghe tôi than cái cột sống lưng thoái hóa lại đau, không thể đi bộ quãng đường xa, anh sui Ngọc Thành bỏ cái vụ đi bộ thể dục và chúng tôi ra trạm xe bus gần nhà để lên Cabramatta uống cà phê thôi. Ngồi cà phê Nhớ cả buổi, anh mới hỏi tôi có thể đi bộ quãng ngắn thôi ở một công viên hơi xa một chút được không. “Đi dạo mấy cái công viên ở vùng này thì không có gì lạ nhưng công viên ở Parramatta thì đặc biệt tĩnh lặng, thú vị lắm, ông đến sẽ ưng ý liền!”, anh Thành diễn giải thêm. Thế là hai bạn già lên tàu điện đi Parramatta. Từ nhà ga ra đường phố, Parramatta thật sầm uất, nhộn nhịp, và đúng như anh Thành ‘dân Cabra.’ nhận xét, cư dân Parramatta hầu hết là gốc Úc, Âu da trắng, rất ít người gốc Việt, nên không ồn ào như ở Cabramatta “thủ phủ của dân gốc Việt”; đường xá, vỉa hè ở Parramatta sạch sẽ, hầu như không thấy có góc nào có rác rến nhếch nhác. Tuy nhiên, hai bạn già dù không có gì vội vã vẫn không hề rề rà dừng lại nơi nào mà đi một hơi, bình thản rời khỏi các khu phố thương mại và phố hành chính tráng lệ, nguy nga đầy màu sắc để sớm tìm đến mục tiêu hôm nay: công viên Parramatta.

Đó là một công viên cây xanh nằm ngay giữa phố xá chứ không phải ở vùng ngoại ô. Chỉ cần băng qua một đại lộ khá đông xe, bỏ lại bên này là những tòa cao ốc bê-tông sắt thép đồ sộ là bên kia đường, sau cánh cổng Parramatta Park hiện ra ngay một cõi miền thật xa lạ. Công viên như đã ở đó, đóng cửa ngủ mê tự thuở nào, như thể chẳng dính dáng tới mọi chuyển động lớn mạnh không ngừng của cái thành phố năng động đã có nhã ý chừa chỗ cho nó và cưu mang nó.

Điều nổi bật, chiếm lĩnh trọn hết không gian ở đây chính là sự tĩnh lặng. Các loại âm thanh, tiếng động đều như tự dè sẻn, có phát lên cũng chỉ lặng lẽ, mơ hồ, như chỉ văng vẳng từ những cậu thanh niên vừa chạy bộ vừa cười nói hay từ chỗ mấy đứa trẻ nghịch ngợm, hò reo đuổi bắt những con kéc trắng đang sà xuống bãi cỏ. Dưới những gò, đồi gồm toàn những bãi cỏ xanh mượt, được chăm sóc tốt là một con rạch nước đọng im lìm cùng những chú chim thơ thẩn kiếm ăn bên bờ nước, thỉnh thoảng khẽ kêu những tiếng ngập ngừng, lạc lõng. Rải rác có những cây phong lá đỏ, đẹp một cách buồn bã bởi tán lá chưa đủ độ chín đỏ mà đã bắt đầu tàn, rụng…

2.

Hai bạn già bước chậm qua một cây cầu cũ, nước sơn đã bạc màu nhiều chỗ, đi tha thẩn dưới ánh-nắng-không-nóng-bức trong công viên, đến ngồi ở một băng ghế gỗ bên dòng rạch. Chúng tôi hàn huyên những chuyện xưa, nay, của mình, của bạn bè, chuyện cả hai cùng biết hay chuyện chưa hé lộ với ai, giờ bạn già là chỗ quá thân tình mới kể … Lời trao đổi nào cũng khẽ khàng, đôi khi cùng nín bặt như vấp vào một quãng lặng của cảm xúc khi tình cờ nhắc tới một đồng đội đã tử trận hay mất tích, hoặc thường khi cùng ngập ngừng, bỏ lửng câu kể bởi lỗ hổng trí nhớ…

Cặp bạn già nhắc đi nhắc lại nhiều nhất là những chuyện “trước 30 tháng 4”. Nhiều mẩu chuyện đã quá nhàm, nhiều tên người hay địa danh đã quá quen bởi ai cũng vô tư đem ra kể, quên mất lần kể này không biết lần là thứ mấy rồi, nhưng người nghe vẫn thản nhiên, im lặng nghe, như thể không hề chán ngán, thỉnh thoảng còn lên tiếng nhắc dùm bạn mình vài chi tiết…

Cũng tội nghiệp người già cùng cái cách nhắc lại quá khứ khá ngớ ngẩn ấy của họ, nhưng cũng không sao cả nếu vào mỗi lần được kể lại, câu chuyện so với những lần trước lại ngày càng thiếu chính xác hoặc vơi mất thêm chi tiết, bởi chính ra, người già yêu quí kho chuyện cũ, kho kỷ niệm xa xưa của họ và gặp bạn già đồng điệu thì thường muốn nhắc lại để chia xẽ với nhau, chứ không do nhu cầu thông tin gì cần thiết hay hệ trọng.

Trở lại với cặp bạn già chúng tôi, sang Australia đã vài lần, đến nay tôi đã rất nhiều lần trò chuyện với anh Thành, bởi ông bạn tri âm, tri kỷ này vừa là sui gia vừa cùng là lính cũ. Có điều là, về thời điểm diễn ra một số câu chuyện hay sự việc đã trao đổi với ông bạn quý này, khi cần nhớ lại, chuẩn bị phục hiện trong đầu để viết thì Trời ạ, có lúc tôi đã quờ quạng đến bắt cười! Như có lần, anh Thành kể chuyện đã xưa lắm là suýt chết trong một chuyến nhảy toán vào vùng địch, thì sau đó, khi tôi ngồi nhớ lại, đã ngờ nghệch, lầm lộn ngay về thời điểm nghe kể chuyện… Nguyên anh Thành đã kể câu chuyện sinh tử gay cấn ấy vào khoảng 8 giờ tối một ngày mùa hè kỳ lạ ở Australia, “ngày dài đêm ngắn” rõ rệt nên đã tối rồi nhưng bầu trời vẫn sáng choang bởi ánh nắng mặt trời, và bên cạnh đó –  chỉ một chai Chardonnay nhâm nhi ‘cưa đôi’ khi ấy quả không đáng kể, chỉ là “xúc miệng” chứ làm gì làm say xỉn được, nhưng ngày hôm sau, khi tôi ngổi hồi tưởng lại chuyện anh Thành kể để viết thì bối cảnh được phục hiện trong đầu tôi cừ lì lợm là… buổi chiều, buổi hoàng hôn gì đấy, bởi ở chỗ sân ngồi uống rượu và nghe chuyện, tôi đã bị những ánh nắng cuối cùng của buổi-tối-Úc-châu chiếu lóa vào mặt và sau đó vầng sáng ấy cứ lãng đãng ám thị tôi mãi.

Ở đất Úc này, tôi đã từng tiếp tục mông lung, lầm lẫn về thời gian trong ngày như thế vài lần nữa. Như vào một buổi chiều tháng 6, tức đã vào mùa đông ở đây “ngày ngắn đêm dài”, trời tối rất sớm và trời rất lạnh nên mới quãng 5-6 giờ chiều ai nấy đều đóng cửa rút trong nhà chờ bữa cơm tối. Vậy mà, do bâng quơ vạch rèm nhìn ra sân, thấy tối đen tôi bèn vội vàng mở laptop, trong lòng lo lắng: “Thôi chết rồi, đã hẹn bữa nay nhất định gởi đủ tin&ảnh cho ViệtBáo! Cơm nước tính sau, nội đêm nay phải xong”!

3.

Như đã kể, không gian yên tĩnh, lặng lẽ của công viên gần như có sức ù lì, gây nên đại loại là một cơn buồn-ngủ-tâm-lý, khiến tâm tưởng đám người già chúng tôi càng lười nhác hơn, trí nhớ càng mông lung hơn. Mà ở cái tuổi được mệnh danh là “buổi chiều của cuộc đời”, có lẽ người già chúng tôi chỉ thích hoài niệm, chỉ muốn nhắc lại quá khứ ở quê nhà Việt Nam hơn là thử cố vạch vẽ chút gì đó cho tương lai mình ở nước Úc, quê hương thứ hai này… Dù sao thì tôi cũng thầm cám ơn anh Thành đã tẩn mẩn đặt chân máy, chụp cho mấy bức ảnh kiểu chân dung “buổi xế chiều” của bọn tôi, nhất là một pô ảnh, sau này anh Thành post và chú thích trên FB rằng đây là “hình ảnh hai lão già Á châu ngồi tâm sự trên băng ghế công viên Úc châu”.



.Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Úc ngày 11.03.2021 .