1. Những ngôi nhà thờ nước Nga
Trong những tác phẩm văn học Nga làm tôi say mê từ khi còn nhỏ xíu hầu như ít có những trang miêu tả nhà thờ. Ấn tượng của tôi về nhà thờ Nga là cảnh chàng sinh viên Nekhliudop gặp cô hầu Cachiusa ngây thơ xinh xắn trong nhà thờ vào ngày Lễ Phục sinh. Nụ hôn “Chúa sống lại rồi” mở đầu cho chuyện tình của họ. Thời gian trôi qua, chàng NêKhliuđốp đã bỏ rơi Cachiusa tội nghiệp, đẩy cô vào kiếp sống long đong, vất vả và tù tội. Một lần, vô tình gặp lại người yêu cũ, trước tình cảnh của Cachiusa, chàng đã dằn vặt, đấu tranh tư tưởng và quyết định sẽ thay đổi cách sống. Chàng quan tâm giúp đỡ đến mọi người, hết lòng bù đắp cho Cachiusa. Và cuối cùng, tình yêu của họ đã được phục sinh. Nhà thờ là nơi mở ra hy vọng, cũng là nơi đền đáp những mất mát, tôi đã cảm nhận Phục Sinh của Lep Tonxtoi như thế.
Nhưng với tôi ấn tượng về nhà thờ Nga mạnh mẽ hơn là từ những bức tranh của những danh họa Nga, phần nhiều là nhà thờ ở thôn quê với tháp chuông và mái vòm tròn nổi bật trên nền trời xanh đắm đuối mùa thu hay trên nền tuyết trắng mênh mông của mùa đông nước Nga. Mái vòm nhà thờ như dấu ấn cuối cùng của quê hương khi người ta từ giã để ra đi, cũng như cái đích để người ta tìm về sau những hành trình gian nan mỏi mệt. Cũng giống làng quê Việt, đi xa về chỉ cần nhìn thấy mái đình, cây đa hay cổng làng rêu phong thì lòng người đã lắng lại, bình yên.
Mười ngày ở nước Nga tôi đã đi qua và thăm thú biết bao ngôi nhà thờ, từ những nhà thờ nổi tiếng về lịch sử và vĩ đại về kiến trúc và trang trí ở hai thành phố lớn Saint Peterburg và Moskva đến những ngôi nhà thờ nhỏ nhắn bình dị bằng gỗ ở làng quê, nơi đâu tôi cũng nhìn thấy người dân Nga đến thăm viếng và làm lễ với thái độ thành kính, từ già đến trẻ, nam và nữ. Những chiếc khăn san choàng lên mái tóc các cô gái, những người đàn bà Nga như dấu hiệu của sự “phục sinh” niềm tin vào Chúa – niềm tin tưởng như đã không còn tồn tại qua hơn 70 năm chế độ Xô viết chủ trương vô thần.
Từ góc độ nghề nghiệp đi đến đâu tôi cũng nhìn thấy những nhà thờ, tu viện đang trùng tu, sửa chữa và cả xây mới. Nhiều nhà thờ có niên đại khoảng thế kỷ 11,12 đã được xây dựng lại theo hình thức cũ, không quá to lớn nhưng tinh tế và duyên dáng với hai màu xanh trắng. Một số nhà thờ từng là những trung tâm của Chính thống giáo Nga ở các thành phố lớn cũng được phục dựng lại theo nguyên bản, trong đó công trình vĩ đại nhất có thể kể đến là Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ (tiếng Nga: Хра́м Христа́ Спаси́теля).
Đây là nhà thờ được coi là trung tâm của Giáo Hội Chính Thống Nga, quy mô cao nhất và lớn nhất trên thế giới, tọa lạc ở thủ đô Moskva bên bờ sông Moskva. Nhà thờ ban đầu được xây dựng vào năm 1883, bị phá hủy năm 1931 dưới thời Stalin và xây dựng lại một cách trung thực theo bản mẫu cũ trong giai đoạn 1994 - 2000. Những ngày ở đây nhiều lần đi qua nhà thờ này, nhưng chỉ khi được cô em thân thiết đưa đến tận nơi tôi mới cảm nhận hết sự giá trị của nó. Không chỉ vì nhà thờ được xây dựng lại theo đúng thiết kế ban đầu vào thế kỷ 19, không chỉ vì sự vĩ đại càng được tôn lên bởi màu trắng của
hàng trăm khối đá cẩm thạch lấp lánh trong ánh đèn đêm hay sáng rực trong ánh mặt trời, mà vì, như tôi đọc từ những bản thuyết minh trong nhà
thờ, nó được phục dựng chỉ trong sáu năm sau khi vào năm 1990 Giáo hội Chính thống Nga nhận được sự cho phép để xây dựng lại Nhà thờ
chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ. Một quỹ xây dựng được thành lập trong năm 1992 , việc xây dựng nhà thờ bắt đầu vào năm 1994 và
hoàn tất năm 2000. Chỉ có sáu năm và từ nguồn quỹ của xã hội! Và ở khắp nước Nga không chỉ có một ngôi nhà thờ, một tu viện được
phục hồi bằng phương thức này.
Những ngôi nhà thờ cổ xưa hoặc nhà thờ trung tâm đều là những điểm du lịch thu hút rất đông khách tham quan, tìm hiểu.
Nhiều nhà thờ trong quá trình trùng tu đã tìm thấy di tích khảo cổ và tiến hành bảo tồn ngay tại chỗ, trở thành một bộ phận di sản và
làm tăng giá trị văn hóa – lịch sử của nhà thờ. Có thể nhận thấy nhà thờ ở nước Nga không chỉ là trung tâm tôn giáo, nó còn tiêu biểu
cho kiến trúc và kỹ thuật xây dựng nhà thờ Chính thống giáo, là những bảo tàng nghệ thuật tranh tượng, là dấu ấn lịch sử lâu dài cùng
những biến động có ảnh hưởng không nhỏ đến thế giới hiện đại. Vậy nên chỉ sau vài năm bắt đầu thể chế mới, chính quyền Nga đã cho phục
hồi Chính thống giáo và xây dựng lại nhiều nhà thờ bị phá hủy trước đó. Có thể đây là một hành xử chính trị khôn ngoan nhằm tạo dựng
lại cho dân chúng một niềm tin, nhưng trên hết người ta đã hành xử đúng với một bộ phận quan trọng, độc đáo và vĩ đại của của nền
văn hóa Nga.
Niềm tin được khởi đầu và duy trì từ những giá trị văn hóa bao giờ cũng bền chặt hơn từ những thần tượng chính trị nhất thời.
2. Sức sống của cát
Sa mạc gợi cho người ta hình ảnh của một thế giới không có sự sống. Chỉ còn sự im lặng ngàn đời của cát và những cơn cuồng
phong của gió trước sự im lặng chết chóc ấy.
Trên chuyến bay từ Hồng Kông đến Dubai, khi màn hình chuyển từ màu xanh bất tận của mặt đất, của đại dương sang màu nâu vàng bợt bạt cũng bất tận như thế, tôi biết mình đang đi vào thế giới sa mạc, thế giới của ánh nắng chói chang, của cái nóng bỏng da rát thịt, của những bóng áo choàng trắng và đen dài phủ gót chân, thế giới của những khăn trùm đầu và những đôi mắt đẹp tuyệt trần, đôi mắt từ nghìn lẻ một đêm xa xưa sống lại.
Dubai là một thành phố đồng thời cũng là một trong bảy tiểu quốc của Các tiểu Vương quốc ARập thống nhất . Cùng với tiểu quốc – thủ đô Abu Dhabi, Dubai là một trong hai nước thịnh vượng và phát triển nhất. Khởi đầu một cách khiêm tốn và lặng lẽ từ nửa sau thế kỷ 20, thành phố đã trải qua một sự biến đổi đáng kinh ngạc để có những kỳ quan ngày hôm nay. Một đất nước nổi tiếng với nhiều kỷ lục như đảo nhân tạo lớn nhất, trung tâm thương mại lớn nhất, khách sạn 7 sao sang trọng nhất hay tòa nhà cao nhất thế giới. Có thể nói Dubai là thành phố của những điều kỳ diệu nhất mà con người có thể xây dựng nên từ cát.
Cuối tháng tám không còn là thời gian cao điểm của nắng nóng nhưng nhiệt độ ngoài trời thường vào khoảng 40 độ C, bước chân ra đường không thể không choàng khăn hay đội mũ, vậy mà mặt vẫn rát lên vì hơi nóng phả vào. Có khăn choàng che kín mặt thật là lợi hại, nhưng nếu không mang kiếng mát thì bị chói mắt vì ánh nắng gay gắt của mặt trời và sự phản chiếu từ cát. Vậy mà những người phụ nữ ở đây ít khi mang kiếng mát, phải chăng vì luôn chống chọi với cái nắng như vậy mà họ có cặp mắt sâu và hàng mi dài rợp hút hồn người ta như thế. Thực ra đàn ông ở đây cũng có đôi mắt rất đẹp. Nhưng có lẽ vì không bịt mặt nên người ta thường có ấn tượng hơn với bộ râu quai nón rất “đàn ông” của họ.
Dubai có đến vài trăm ngôi nhà cao tầng giữa mênh mông cát và một phần sát bờ biển. Tuy nhiên ta không thấy thành phố nặng nề thô kệch hay chật chội là nhờ hầu hết những tòa nhà đều có màu xanh biển, xanh lá cây của những tấm kính hoặc màu cát (vàng nâu nhạt hay trắng xám), điểm những đường viền trang trí màu trắng (màu của thánh đường Hồi giáo) làm cho tất cả các công trình trở nên nhẹ nhõm và duyên dáng. Hơn nữa không có tòa nhà nào kiến trúc giống nhau, từ những khách sạn hay công sở cao vài chục đến vài trăm tầng hình thức rất hiện đại; đến những khu chung cư cho dân nghèo hay villa của người giàu có chỉ một trệt một lầu kiến trúc truyền thống với tháp cao đón gió và những đường trang trí kiểu mái vòm…
Cả Dubai như một công trường xây dựng khổng lồ, nơi nào cũng có những công trình đang xây, đang hoàn thiện. Giữa những toà nhà là cát, khu đất sắp xây dựng cũng là cát, rồi cát đổ ra lấn biển làm đảo nhân tạo… Vậy mà thành phố chỉ có nắng nóng chứ không bụi bặm. Và đây đó vẫn có những mảng xanh dù nho nhỏ nhưng cũng làm dịu đôi mắt trong chốc lát.
Trên những con đường trong thành phố thậm chí cả trên xa lộ từ Dubai đến Abu Dhabi người ta trồng cọ hoặc chà là như cây xanh đô thị. Người ta trồng chúng trong khuôn viên nhà, khách sạn… như là cây kiểng sân vườn, dù hai loại cây sống được ở xứ cát này lá của chúng không xanh mà gần như màu của cát. Những thảm cỏ nho nhỏ, những bụi cây thấp là màu xanh hiếm hoi còn lại của thành phố, tuy ít ỏi nhưng nó làm nên sự sống của cát. Thật ra sự sống của màu xanh nằm ở phía dưới, trên nền cát dưới lớp đất mỏng là những đường ống nước nhỏ như ngón tay, tưới nhỏ giọt làm cho đất luôn ẩm đủ cho cây cỏ sống giữa nắng sa mạc. Nhìn màu xanh ở đây mới thấy quý từng giọt nước.
Dubai có cả một con sông đào nhân tạo chảy giữa thành phố, nước xanh trong nhưng lờ lợ mặn. Hai bên nhà xây sát bờ sông. Cũng có tàu du lịch đưa khách đi từng đoạn ngắm hai bên bờ, rồi ghé vào khu chợ Gia Vị không chỉ có gia vị mà còn bánh kẹo, chà là, đồ lưu niệm… Kế đó là Chợ Vàng nổi tiếng với bốn dãy phố quanh một Trung tâm cao bảy tầng lầu rực rỡ chói lòa những đồ trang sức bằng vàng y và đá quý cho những người khách như tôi thỏa sức… ngắm nhìn.
Khách sạn độc đáo hình Cánh Buồm được xây trên một hòn đảo nhân tạo cách xa bờ biển, nhưng rồi cát lại lấn biển để mọc thêm nhiều công trình khác nên bây giờ trông khách sạn như ngay trên bãi biển. Nói đến công trình lấn biển thì phải kể đến quần đảo Cây Cọ nổi tiếng. Đi trên con đường chính hay những đường nhánh không ai nghĩ đây là quần đảo nhân tạo càng không nghĩ diện tích nhỏ, bởi chen giữa những công trình to lớn “hoành tráng” là sự thoáng đãng của màu xanh cây cỏ trên nền xanh của biển. Tại đây nhiều công trình cũng đang tiếp tục xây dựng nhưng cả quần đảo được quy hoạch rất đẹp.
Nhiều người đã nhập cư đến đây lao động trên những công trường xây dựng hay trong các khách sạn, nhà hàng, trung tâm thương mại nhiều như sao trên trời. Các công ty lớn của thế giới đặt tại đây cũng thu hút nhiều nhân tài. Bên cạnh những bóng áo choàng đen trắng cũng còn rất nhiều trang phục phổ biến khác, chưa kể khách du lịch lúc nào cũng nườm nượp. Người ta đến đây không chỉ để vui chơi, hưởng thụ những dịch vụ cao cấp nhất, mà còn để tận mắt chứng kiến con người có thể làm sa mạc thay đổi thế nào.
Sức sống của cát ở đây là do con người mang lại, không chỉ từ sức lực mà quan trọng hơn là từ trí tuệ hoạch định tầm nhìn và từng bước thực hiện, tuy chỉ mới khoảng hai chục năm. Dường như giữa sa mạc mênh mông không đầu không cuối con người buộc phải “nhìn thấy” những ốc đảo từ rất xa, người ta phải biết tính toán đường đi và sức lực của mình để có thể đến nơi có nước ngọt và bóng mát trước khi bị lạc đường rồi chết khô trên sa mạc.
Cuộc sống giữa sa mạc của Dubai và Abu Dhabi cũng bắt đầu như thế.
3. Thị trấn nhỏ bên vịnh biển
Một ngày hè tháng bảy tôi đến một thị trấn nhỏ vốn là một làng chài ở Baie de Somme (vịnh sông Somme) trên bờ biển vùng Picardie nước Pháp. Bên kia vịnh là cũng là một thị trấn nhỏ nhưng ngày cuối tuần tấp nập hơn vì có họp chợ… Mỗi khi thủy triều rút xuống có thể từ hai thị trấn đi bộ qua vịnh đến bờ bên kia, trên lớp cát ẩm màu nâu đen và giữa những cánh chim hải âu táo tác kiếm ăn trên vùng nước lợ.
Thị trấn nhỏ bé có ba con đường chính gần song song với nhau, một ven bờ biển và hai chạy xuyên qua, từ đó có những đường xương cá nhỏ hơn cắt ngang. Nhà cửa cũng nhỏ nhắn xinh xắn, hầu hết một trệt một lầu, còn giữ được nhiều nét xưa cũ. Nơi ngã ba ngã tư có vài ngôi nhà cao hơn thường là tiệm bán buôn. Khu vực mới mở rộng có nhiều khu nhà mới, phần lớn người từ Paris về mua làm nhà nghỉ. Trong thị trấn có vài tòa lâu đài, dinh thự cổ, trong đó có tòa lâu đài từng là nơi nữ anh hùng Jeanne D'arc bị bắt giamvào năm 1430 trong cuộc chiến chống quân Anh , trước khi bị đưa về Rouen xử tử trên dàn thiêu. Tượng nàng được đựng ngay con đường chính bên bờ biển, bồn hoa dưới chân nàng những nhánh oải hương dịu dàng màu tím luôn tươi tắn trong ánh nắng ngày hè đến tận gần 10g tối.
Trên con đường ven biển nhìn ra một cảng nhỏ, tàu đánh cá tải trọng nhỏ, tàu du lịch đậu san sát… trên bờ là nhà hàng, khách sạn cũng nhỏ nhắn xinh xinh, mấy cửa hàng hải sản mang thương hiệu của những tàu cá lâu đời trong làng. Ngày cuối tuần khách đông đủ để ngồi kín những nhà hàng, thưởng thức đồ ăn tươi ngon trong cái gió se se ẩm ướt của cơn bão rớt nơi xa…
Trong thị trấn có một ngôi nhà thờ - chưa có nhà thờ thì chưa thành một cái làng, ai đó đã nói như vậy nhỉ? Nhà thờ xây bằng đá còn nguyên lớp tường xù xì của gác chuông, chắc hẳn đây là phần kiến trúc cổ nhất từ thời hình thành làng cổ, còn gian chính trông mới hơn, có lẽ được xây, sửa lại vào thời gian sau. Bước vào nhà thờ tôi ngạc nhiên vì so với bên ngoài có phần giản đơn, bên trong khá rộng rãi, cao ráo, có thể nhận ngay ra nhà thờ của một làng chài bởi hàng chục tấm hình những con tàu đánh cá của “người làng” với đầy đủ thông tin được treo dọc theo những cây cột và hai bên tường. Một bên “bàn thờ” thánh còn có cả mô hình bằng gỗ chiếc tàu nhỏ đầy đủ cột buồm mái chèo..
Nhà thờ có những bức tranh kính tuyệt đẹp. Ánh mặt trời cuối chiều hè xuyên qua lớp kính màu làm cho vẻ dịu dàng thánh thiện tràn ngập nơi đây… Phía cuối là bức tượng thánh Jeanne D'arc trong dáng vẻ thiếu nữ nông dân chất phác, tóc cắt ngắn dáng người khỏe mạnh, trang phục giản dị, không khác lắm bức tượng bên bờ biển.
Thị trấn nhỏ còn là nơi Jules Verne – nhà văn khoa học viễn tưởng nổi tiếng người Pháp - sống những ngày ông viết cuốn tiểu thuyết phiêu lưu “80 ngày vòng quanh thế giới” được xuất bản lần đầu vào năm 1873. Từ làng chài nhỏ bé này nhà văn đã “nhìn thấy” những nơi chốn và phương tiện giao thông hiện đại mà các nhân vật của ông “đi qua” trong hành trình tưởng tượng của mình.
Các cửa sông ở Baie de Somme có biên độ thủy triều khá lớn, khi triều lên nếu không có hồ chứa với đê bao thì có thể sẽ ngập cả khu vực ven biển của thị trấn. Khi triều xuống, hồ chứa nước biến thành vùng “biển cạn” cho nhiều loài chim về cư trú và là khu bảo tồn lý tưởng. Ngày mùa hè khá dài, khoảng 8,9 giờ tối bạn có thể dạo chơi trên đê bao, ngắm nhìn từng đàn hải âu bay về đậu trắng lòng hồ, những dải cỏ lau bắt nắng vàng óng ánh, bầu trời tiếp giáp mặt nước chuyển dần các sắc màu từ xanh biếc của nước đến xám đen của những dải cát… Chỉ khoảng hơn một tiếng sau hoàng hôn buông trên vịnh, những tia mặt trời cuối cùng còn làm nền trời óng ánh màu mây ngũ sắc…
Thị trấn cổ xưa nhỏ bé nay cũng đã thay đổi nhiều, nhưng những dấu tích lịch sử đều được cẩn trọng gìn giữ dù chỉ có chút liên quan đến cuộc đời của một nữ anh hùng, một nhà văn nổi tiếng, cũng như nhà thờ, những con phố nhỏ giữ lại dấu tích làng chài ngày xưa… Đường phố và những ngôi nhà mới xây hòa hợp cảnh quan cũ làm cho thị trấn càng đẹp hơn, vẻ đẹp bình lặng êm đềm thích hợp cho những người muốn về đây nghỉ ngơi sau những ngày làm việc căng thẳng ở các thành phố đông đúc.
Nơi đây vẫn bảo tồn nguyên vẹn cảnh quan tự nhiên và di tích lịch sử - văn hóa nên vào những ngày cuối tuần – nhất là mùa hè - ở đây khá đông du khách. Tuy nhiên không vì vậy mà cuộc sống thị trấn nhỏ trên bờ vịnh sông Somme bị “thương mại hóa”. Sự niềm nở nhiệt tình và chất phác của người dân như thỏi “nam châm” giữ chân du khách và có dịp thì họ luôn quay trở lại.
Thị trấn này làm tôi nhớ đến Cần Giờ, nơi vịnh Gành Rái đổ ra biển và bên kia là thành phố Vũng Tàu. Cũng vùng cửa sông mặt
nước đổi màu theo thủy triều lên xuống, cũng bờ biển ẩm ướt lớp cát nâu đen mịn màng hút lấy bàn chân, cũng những dãy phố xưa hai bên bờ vịnh,
và cả khu bảo tồn rừng ngập mặn… Những kinh nghiệm, bài học về bảo tồn di sản và phát triển du lịch bền vững đâu phải chỉ có ở những Di
sản thế giới mà chúng ta có thể học được ở bất cứ nơi nào, như ở Baie de Somme, vì đó là những điều giản đơn nhưng được thực hiện từ
sự hiểu biết, yêu quý và trân trọng thiên nhiên – lịch sử nơi mình đang sống.
VVM.11.10.2024.
Mười ngày ở nước Nga tôi đã đi qua và thăm thú biết bao ngôi nhà thờ, từ những nhà thờ nổi tiếng về lịch sử và vĩ đại về kiến trúc và trang trí ở hai thành phố lớn Saint Peterburg và Moskva đến những ngôi nhà thờ nhỏ nhắn bình dị bằng gỗ ở làng quê, nơi đâu tôi cũng nhìn thấy người dân Nga đến thăm viếng và làm lễ với thái độ thành kính, từ già đến trẻ, nam và nữ. Những chiếc khăn san choàng lên mái tóc các cô gái, những người đàn bà Nga như dấu hiệu của sự “phục sinh” niềm tin vào Chúa – niềm tin tưởng như đã không còn tồn tại qua hơn 70 năm chế độ Xô viết chủ trương vô thần.
Đây là nhà thờ được coi là trung tâm của Giáo Hội Chính Thống Nga, quy mô cao nhất và lớn nhất trên thế giới, tọa lạc ở thủ đô Moskva bên bờ sông Moskva. Nhà thờ ban đầu được xây dựng vào năm 1883, bị phá hủy năm 1931 dưới thời Stalin và xây dựng lại một cách trung thực theo bản mẫu cũ trong giai đoạn 1994 - 2000. Những ngày ở đây nhiều lần đi qua nhà thờ này, nhưng chỉ khi được cô em thân thiết đưa đến tận nơi tôi mới cảm nhận hết sự giá trị của nó. Không chỉ vì nhà thờ được xây dựng lại theo đúng thiết kế ban đầu vào thế kỷ 19, không chỉ vì sự vĩ đại càng được tôn lên bởi màu trắng của hàng trăm khối đá cẩm thạch lấp lánh trong ánh đèn đêm hay sáng rực trong ánh mặt trời, mà vì, như tôi đọc từ những bản thuyết minh trong nhà thờ, nó được phục dựng chỉ trong sáu năm sau khi vào năm 1990 Giáo hội Chính thống Nga nhận được sự cho phép để xây dựng lại Nhà thờ chính tòa Chúa Kitô Đấng Cứu Độ. Một quỹ xây dựng được thành lập trong năm 1992 , việc xây dựng nhà thờ bắt đầu vào năm 1994 và hoàn tất năm 2000. Chỉ có sáu năm và từ nguồn quỹ của xã hội! Và ở khắp nước Nga không chỉ có một ngôi nhà thờ, một tu viện được phục hồi bằng phương thức này.
Cả Dubai như một công trường xây dựng khổng lồ, nơi nào cũng có những công trình đang xây, đang hoàn thiện. Giữa những toà nhà là cát, khu đất sắp xây dựng cũng là cát, rồi cát đổ ra lấn biển làm đảo nhân tạo… Vậy mà thành phố chỉ có nắng nóng chứ không bụi bặm. Và đây đó vẫn có những mảng xanh dù nho nhỏ nhưng cũng làm dịu đôi mắt trong chốc lát.
Sức sống của cát ở đây là do con người mang lại, không chỉ từ sức lực mà quan trọng hơn là từ trí tuệ hoạch định tầm nhìn và từng bước thực hiện, tuy chỉ mới khoảng hai chục năm. Dường như giữa sa mạc mênh mông không đầu không cuối con người buộc phải “nhìn thấy” những ốc đảo từ rất xa, người ta phải biết tính toán đường đi và sức lực của mình để có thể đến nơi có nước ngọt và bóng mát trước khi bị lạc đường rồi chết khô trên sa mạc.
Cuộc sống giữa sa mạc của Dubai và Abu Dhabi cũng bắt đầu như thế.