Việt Văn Mới
Việt Văn Mới







ÔNG GIÁO



  M ặt trời tím thẫm góc trời xa ,gió thốc lồng lộng vào mặt ông lạnh buốt .Những cánh buồm khuất dần ngoài khơi sau màn sương mù giăng giăng trắng xoá. Ông quay bước lầm lũi đi vào con xóm nhỏ Từ ngày ngôi trường tư thục nơi ông dạyhơn hai mươi năm qua đóng cửa ,ông trở thành người “mất dạy “và cuộc đời ông đã sang trang .Ông quay về với cái gốc nông dân của ông bà

Thế là mưa nắng phủ lên mái tóc ông bạc trắng .Đôi vai ông nổi lên những cục u chai sần vì gánh trên vai không biết cơ man nào là củi .Hai bàn tay ram rám nứt nẻ chứ không còn thanh mảnh như bàn tay cầm phấn ngày nào nữa vì ông phải cõng trên lưng gánh nặng trách nhiệm nuôi bẩy miệng ăn

Cuộc đời ông mòn mỏi như dấu phẩy khi ông cuốc từng nhát cuốc trên mảnh ruộng nhỏ bé ông mua từ đồng lương giáo viên ít ỏi bao năm chắt chiu ,dành dụm được .Cuộc đời ông nặng nề như dấu chấm khi mỗi ngày hai lượt trên vai ông trĩu nặng những gánh củi nặng hơn trọng lượng thân thể ông .Vợ ông buôn bán hàng chuyến bị bạn hàng lừa lấy mất cả vốn lẫn lời ,tiếc của vì đã mất sạch vốn liếng có được từ mồ hôi nước mắt của mình nên bà bị bệnh rối loạn tâm thần, trở nên dở người ,chẳng còn biết làm gì ngoài việc suốt ngày chì chiết lẩm bẩm trách cuộc đời sao không công bằng mà để người thì quá giàu ,quá sướng mà kẻ thì quá nghèo ,quá cơ cực

Mỗi ngày đi qua cứ lặng lẽ, lặng lẽ như sự cam chịu và nhẫn nhục của ông. Ông lam lũ, nhọc nhằn đánh đổi đồng tiền bằng những giọt mồ hôi mặn chát như chất axit đã bào mòn bao nhiêu tấm áo của ông rách lưng vá chằng vá đụp. Phèn ruộng nhuộm hai ống quần ông thâm sũng như vết thời gian ăn mòn hai bắp chân to khoẻ của ông giờ còm cõi, teo tóp.

Không một lời than thở, ông lầm lũi,lầm lũi làm việc như một cỗ máy rôbốt, không ai biết ông buồn hay vui, chỉ biết là mỗi khi hàng xóm láng giềng có người bị bệnh nhờ ông bắt mạch, hốt thuốc thì những lúc đó nụ cười đôn hậu nở trên đôi môi khô héo của ông và khuôn mặt hiền lành bừng sáng dãn ra.

Lưng ông ngày càng còng xuống. Trách nhiệm làm cha cũng vơi bớt. Thằng con trai lớn của ông lấy vợ khá nhưng anh ta lại bị bệnh tim ,quanh năm chạy tiền thuốc men cũng mêt nghỉ . Bốn đứa con gái của ông đứa nào cũng vất vả, đứa nào cũng nghèo cả. Một đứa lấy phải chồng đã lười làm lại còn rượu chè, bê tha.,Một đứa theo nghiệp văn chương thi phú không biết làm kinh tế Hai đứa nối nghiệp ông theo ngành sư phạm Còn thằng út làm thuê .làm mướn công việc không ổn định chẳng ra làm sao.

Năm nay nắng gắt quá, đồng ruộng khô cằn, nước nôi không có. Mảnh ruộng màu mỡ bạc trắng phơi mình nứt nẻ. Ông không còn sức để gánh củi, ông chỉ còn biết nhận lại nơi những đứa con chút ít tình cảm bao la mà ông đã dành cho chúng. Hôm nay đứa này cho ông chục ký gạo, ngày mai đứa kia cho ông dăm ký nếp.

Đắp đổi qua ngày bằng những bữa rau, bữa cháo. Các con tạo điều kiện cho ông thực hành chút kiến thức Đông Y vốn có sẵn nơi ông. Ông lên núi hái thuốc về để chữa bệnh cho bà con nghèo trong xóm nhỏ của ông. Ông có bài thuốc nam chữa bệnh thấp khớp rất hay.

Cái đói, cái nghèo, bệnh tật đã quật ông ngã quỵ. Ăn uống kham khổ, vất vả, buồn phiền chồng chất đã khiến ông nằm xuống và không dậy được nữa.

Một đêm mùa hè ông lặng lẽ ra đi, không gặp mặt cũng như không nói một lời nào với bất kỳ ai.

Ông đã mệt mỏi, suy nhược từ lâu nhưng ông không than thở một lời. Ông không cho các con biết mình đau ốm, bệnh tật.

Tình yêu thương của ông dành cho các con lớn quá. Ông sợ mình làm các con bận tâm. Ông sợ làm các con ông khổ thêm vì chúng đã khổ sẵn rồi. Ông ráng chịu đựng, gắng gượng chống chọi với bệnh tật.

Đến khi lực mỏi, hơi mòn, ông nằm lịm đi với những mạch máu não bị vỡ.

Ông ra đi thanh thản trong ngôi nhà lụp xụp tồi tàn của ông bao năm nay ông ao ước được tu bổ, sửa sang lại, nhưng cơ hội và may mắn chưa một lần mỉm cười vói ông.

Trong cơn gió ban mai dịu mát hiếm có của mùa hè, từng đoàn người đông đảo lũ lượt theo nhau tiễn đưa ông đến nơi an nghỉ. Không chỉ những đứa con và người thân của ông tiếc thương mà biết bao học trò của ông cùng hàng xóm, láng giềng thân thiết, quý mến nuối tiếc ông.

Kiếp sống của ông đói rét, bần hàn, nghèo túng trong sự tận cùng của nghèo túng nhưng khi chết đi lại trở thành người nhận được nhiều tình cảm nhất.

Ông nhận được sự giàu có về tình cảm. Các con ông tuy nghèo nhưng hiếu thuận, học trò lễ nghĩa. Tuy bao năm nay ông không còn đứng trên bục giảng nhưng học trò bao lớp già trẻ đều tề tựu khá đông đủ để đưa tiễn ông lần cuối cùng. Bà con, hàng xóm chắt lưỡi tiếc rẻ khi nhắc ông với hai từ đầy yêu thương kính trọng “ông giáo”.

Đứa con gái ông đã khắc một bài thơ lên bia mộ đá thay cho lời cảm tạ tình thương bao la của người cha tuyệt vời của mình.

Thế đấy, một kiếp người chỉ là phù du với cát bụi nhưng lại vĩnh hằng trong tâm tưởng../