Việt Văn Mới
Việt Văn Mới




BỒNG BÊNH CÙNG KHÓI THUỐC



  
        

H ạ gánh thuốc lào đã dồn vào hai cái bao vải màu xanh thẫm, gã chống đòn, rao bằng cái giọng mướt dài đến không thể dài hơn: Thuốc lào chồng hút vợ say/ Thằng con châm đóm lăn quay ra nhà/ Có cô hàng xóm đi qua/ Hít phải khói thuốc say ba bốn tuần/ Thêm chú gà trống ngoài sân/ Mổ nhầm bã thuốc cánh chân... cứng đờ đơ...ơ…ơi!

Sau vài lần rướn cổ rao, gã đặt đòn gánh xuống, ngồi lên, thong dong chờ ở gốc nhãn đầu thôn. Dần dần, người từ trong ngõ lác đác ra. Họ xúm lại, tay véo vê trên bánh thuốc bó sơ sài mảng lá chuối khô, chung quanh hở cả hai mặt, hút thử. Khói bay nồng nàn. Có người chưa thở hết khói đã nói:

- Sách xưa ghi rành rành, các cụ nhà tôi còn truyền lại. Xã An Tử Hạ là nơi trồng thứ thuốc loại ngon không đâu hơn để tiến vua. Đó là loại cây trồng trên đất quê tôi từ lâu đời. Đời tôi đã là đời thứ hai mươi bảy. Làng An Tử Hạ, tổng Hán Nam, huyện Tân Minh, phủ Nam sách, trấn Hải Dương, nay là Nam Tử, Kiến Thiết, Tiên Lãng, Hải Phòng. Lâu đời rồi!

Một người xòe tay, thả thả vào một nhúm thuốc. Lão nắm chặt, chờ chốc lát lại xòe ra. Nắm thuốc nằm ép xuống. Hai ngón tay lão xoay vê cho nhúm thuốc biến thành cục càng lúc càng nhỏ như đầu đũa thô. Rồi vừa giơ lên thổi phù phù vừa dùng bàn tay còn lại gỡ nhè nhẹ. Nhìn từng sợi thuốc tách rời nhau, không đứt gãy, lão thêm:

- Thuốc lào là thuốc có nguồn gốc từ Lào nên có tên là thuốc lào!... Mỗi năm chỉ trồng được một vụ. Cực nhọc lắm bác ơi!

Một tay đã trung tuổi tỏ vẻ sành sỏi, nói như rồng phượng:

- Trồng và chăm sóc nó vất vả hơn nhiều so với trồng các loại cây khác. Chưa rõ mặt người đã ra, gà lên chuồng lâu lắm không trông thấy đất mới về, bẻ nhành phụ đều đặn mỗi tuần một lần. Ăn không hết cái, đái không hết bãi. Để có hơi thuốc lào thơm, khói nhẹ mà quấn quyện dễ khiến người hút xiêu đình đổ quán say đứ đừ là bao nhiêu công lao tất bật làm cỏ, tưới nước, chống rầy, bón phân…dồn dập, đầu tắt mặt tối đấy bác tưởng.

Người thì chun mũi lại, mắt lim dim:

- Làm thuốc lào ngon nhiều công phu lắm. Khi cây già cần bẻ lá phải chọn ngày nắng ráo. Năng suất cao, chất lượng tốt trông chờ vào thời điểm ấy. Gặp mưa rào ướt rõng thì thôi rồi. Lại khổ công chờ đợi. Kinh nghiệm thu hoạch thường nhắc thuốc non sát nắng hơn già lại cây là vậy.

Một lão phảy phảy cái quạt nan, thủng thẳng:

- Ở chỗ tôi, lão Nhã đi làm sớm. Ra xe, có thằng hút thuốc. Trời rét, lão xin một điếu, hút xong say lơ đơ. Xe đến. Tay lão giang ra, quờ quờ như vẫy chờ, đợi đón. Chả ai để ý cả. Lão bị say cứng đơ, đờ đẫn cả người, mắt mũi trợn ngược đến gần nửa tiếng. Tỉnh dậy, bến xe vắng hoe. Thế là lão nhỡ tầm bỏ buổi.

Lại một lão khác rề rà:

- Chưa bằng bà Châu. Hút thuốc lào trong bếp say. Con nhỏ khóc. Tay chồng gọi mãi không thấy vợ, tìm mãi. Bà Châu ngồi lơ ngơ xó bếp đang vỗ vỗ vào đầu rau, ru con. Tay chồng bực quá, hét toáng lên nện cho vãi cả đái. Bà Doan ở bên dưới nhà tôi, nấu cám, hút thuốc lào trộm. Say lử lả, chống cả khuỷu tay vào nồi cám lợn đang sôi. Bà la thất thanh. Mọi người xô đến, khiêng bà vào nhà thương. Vết bỏng quá nặng, mãi không khô được. Bà qua đời sau hơn tháng điều trị. Nước vàng chảy ra rề rề, không mấy người dám đến gần.

Gã bán thuốc lặng lẽ nghe, hỏi lại, trả lời, trao thuốc và nhận tiền luôn miệng luôn tay. Những câu chuyện trồng, chế biến thuốc lào được rải quanh người bán, người mua nhiều hôm cũng râm ran. Rỗi thì tôi đến nghe chứ chẳng để ý tìm hiểu gì.

Khi tôi còn nhỏ, làng xảy ra một chuyện. Cô con gái nhà bà Sảng hút vụng thuốc lào. Căn nhà bếp nhỏ, mái lợp lá mía đánh thành gianh. Đang hút, thấy có người động rào ngõ, cô dụi luôn cái nòm vào búi rơm cạnh bếp. Lửa bùng lên trong tiếng thét của cô. Khi người người hô hoán lên dập được lửa, cô đã chết. Người co lại thành một khối than nham nhở.

Ông tôi nghiện thuốc. Mỗi ngày ông chỉ hút hai điếu. Tờ mờ sáng, ông vê vê điếu thuốc to bằng ngón tay cho vào nõ. Vặn người hít thở chốc lát, ông mới thong thả đưa chiếc đóm mỏng tang chẻ từ cây ké ra. Đưa đóm vào chấm xanh ngọn đèn dầu bằng hạt đỗ, ông từ từ mồi lửa, bập bập vài nhát rồi rít một hơi rõ dài. Luồng khói trôi ra khoan khoái. Xong xuôi, ông vơ cái nón, leo tầng. Tối về, sau khi ăn uống xong, ông vê một điếu to hơn ngón chân cái. Ấn chồng cao trên nõ điếu, rít vài hơi đến lúc đê mê, ngả người ra. Bà tôi, thày tôi thường đứng bên dìu ông vào vào giường. Cứ thế, ông ngủ cho đến sáng. Nhà nghèo, ông phải hút tiết kiệm vậy. Hơi thuốc tê tê rân rân trên tay trên chân rồi lan ra các ngón, dần dần đến toàn thân. Ông ngủ trong lúc cơn say thuốc còn chưa tan hết.

Bố tôi nghiện thuốc lào. Trên bàn bao giờ cũng đặt một chiếc điếu bát. Đó là một cái bát gỗ to được tiện và khảm sơn mài cầu kỳ để đựng quả điếu chờ bã thuốc vãi ra. Sau này hộp vỡ, bố tôi thay bằng cái nồi nhôm hỏng. Quả điếu làm bằng gốm sứ, màu nâu đậm có hai lỗ, vẽ hoa văn ngoằn ngoèo. Lỗ to đặt cao hơn để lắp nõ điếu. Nõ điếu gắn thẳng với Guốc điếu làm bằng đồng đặt sâu trong nước. Lỗ nhỏ viền bịt đồng bên cạnh. Cắm se điếu vào hút. Se điếu làm bằng trúc nhỏ, già, thông hai đầu. Tôi nhớ nhất những lần mải chơi khi thấy bố dặng hắng, rút se điếu ra, cầm trên tay.

Xỉa cái thông điếu làm bằng sợi nhôm dài, thông cho sạch. Sợi thuốc lào được ông vê tròn lại như đầu ngón tay út và tra vào nõ. Châm đóm vào chiếc đèn hoa kỳ hãm xanh hạt đỗ hay rút bật lửa có bánh xe tròn và bông tẩm xăng. Ông bập bập hít từng hơi ngắn cho thuốc cháy đều. Khói tích tụ trong thân điếu chốc lát, ông mới rít một hơi thật sâu rồi xịt nhẹ bắn xái thuốc nằm gọn trong bát điếu. Ngón tay bật nhẹ cho đóm tắt, ông từ từ ngửa cổ, thả một luồng khói dài.

Không ít lần, bố tôi thấy tác hại của thuốc, quyết tâm bỏ. Ông chôn điếu mấy lượt, đập điếu mấy lượt, hứa hẹn nhiều lần. Những cái điếu khác thay thế. Cuối cùng, ông bỏ được đúng hai năm trước khi qua đời. Chiếc điếu ấy không có người dùng chả rõ thất lạc nơi đâu.

Có ba loại chính là điếu bát, điếu cày và điếu ống. Điếu bát tương tự điếu của bố tôi. Điếu cày hình ống được làm bằng tre, nứa. Ngoài ra, có những cái làm bằng kim loại nhẹ dài khoảng nửa mét. Lại còn chiếc điếu cày rất dài để khoe, phải có người khác châm lửa mới hút được. Một đầu của thân điếu kín chứa nước. Một đầu hở để hút. Khi làm thân điếu bằng tre nứa người ta thường đục lỗ xuyên qua các mắt tre sao cho dễ hút nhưng nước khó ra ngoài khi bị đổ. Gần phía đầu kín, người ta khoan một lỗ để lắp nõ điếu. Nõ điếu là nơi tra thuốc lào được làm bằng các loại gỗ hoặc kim loại có khoan lỗ để tra thuốc, tạo lên tiếng kêu giòn giã khi hút. Nhiều người thích cầu kỳ, khảm vỏ trai, chạm trổ phượng rồng vào thân điếu cho đẹp mắt.

Điếu ống tương tự điếu cày nhưng ngắn và to hơn, được làm bằng gỗ quý, xương ống trâu bò hoặc bằng ngà, sừng... Nó có thể đứng vững khi sử dụng và có quai xách. Điếu ống được chế tác rất mỹ thuật, chạm trổ tinh xảo, nõ điếu bịt bạc, thân cũng bịt bạc hoặc khảm xà cừ nhưng xe điếu là một cần trúc rất dài và cong, có khi hơn hai mét, đầu bịt bạc. Loại điếu này chỉ những nhà giàu ngày xưa mới có điều kiện dùng cho oai, cho sang trọng. Người hầu châm lửa, trao cần cho người hút. Chủ đi đâu, người hầu lễ mễ mang điếu đi theo.

Cả ba loại điếu rất đa dạng về hình khối và cách trang trí. Người ta chế tác cầu kỳ, bằng vật liệu có giá trị cao được coi là một tác phẩm nghệ thuật và trở thành vật sưu tầm cho những người yêu thích đồ cổ.

Bây giờ chán cải tiến, người ta cải lùi. Điếu bằng hòn gạch thông, bằng giấy cho tiện lợi. Họ cuốn giấy như tổ sâu kèn to, hoặc chẻ dọc viên gạch, khoét lỗ, bịt kín một đầu. Khi cần, làm một hơi cho đã cơn nghiền không màng thưởng thức. Khói bay khét lẹt.

Con gái tôi lấy chồng Tiên Lãng làm dâu làng trồng thuốc. Những hồi ức xa xưa về thuốc lào tưởng đã chìm sâu trong tâm khảm tôi lại trỗi dậy bởi có điều kiện tìm hiểu thêm. Công chăm bón thuốc lào quyết định việc thuốc ngon hay dở. Phải đổ mồ hôi cái, vãi mồ hôi con vào đất mới thấm thía nỗi vất vả của người làm ra nó. Đó là loại cây trồng đã trở thành một nghề truyền thống, gắn bó sâu nặng với mảnh đất đầy khó khăn vất vả.

Thuốc lào có tên rất thơ là tương tư thảo có nghĩa là cỏ nhớ thương. Đâu phải tự nhiên mà có tên ấy. Nhớ ai như nhớ thuốc lào/ Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên. Bập vào, không bỏ được. Vào những ngày tết, lễ cưới, thuốc lào đã từng cùng cơi trầu làm đầu câu chuyện nối dài hạnh phúc lứa đôi. Bao nhiêu hờn giận, ghét ghen được thuốc lào giải mã hết. Rồi những đêm gió rít mưa gào, ngồi một mình nghe lạnh hơi mưa. Điếu thuốc lào trở thành bạn hữu, chở che và an ủi. Dù hàng trăm năm qua những thăng trầm, trôi nổi nhưng thuốc lào vẫn dồi dào, tràn ngập sức sống, tồn tại bền bỉ trong khắp các lối ngõ làng quê, đường phố.

Thu hoạch lúa xong, những chân ruộng cao nằm trong diện chiêm khê được chọn. Cày ải, phơi đất thật khô, bừa kỹ, đập thật tơi. Đất thịt mới chính là đất chuẩn. Người ta dùng vồ gỗ đập. Không chỉ ban ngày mà cả đêm trăng, mùa vụ như hội trên đồng. Trước khi đánh luống phải nhặt sạch cỏ rễ, gốc rạ, rác rưởi. Luống đánh thẳng đủ chỗ trồng hai hàng cây, bảo đảm thoát nước tốt sau mỗi trận mưa. Thời vụ thuốc lào thường từ tháng chạp năm nay đến cuối tháng tư đầu tháng năm năm sau theo âm lịch. Muốn thuốc lào ngon phải bón nhiêù phân và phân tốt. Thuốc lào ưa phân bắc, phân chuồng tươi giờ được ủ kĩ với tro và đất màu, đảo tơi bón lót. Cả một vùng quê nồng nặc mùi phân. Ruồi bâu như đậu vãi khiến không gian ô nhiễm nặng nề. Khi cây bén rễ, phải tưới bằng phân chuồng ngâm ngấu, tưới trực tiếp vào từng gốc cây, khoảng một tuần một lần cho đến khi cây thuốc phát triển. Có những người cầu kỳ, chỉ lấy lá giữa trên thân thuốc lào, tự tay chế biến loại thơm ngon đặc hiệu. Còn kẻ nhiễu sự hơn, vào tháng giêng âm lịch mỗi mùa, tự thân lựa chọn mấy luống trên ruộng thuốc lào rồi ngắt hết ngọn từng cây trên mấy luống này, tiếp tục chăm sóc trong vài ba tháng. Cây thuốc lào bị cắt ngọn, đâm nhánh mới trên thân. Những nhánh này có lá rất dày, nhỏ bằng non nửa lá thuốc thông thường. Đến kỳ thu hái, cắt từng lá đem về, sao vàng cất đi. Loại này là đỉnh cao của các loại thuốc lào. Ai lần đầu hút chí ít cũng phải say đến nửa ngày mới tỉnh được!

Trồng xong là Tết đến. Mưa dầm xuân thúc cây thuốc lên nhanh. Cây lên mạnh là lúc rầy sinh sôi. Nhà nhà gấp gáp chuẩn bị đánh rầy. Người ta nấu bột nếp dẻo quánh, cuộn vào que tre, mang theo cái ghế ngồi rồi lật từng lá, lăn cho rầy dính vào. Hết lá này lá kia, luống này luống khác cho đến khi hết. Tưởng đơn giản vậy, tôi cũng mang ghế ra, cuốn được hơn luống rồi mỏi lưng với những động tác nhàm chán đành tìm cớ chuồn. Hôm sau kêu bận, không ra ruộng nữa.

Vào khoảng cuối tháng tư đầu tháng năm âm, thời tiết oi nồng. Gió Nam rộc suốt ngày đêm. Đi trong ruộng thuốc lào lá dày che hết gió dễ khiến người nực nội, cáu bẳn. Không hiếm người ngồi bệt đầu bờ dùng nón quạt thốc tháo. Nắng hè làm lá thuốc lào dày, cứng lại, cụp xuống như nơm úp báo hiệu vào mùa thu hoạch thuốc.

Thuốc bẻ về, người ta đem dụng cụ bằng tre chĩa ra, hai đầu có một sợi cước để rọc bỏ phần cuộng và bày, cuốn thành từng cuộn, ủ mấy ngày cho lá úa vàng mới đem thái. Ngày thái thuốc rất quan trọng. Bà con nhộn nhịp đến giúp nhau như các tổ vần công năm nào. Thuốc thường được bẻ vào lúc chiều. Gần tối, mang về, người rọc cuộng, người bày thuốc, chuyện trò râm ran.

Nếu được nắng, gia chủ vui nhộn hẳn lên, nấu cháo, nấu chè, luộc khoai, luộc bắp đãi người làm giúp. Con dao thái thuốc dài gần mét. Người ta kê ghế, ngồi để cán ngay dưới đùi. Hàng hàng người ngồi. Cứ thế, đống thuốc được thái cao lên trong tiếng dao thái đều đều, tiếng chân chạy, tiếng cười nói ồn ào. Người dận thuốc, người phơi, kẻ chạy nong. Một không khí lao động khẩn trương, nhộn nhịp, vất vả mà không thấy mệt.

Bây giờ nhiều công đoạn được thay thế dần bằng cơ khí để con người đỡ vất vả hơn. Nghe tiếng máy rầm rầm, tôi lại nhớ những ngày còn thái thuốc bằng tay. Mỗi cuộn thuốc dài đến hai mét. Những âm thanh râm ran, đều đều như tiếng gì gợi mở. Chậu nước trong vắt để trước hiên chờ người rửa mặt. Kỳ cọ một hồi cho xong. Khi bưng chậu nước đi mà không nhìn thấy đáy chậu nữa.

Sợi thuốc lào thái ra mang rải đều lên nong tre phơi đủ năm ngày nắng, qua ba đêm sương. Thuốc lào dậy màu nâu đỏ thơm ngon và bắt mắt. Gặp trời mưa, thuốc lào không khéo bảo quản, ẩm mốc tràn ra trắng cả nia. Ông bà thông gia phải làm giàn, đốt rơm hun thuốc. Sáng sớm mang ra phơi ngay. Vào kỳ mưa dai dẳng, người chưa thu được thuốc điêu đứng, lo đứng lo ngồi, không dám ngủ kỹ.

Ngày nắng, thuốc phơi đến phên cũng nóng bỏng lên mới thu lại và ủ bạt. Nhiều khi trời nắng chang chang bỗng mây kéo ầm ầm. Hàng hàng phên thuốc ngoài vườn phải chạy mưa. Ai cũng tất bật, tự giác xếp phên, khiêng phên nhịp nhàng, nhanh như cắt. Nhớ những đêm đẹp trời nghe mưa hơi lắc rắc, tiếng gió đổi chiều, dù đang ngủ cũng phải bật dậy chuyển thuốc chạy mưa. Phơi khô xong, chờ ngày có gió Đông nam vào thuốc. Sợi thuốc mới bảo đảm không khô giòn, gãy nát. Người nhễ nhại mồ hôi trong nắng chang chang. Cuối ngày hết nắng lại bỏ ra hong trước gió. Đến khi sợi thuốc mềm, người ta gấp lại thành từng bánh, đóng vào bao nilon. Khoảng dăm ba bánh lại được ngăn cách bằng lá chuối khô rồi bọc thêm nhiều lớp bao chống ẩm và bao dứa để bảo quản. Mọi công đoạn đều được thực hiện nghiêm ngặt. Có như thế, hơi thuốc lào để hàng năm cũng không bị mất.

Hết mùa thu lá thuốc đến thu cây. Người ta cuốc hết gốc lên phơi cho khô, giũ đất, bó thành bó rồi vác, gánh về làm củi đun bếp. Cuối tháng sáu, nắng bỏng đất bỏng cát. Chạy vội vã trong cái nắng như rang, thu hết vài sào cây thuốc. Bước chân lúc ấy nóng hôi hổi, tối rửa vừa thầm thán phục vừa thương xót chân mình.

Những ngày ở vườn thuốc lào, tôi lại nhớ đến mẹ vợ. Bà nghiện nhưng giấu con rể. Khi rời quê ra vùng than trông cháu ngoại, bà mang theo một bọc thuốc lào. Bà lồm cồm bước ra từ góc tối, tay đấm ngực thình thịch. Người cứ rướn lên, mãi không nói ra hơi. Thì ra, bà đang hút thuốc thấy tôi đi làm về, giấu vội nên bị sặc. Một hình ảnh đã mấy chục năm qua đi mà tôi không quên. Khi hết cơn tức nghẹn, bà nằm xoài trên giường. Tôi nói bà muốn hút thuốc lào thì có gì mà phải giấu. Bà không nói gì.

Sau này, bà kể nhiều lúc thèm, được rít điếu thuốc ngon, tê mê, sung sướng râm ran chân tay đến chục phút. Nhưng dù để ý, tôi không bao giờ thấy bà hút một lần nào nữa. Nghĩ cứ thấy tồi tội.

Lại nghe tiếng rao bằng cái giọng mướt dài đến không thể dài hơn của mụ bán thuốc lào vang vang ngoài ngõ: Thuốc lào chồng hút vợ say/ Thằng con châm đóm lăn quay ra nhà đơ…ơi…iii.

Và người ta lại ra lác đác…



. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả chuyển từ Quảng Ninh .