Việt Văn Mới
Việt Văn Mới







NGƯỜI ĐÀN BÀ CÔ ĐỘC





Một giọt máu đào hơn ao nước lã
(Thành ngữ)


I.


Nhận quyết định về hưu trong tay, bà Hồng ngồi buồn xo bên bàn làm việc. Thấy Việt đi qua bà liền vẫy tay gọi Việt lại trò chuyện.
- Cô phải nhận quyết định về hưu chính thức rồi Việt ơi!
   - Nhanh thế cô? Việt tính bắt tay bà Hồng chúc mừng nhưng bà không chìa tay bắt mà phẩy tay bảo:
   - Ôi mừng rỡ nỗi gì. Tôi sợ nhất cái ngày này, không ngờ nó đến sớm hơn tôi tưởng. Mấy thằng Ami (1) nó làm căng quá trời.
   - Cô làm bao năm rồi?
Bà Hồng:
   - Ngót nghét 30 năm rồi.
Việt bảo:
   - Vậy cô về nghỉ ngơi có khỏe hơn không, tội gì làm thêm vài năm nữa cho nhọc?
Bà Hồng lại phẩy tay:
   - Chắc gì khỏe hơn đi làm Việt ơi! Tôi nghĩ chết sớm thì có.
Việt an ủi:
   - Đâu tới mức độ nghiêm trọng như cô nghĩ. Nhiều người mong được như cô ma không được. Cô còn có người thân bên này, lo gì buồn?
   - Vậy sao? Bà Hồng thở dài – nhưng tôi lại khác. Với tôi về hưu sớm ngày nào là tôi tổn thọ ngày đó.
   Việt cười bảo:
- Cô cả lo quá thôi. Chứ về hưu cũng có cái thú của nó chứ? Ít nhất cô cũng khỏi thức khuya dậy sớm, thoát cảnh stress trong công việc. Về hưu cô có thời gian đi đây đó thăm viếng, khuây khỏa tinh thần không tốt hơn sao?
   - Đành là thế nhưng mỗi người một cảnh. Giá tôi được một phần như người ta đã là một nhẽ. Bà Hồng thở dài não nuột - Tiếng là có người thân bên này nhưng cũng như không Việt ơi! Lúc tụi nó còn nhỏ một tay cô chăm sóc, rồi lớn lên lại dựng vợ, gả chồng cho từng đứa. Nhưng khi sự nghiệp của tụi nó vững vàng rồi thì chẳng đứa nào buồn quan tâm tới cô nữa. Nhiều bữa cô đau yếu, bệnh hoạn trong người, gọi điện cho tụi nó mà cũng năm lần bảy lượt mới có đứa lò dò tới. Ở xứ này vật chất có ai thiếu thốn đâu, điều cô cần là tình người kìa, nhưng lần nào tụi nó đến cũng chỉ láo nháo một hồi rồi cáo chuyện ra về. Nghĩ nhiều lúc tủi muốn chết Việt ơi!
Bà Hồng ngừng chuyện, đôi mắt chợt đỏ hoe. Bà xoay xoay tờ quyết định nghỉ hưu trong tay như đang xoay vần định mệnh của chính mình, một lát bà đặt tờ giấy xuống bàn, quả quyết nói:
   - Mà thôi! Đời người là vậy Việt ơi! Lúc khổ, lúc khó người ta mới cần nương cậy mình để sống chứ khi có của ăn của để rồi họ đâu cần mình nữa. Người Việt mình ở riết xứ này rồi cũng trở nên máu lạnh lúc nào không hay.
Việt định nói một câu gì đó cùng bà Hồng như một lời biện giải nhưng cũng không tìm được lời nào thích hợp nên anh đành im lặng.

II.

Việt quen bà Hồng cũng đã lâu. Vì công việc nên anh cũng thường xuyên phải qua lại nơi bà Hồng làm việc. Đã có lần bà Hồng tâm sự: Cách đây gần ba chục năm bà đã tay xách, tay bồng bốn đứa cháu ruột của mình lên thuyền vượt biển. Đứa cháu lớn của bà lúc ấy vừa tròn 8 tuổi. Bà bảo sau ngày giải phóng sống cực quá Việt ơi! Cũng vì quá bức bách mà mình phải bỏ nước ra đi chứ thực tình lúc bước chân xuống thuyền là coi như phó thác số phận cho ông trời, chứ nào ai biết rồi mình sẽ trôi dạt tới phương nào đâu. Vậy mà sau gần hai tuần lênh đênh sóng nước, lương thực dự trữ trên thuyền cũng cạn kiệt, người trưởng tàu tự nhiên ngã bệnh rồi đột tử ngay trên thuyền. Xác cậu ấy chúng tôi phải khâm liệm qua loa rồi mọi người làm lễ cầu siêu gần hai ngày thì buộc phải thả xác xuống biển. Cảnh tượng lúc ấy hãi hùng lắm. Con thuyền của tụi tôi lúc ấy không người lái, vậy là cứ để nó tự nhiên trôi đi đâu thì trôi cho tới lúc cạn hết nhiên liệu. Nước uống mọi người trên thuyền cũng phải dè sẻn chia nhau từng giọt cuối cùng... Đúng vào lúc tuyệt vọng nhất thì chúng tôi gặp một chiếc tàu buôn chạy qua. Lúc ấy cũng chẳng ai còn đủ sức để mà gào lên kêu họ cứu nữa. Cũng thật là may cho chúng tôi lúc ấy là cậu trưởng tàu đã lo xa nên cách đó cả tuần đã bảo tụi tôi xé những tấm mền trắng rồi cắm lên mạn thuyền, phòng lúc lâm nạn... thế rồi chuyện cậu ấy dự liệu cũng tới, chúng tôi như những chiếc xác không hồn nằm lăn lóc trên thuyền. Khi thấy tàu chạy qua, có người lờ mờ nhận ra nhưng cũng không đủ sức để ngồi dậy mà vẫy gọi họ tới cứu. Rồi phước đức cho chúng tôi khi ấy có một chiếc tàu buôn đã phát hiện ra chúng tôi từ xa, họ bảo không biết tại sao đi tới chỗ chúng tôi thì con tàu bị trục trặc và nhất định không chịu chạy tiếp và vì vậy họ đã quyết định ghé lại rồi cứu cả mấy chục mạng lên tàu. Khi đã hoàn hồn chúng tôi bảo nhau có lẽ cậu trưởng tàu linh thiêng nên đã phù hộ cho chúng tôi thoát nạn... Chiếc tàu buôn nọ đã đưa chúng tôi vào một hòn đảo của Philipin... rồi hơn sáu tháng sau chính phủ Đức đã nhận chúng tôi qua đây tị nạn...

III.

Có thể nói đó là những năm tháng gian lao nhất của cuộc đời và ngay cả việc bà Hồng quyết định ở vậy để đi làm kiếm tiền nuôi dưỡng đám cháu ruột của mình ăn học cho tới ngày trưởng thành. Và bà Hồng cũng coi đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất trong cuộc đời của mình, mặc dù niềm hạnh phúc ấy cứ vợi dần, điều ấy bà có thể cảm nhận được khi thấy đám cháu của mình ngày càng tuột khỏi tầm tay, tầm nhìn của bà. Bà Hồng cũng nhiều lần tự nhủ: Con cháu khôn lớn ắt phải trưởng thành, phải sinh cơ, lập nghiệp. Nhưng dẫu tự nhủ hay tự an ủi đến mấy bà Hồng cũng không thể mãi tự dối lòng mình khi thấy những đứa cháu mà bà đã đánh đổi cả sinh mạng và tương lai của chính mình để nuôi dưỡng chúng, với bà ngày càng trở nên xa lạ tới độ nhiều khi bà không thể tưởng tượng nổi đó là những đứa cháu mà bà đã từng che chở nơi sóng to, gió cả, từng mớm ẵm cho từng giọt nước cuối cùng khi chúng khát lặng giữa biển khơi...
   - Hôm nào cô chia tay nghỉ hưu, Việt đừng quên nhé?
Bà Hồng chợt lên tiếng cắt ngang dòng suy nghĩ của Việt nhưng thấy anh không trả lời bà liền gõ nhẹ tay lên bàn bảo:
   - Này, làm gì mà thần người như sắp phải về hưu non thế? Bữa nào cô chia tay đừng quên tới dự nhé?
Việt cười đáp:
   - Vâng! Tất nhiên rồi. Thế cô có dự tính gì sau khi nghỉ hưu chưa?
Bà Hồng lại thở dài:
   - Dự tính à? Một người sắp hết "TÜV" (2) như cô còn dự tính được điều gì nữa chứ? Ngôi nhà cô đang ở chắc sẽ phải dọn đi nơi khác.
   - Sao thế cô? Việt hỏi.
   - Vì nó lớn quá. Ngày xưa cô nghĩ giữ lại ngôi nhà ấy, nơi gắn bó mấy chục năm với đám cháu, và phòng khi vợ chồng con cái tụi nó tới thăm còn có chỗ mà ở, nhưng lâu lắm rồi cũng chẳng có đứa nào thèm quan tâm tới bà cô này nữa, trừ phi cô có chuyện phải nhờ vả tụi nó. Mà nếu có thì tụi nó cũng gặng hỏi lên hỏi xuống, đôi khi còn mắng là chuyện có vậy mà cũng phải nhờ. Nghĩ nhiều lúc đau lòng lắm, nhưng biết làm sao. Chúng nó đủ lông đủ cánh, đã ông nọ bà kia hết cả rồi, giữ cũng chẳng được. Bà Hồng chẹp miệng - Thôi thì cô trả quách cái nhà cũ rồi thuê căn phòng nhỏ hơn, mình cô ăn ở gì cũng xong.
Việt hỏi:
   - Cô có nghĩ chuyện về Việt Nam sống không?
   - Chuyện ấy cô cũng có nghĩ tới nhưng còn kẹt nhiều chuyện bên này lắm. Chuyện quốc tịch, nhà cửa rồi tiền hưu biết giải quyết thế nào? Cô cũng có về thăm Việt Nam vài lần, cuộc sống đã dễ thở hơn nhiều so với ngày cô còn trong nước. Có lẽ kinh tế của mọi người đã có phần dư dả hơn. Ở Việt Nam cô cũng còn vợ chồng đứa cháu họ, tụi nó cũng khuyên cô về hưu thì xin hồi hương về ở hẳn với vợ chồng con cái tụi nó tại Sài Gòn rồi trông nom nhà cửa, vườn tược và con cái giúp tụi nó. Biết là tụi nó thương cảnh mình nên khuyên thực lòng chứ chẳng có ý lợi dụng hay nhờ vả gì vì kinh tế tụi nó cũng khá giả lắm. Nhưng mình sống xứ tự do quen rồi, giờ về phụ thuộc người khác lại không phải người ruột thịt, máu mủ của mình, cô cũng ngại. Vả lại cứ nghĩ tới đám cháu ruột mà còn xử với cô như vậy - bà Hồng khẽ day sống mũi - rủi mình về hẳn, có chuyện gì xảy ra xoay cũng chẳng kịp. Cô nghĩ chín cả rồi. Xứ này dù sao cũng là quê hương thứ hai của mình, vả lại những ngày khốn khó nhất của đời người là khi qua đây mình cô thân gái; tiếng tăm một chữ cắn đôi không biết; một nách bốn đứa cháu thơ dại... vậy mà cô cũng vượt qua được. Giờ nhà cửa mình có, đành lẽ là nhà thuê, nhưng với khoản lương hưu hàng tháng cô cũng đủ sống cho tới cuối đời. Mà thôi, chuyện của cô buồn lắm Việt ơi. Việt cũng phải làm việc nữa. Cô cũng vậy. Còn ít bữa nữa cô cũng muốn làm việc cho khuây khỏa chứ về hưu rồi hết đi chợ mua sắm, cơm nước xong chỉ còn mục bó gối ngồi chầu xem ti vi hoặc lại giống mấy bà hàng xóm đứng dựa cửa sổ ngắm xuống đường cho hết ngày. - Bà Hồng kéo ghế ngồi lại ngay ngắn bên bàn làm việc rồi bảo - Thôi, cô làm việc đây. Việt cũng về làm việc đi kẻo sếp nhìn thấy lại bảo cô sắp về hưu, kiếm chuyện chây lười. Nói xong bà Hồng bắt chặt tay Việt như một lời giao ước:
   - Vậy nhé? Buổi cô chia tay đừng quên nhé?
Nhưng cái ngày ấy sẽ mãi mãi không bao giờ đến với bà Hồng bởi bà đã qua đời ngay sau bữa đó vài tuần trong một tai biến mạch máu não...

IV.

Đám tang của bà có hai người đàn bà trẻ lồng lộn khóc than. Họ khóc: "Ới cô ơi! Sao cô nỡ lòng vội vã ra đi không một lời trăng trối để các cháu cô cũng không có cơ hội phụng dưỡng cô lúc đau yếu, tuổi già... hả cô ơi...". Nghe họ ngả ngốn khóc không ít người trong đám tang lễ cũng phải mủi lòng, khóc theo.
Những đồng nghiệp của bà Hồng thì kể lại rằng: Trước ngày mất vài hôm bà Hồng vào xưởng với cặp mắt mọng nước, đỏ hoe. Mọi người gặng hỏi thì bà bật khóc, kể lại việc bà gọi điện thoại, tính nhờ đám cháu tới chở bà đi mua sắm đồ liên hoan chia tay trước lúc nghỉ hưu. Hai đứa cháu lớn thì từ chối thẳng vì ở quá xa. Một đứa thì viện lý do xe mới hỏng không tới được. Còn cô cháu gái út mà bà thương yêu nhất, ở gần nơi bà sống, nghe bà gọi điện thì mắng bà xơi xơi rằng bà đã ở Đức tới mấy chục năm mà vẫn lẩm cẩm, quê mùa một cục. Nó đay nghiến bà rằng muốn nhờ vả nó chuyện gì cũng phải đặt hẹn trước vài ba tuần, chứ tụi nó đâu phải kẻ ăn người ở mà hễ bà gọi phôn là tụi nó phải săn đón, chầu chực. Mấy người hàng xóm thân thiết của bà Hồng thì kháo nhau:
   Đám cháu ruột bà Hồng chắc thương cô nên sau đám tang, trong buổi tới dọn dẹp nhà cửa của bà cô để trả lại cho chủ nhà, họ đã khoe khoang rằng sẽ kiếm mua cho bà cô một mảnh đất rồi về Việt Nam thuê kiến trức sư thiết kế cho bà một "quả" lăng giống hệt lăng Tự Đức gọi là bù đắp công ơn dưỡng dục cho bà cô ruột của mình...

   Người ta còn bảo: Bà Hồng vậy mà có phước!


Ghi chú:
(1) Chỉ người Mỹ
(2) Tiếng lóng để chỉ người đã ở tuổi xế chiều.

19.01.2006