HƯƠNG VỊ NGÀY XƯA
Tới hơn mười lăm năm, cậu em vợ tôi ở nước ngoài mới về thăm quê hương. Làng cậu đây rồi! Trước ngày cậu đi làng còn nghèo lắm! Nơi ấy là cái nôi gửi lại một chuỗi tuổi bé thơ lang thang chạy trước mảnh diều giấy, chạy trên cánh đồng, theo những cơn mưa dầm dề, những trưa nắng chói chang. Con mương trước cửa chùa. Cây cầu gỗ cheo leo. Cái ao sau nhà ông Khán... Chao ôi! Tuổi học trò trốn học đi đơm lờ, bắt cá, móc cua đồng, cất vó tép...Rõ ràng còn đó như có một thằng bé lưng trần đen đúa, tóc khét nắng, đu lên cành ổi dẻo quẹo rồi đột ngột buông tùm cả người xuống mặt ao...
Sau
bữa cơm gặp mặt, cậu cho biết được về quê ba tháng.
Như vậy là cậu được ở nhà ăn Tết. Thật vui quá!
Cậu muốn mẹ và các anh các chị đừng bày vẽ ăn uống.
Ở nước ngoài, em chẳng thiếu thứ gì, thịt thựa, bơ
sữa, quanh năm. Chỉ nhớ mỗi rau muống, dưa gang, mắm
cáy, muối vừng và tình người quê ta! Cậu quay sang nói
với tôi:
-
Anh biết không? Lúc về đến đầu làng thấy đám trẻ
đeo mấy cái giọng tre, tự dưng em thèm món cá đồng nấu
củ chuối, nấu khế chua, nhất là nấu me đến thế! -
Cậu cười ý nhị: - Me làng ta chua có tiếng. Me chua,
nhưng người làng ta đâu có chua! Con gái làng ta xưa nay
đẹp nhất vùng!...
Tôi
cảm phục:
-
Cậu đi xa mà vẫn không quên hương vị quê nhà, vẫn ao
ta nước mát!
Rồi
cậu bảo chúng tôi:
-
Mai mốt các anh các chị đãi em một bữa cá mại đen, cá
ngạnh xem sao? Em nhớ những ngày mùa mưa tháng sáu theo bố
vào làng Hưng Học mua lờ mang ra đồng Năn đơm cá. Gặp
buổi mưa nhiều, được toàn cá mại đen, nặng trĩu cả
lờ. Thích thật! Lại nhớ những sáng cùng ông nội đi
giũ cá ngạnh ngoài sông Đồng Họ ven đê, lội đến
ngang ngực và giật cá cứ phăn phắn, sướng cả tay...
Nghe
cậu say sưa mà tôi giật mình. Tưởng em ước thứ sơn
hào hải vị gì, bây giờ lo dễ ợt. Xuống chợ Cốc, cả
phụ tùng tên lửa cũng có. Nhưng cái món cá mại đen,
tức cá mại cờ với cá ngạnh thì... quả là đánh đố
chúng tôi. Còn khó hơn cả kiếm măng mùa đông! Đề tài
rất đơn giản mà thực hiện đâu có dễ. Giữa thời
buổi xóm quê đang hóa dần phố xá, đồng ruộng chỗ
nào cũng nhiễm hóa chất, đạm, lân, thuốc trừ sâu, trừ
cỏ...Đến đám trẻ con cháu chúng tôi đây cũng có thể
không biết con cá mại cờ, con cá ngạnh nó làm sao! Đang
mạch vui khen làng thôn thay đổi diện mạo, bỗng dưng
cậu chuyển sang chuyện mại cờ cá ngạnh, chúng tôi ai
cũng nao nao nhớ lại ngày xưa dân dã ngói tranh...
Ngày
xưa...Những cơn mưa “tháng sáu máu rồng” chan hòa mặt
đất. Đám trẻ chúng tôi trong xóm thường rủ nhau từng
tốp chạy ùa ạt ra đồng. Đứa xách nơm lội trên ruộng
đầy tràn nước đục chụp cá tùm tụp. Đứa kê giành
vào miệng cống qua đường đón chắn cá mại trắng, cả
cá tần ghi nhỏ xíu mắt to, long lanh như hai hạt
ngọc...Tôi thích đi dọc các rãnh ruộng mạ xem đàn cá
mại cờ mừng nước. Chúng đua nhau uốn lượn cái đuôi
cờ y như đoàn quân diễu hành giương cờ đắc thắng.
Gặp lỗ nước chảy, chúng lại ào xuống như lao qua
thác. Hoặc tôi lại cúi lưng ngắm những chú mại cờ
tách đàn bơi len lỏi trong bụi năn, thỉnh thoảng lại
lao lên đớp mồi đánh tép một cái như gãi ngứa vào
mặt nước phẳng lặng. Có con còn ngậm lấy tẹo đuôi
của bạn, lay đi lay lại tỏ vẻ đầy thích thú, tinh
nghịch.
Xóm
tôi có nhóm trẻ hay đi câu cá ngạnh. Quê tôi gọi là
giũ ngạnh. Chân bờ rào, bờ dong riềng, đám đất chạn
rửa nào cũng bị chúng tôi cày xới tìm giun đất sống
cho vào ống bơ, ống vầu để làm mồi câu cá. Đầu đội
chiếc nón tuột vành, lưng đeo mảnh áo mo cau, chúng tôi
đứa ngồi xổm trên bờ, đứa lội ra vạ sông ngập đến
thắt lưng. Tay vung cần câu trúc, cần câu tre vót lấy,
quăng vút sợi cước dài có lưỡi câu xiên khẩu mồi
giun ra và giũ giũ đầu cần câu vào mặt nước kêu tom
tõm. Đó chính là tiếng gọi nhử lũ cá ngạnh phàm ăn
đến. Tiếng tom tõm chưa dứt, vòng tròn nước chưa kịp
khép thì chiếc phao bằng mẩu muồng muồng khô đã chúi
xuống. Tôi vội giật mạnh lên, cần câu quay vun vút
trong không gian. Con cá ngạnh to bằng ngón tay cái mắc
câu. Nơi lưỡi câu phát ra tiếng kèng kẹc, kèng kẹc
thật hấp dẫn. Lúc gặp được đàn cá ngạnh đi đông,
giật cần câu không thấu. Chốc chốc ngón tay gỡ cá lại
bị cắm gai ngạnh của chúng nhức buốt. Gai ngạnh non
không sao, chứ cắm phải gai ngạnh già thì buốt tới óc.
Buốt mà vẫn thích, vì nhìn sang hỏi thăm nhau: - Mày được
nhiều chưa? Tao lưng giọng! Thằng Hoài Ngớ, thằng Vấu
Nhì đã được đầy rồi! Hai thằng ấy dái đen nên bao
giờ cũng sát cá...
Cha
tôi rất chuộng món cá ngạnh nấu với củ hay quả chuối
hột non và cây rọc mùng thả tái. Thời ông làm lý
trưởng, có lần làng cử bác Đoàn Ngảnh (là người
chuyên giúp việc chia phần rất khéo trong làng) đội khệ
nệ một chiếc thủ lợn to gần kín lòng chiếc mâm đồng
đến biếu. Ông xua tay: “Thôi Thôi! Coi như tôi đã nhận
rồi. Tôi cho bác mang về nhà để cho cô ấy với các
cháu nó ăn! Khổ lắm! Cầm dao chia phần cho làng thì tài,
không ai chê được, mà phần mình thì không biết có
miếng nào đến miệng? Hôm nao cháu nó câu được, cứ
cho tôi mớ cá ngạnh là báu nhất”...
Được
mớ cá ngạnh tươi còn giãy, cha tôi bận mấy cũng tự
tay mình đi đào củ chuối hột non và thái nhỏ như miến
đem ngâm vào chậu nước lã, khỏi thâm. Mẹ tôi luộc
nhôi cá, vớt ra rổ cho ráo rồi gỡ hết ba cái gai to.
Chỉ còn thân cá trơn tuột. Cá luộc được đảo trong
chảo mỡ, rim hành, cà chua. Liệu cơ cho nước và quả
bứa vào nấu chua. Sau mới nấu với củ chuối, rọc
mùng. Nồi riêu cá ngạnh đơm ra váng mỡ nổi vàng óng,
béo ngậy, tỏa hơi nghi ngút, ăn ngon tưởng quắt tai.
Nhưng cha tôi bảo:
-
Bữa đầu ăn gọi là thôi. Còn để bữa sau nấu lại,
mới là người biết ăn cá đồng...
Quả
đúng thế thật! Giống cá ngạnh hai lửa mới tuyệt làm
sao! Bây giờ nhiều khi muốn ăn, mà không kiếm đâu cho
được.
Chiều
cậu em, lâu lắm mới có dịp cả nhà được vui vẻ thế
này, mấy chị em gái sau đó tỏa đi mỗi người một
chợ, tìm mua cá mại cờ, cá ngạnh. Nhưng chẳng chợ nào
có. Một bà hàng cá chợ Cốc còn đáo để mắng vợ
tôi: “Cô khùng hay sao lại đòi cá mại cờ, cá ngạnh
thời buổi này?” Dì em thì xuống chợ Đình Lưu Khê,
chợ Vị Dương. Cũng chịu. Dì mua được mấy cân ngán
cùng sò huyết và một cân tôm sú hí hửng đem về, nghĩ
cậu sẽ bất ngờ. Ai dè cậu em trợn mắt:
-
Các chị có chiều em được mãi không? Tưởng em không
biết gì những thứ này đấy à?
Dì
em tôi cười xuê xoa:
-
Cũng rẻ ấy mà!
-
Rẻ bao nhiêu? - Cậu em vặn lại. Dì em lúng búng trả
lời:
-
Sò ngán rẻ thôi. Riêng có tôm sú đây là đắt này. Một
trăm tám mươi nghìn một ký lô, cậu ạ!
-
Vậy mà chị khen rẻ, định giấu em. Bằng hơn tạ thóc.
Nông dân mình ít ai dám đổi thóc lấy tôm ăn? Thứ này
em vẫn được ăn luôn. Khách sạn, nhà hàng chả
thiếu...Em về chơi, cốt rau mắm sơ sơ xong việc thôi!
Phải
đến nửa tháng sau. Hôm ấy thứ bẩy. Chúng tôi lại họp
mặt ở nhà bà ngoại. Mọi người đang chăm chú theo dõi
chương trình “Gặp nhau cuối tuần” trên VTV3 thì
có tiếng xe ôm tít còi inh ỏi ngoài cổng. Vợ chồng tôi
nhanh chân chạy ra. Một chị phụ nữ bịt khăn kín mặt
để tránh nắng, chỉ hở hai con mắt, xuống xe, tay xách
một cái bao xác rắn. Chị trút bao, lộ ra một chiếc lờ
đơm cá giếc bọc bẹ chuối còn ướt trương, vội vã
nói:
-
Hàng độc đấy! Bác bá nhận cho em. Chị Hà nhờ em mua
hộ, dặn từ mấy hôm trước. May quá dịp này có mưa.
Phải rình người ta vừa đơm ngoài đồng về, em mới
tranh mua được. Chẳng nơi nào kiếm được món này đâu.
Họa chăng đồng Năn Hà An còn mái chua là có thể có
thôi!
Thì
ra là một mớ cá mại đen! Vợ tôi đón lấy bọc "tặng
phẩm quí hiếm". Tôi nói nhỏ: Thế là vợ chồng
mình thua dì Hà rồi!
Cậu
em tôi đổ cá vào chậu nước mưa. Con đen, con xám, con
vẩy đỏ còn tươi nguyên, nhảy tanh tách vung cả ra ngoài
chậu. Chúng bơi dày đặc, quẫy lượn thỏa thuê, khoái
chí. Cậu em chọn lấy hai con to nhất, đẹp nhất thả
vào cái bát nhựa. Ngẫm nghĩ thế nào, cậu đứng dậy
bê chiếc bình rượu tây bốn, năm lít gì đó hạ xuống
nền nhà. Rượu trong bình đã tiếp khách còn chừng già
nửa. Cậu dồn rượu vào mấy cái chai, xếp lại. Loáng
sau, chiếc bình đã được rửa sạch sẽ, đổ nước mưa
trong vắt, pha thêm ít nước ruộng tới lưng. Cậu thả
hai con mại cờ vào đó. Nhìn qua thành bình, hai con mại
cờ tự dưng to phình lên, quét hai cái đuôi dài như hai
cái chổi. Chúng lượn quanh bình nhìn nhau, đôi mắt đen
tí long lanh, cái miệng nhỏ tẹo hớp hớp thật dễ
thương. Cu Thắng, cu Thế, cái tí Hường vỗ tay reo ầm ĩ
:
- A
ha! Nhà mình có bể cá rồi! Ông trẻ ơi, thả mấy con
nữa vào. Cho ít cơm, ít cộng cỏ cho nó ăn đi...
Cậu
em ngẩn ngơ ngắm nghía chiếc bình cá. Cậu như sống lại
tuổi bé thơ ngày nào cũng vô tư như bọn trẻ bây giờ...
Bữa
chiều ấy hóa ra lại bận và vui. Người thái ớt, thái
lá lốt, giã gừng. Kẻ thái quả chuối hột xanh. Cậu
thì trèo lên cây me hái trái non, nhưng cũng đủ chua.
Riêng chỉ còn thiếu khoản mẻ. Bà mẹ vợ tôi đi lần
khắp xóm không ai có, đành xin bát bỗng rượu đem về.
Cậu em vẫn mạch ký ức ngày xưa:
-
Thời ông bà nội với bố mình còn sống, bao giờ trong
nhà cũng nuôi một hũ mẻ. Mỗi hôm thả vào một bát cơm
nguội. Mẻ sống qua ngày này tháng khác. Có cá đồng về
là nấu được ngay, vừa khử tanh lại vừa thơm ngon!
Cậu
gặng vợ tôi:
-
Chị có nhớ không? Một lần em trêu chị. Chị đuổi em
chạy khắp quanh nhà. Lớ ngớ thế nào, chị vồ hụt em,
vồ luôn vào hũ mẻ, làm đổ lênh láng hết sạch. Sợ
bố về sẽ mắng hai chị em, em đánh liều vặt mấy quả
bòng chua, gạ thằng cu Ma Toi về lấy hũ mẻ nhà nó trút
sang hũ nhà mình. Keo ấy thoát trận...
Mải
bươn trải với cuộc sống làm ăn, dông dài với những
cuộc rượu bia, tiệc tùng thịnh soạn...Thú thực bữa
đó, nhờ cậu em, chính tôi mới có dịp được hưởng
một bữa riêu cá mại cờ ngon bùi, béo ngậy đến thế.
Tôi phân bua:
-
Cậu ơi! Chị cậu nấu ăn cũng nghệ lắm. Nhưng bây giờ
lấy đâu ra mại cờ được? Thừa nhận rằng cậu đi
Tây mà vẫn vấn vương hương đồng gió nội. Xin chịu
cậu!
Cậu
em tôi hạ đũa, mắt sáng lên:
-
Hôm nào ra Giêng Hai có mưa to, anh em mình thử đi giũ
ngạnh ngoài đê xem sao. Biết đâu lại có đấy!
Đến
nước này, tôi cũng đành hạ đũa kêu lên:
-
Cậu lại đánh đố các anh các chị nữa rồi! Mại cờ
ư? Cá ngạnh ư? Có mà lội ngược ngày xưa!