Á
y là vào khi chàng thanh niên Tố Như tử phiêu bạt giang hồ với “tấm thân côi cút sống trôi nổi giữa vòng trời đất” (lục xích phù sinh thiên địa trung) khắp vùng Giang Bắc Giang Nam, trong thân phận một nhà sư khoác áo cà sa đội mũ vàng. Lần “Bắc hành” qua Trường An, Nguyễn đã cố ghé bằng được về quê cũ của Dương Quý phi của vua Hán Đường Huyền Tông. Trường An là địa điểm chưa hề nằm trong bất kỳ lộ trình Bắc sứ nào của các Quan quan Thượng quốc triều đình từ xưa tới Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh từng tả trong Hoàng hoa sứ trình đồ và Phụng sứ Yên Kinh tổng ca, đến cả Chánh sứ Đoàn Nguyễn Tuấn anh vợ chàng kể lại trong Hải Ông thi tập…
Tay lần tràng hạt như một tăng sĩ chính hiệu, Nguyễn bước vào làng Bồ Châu, huyện Vĩnh Nhạc thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây. Đọc sách, Nguyễn biết rõ: Tây An một trong bốn kinh đô lớn của Trung Quốc, từng trải qua 13 triều đại. Nơi đây, cung A Phòng nguy nga nhà Tần đã từng bị đốt cháy hàng tháng trời, các cung nhà Hán, nhà Tùy, nhà Đường nay chỉ còn nền gạch. Cuối thời nhà Đường, kinh đô phải dời xuống Lạc Dương. Cố đô Trường An qua nhiều thế kỷ thăng trầm của các triều đại đã trở nên tiêu điều. Hoa dại bên sông chẳng hiểu sao chợt sáng rực lên giữa chốn núi sông thưa thớt khiến cảnh vật càng thêm hoang vu… Cung Nam Nội đây ư? Có phải là nơi Đường Minh Hoàng cho xây cung Hưng Khánh huy hoàng để cùng thưởng ngoạn với Dương phi, nơi có suối nước nóng nhân tạo và đài ngắm trăng do các đạo sĩ dựng lên tạo ra một cung Quảng Hàn dưới trần, mà nay chỉ còn nền móng với cỏ bồng mọc hoang cao ngất bốn bề. Còn ở Đồng Tây Giao, gò đống đã bị san bằng cả, trên cánh đồng Mã Ngôi tịch mịch tựa nghĩa địa ngoài cửa Tây của kinh đô Trường An, giữa nơi này Nguyễn như còn nghe văng vẳng tiếng reo hò thú vật của binh lính và sự “ngậm miệng ăn tiền” đớn hèn của cả triều thần buộc Dương phi phải chết làm “lễ tế thần” cho những kẻ khát máu… Tất cả nay đã bị san bằng không còn một vết tích. Chỉ còn mộ gió của Dương Phi ở trấn Mã Ngôi. Nguyễn ngẩn ngơ. Tìm đâu cho thấy những cánh hồng tan tác. Dưới thành cũ gió đông thổi kiểu gì thế này mà khiến lòng chàng ngậm ngùi không kể xiết… Vậy mà đây lại là nơi từng in dấu một thiên tình sử đáng lưu danh thiên cổ… Trong khung cảnh đìu hiu, bất giác Nguyễn đọc thầm mấy câu trong tuyệt tác “Trường hận ca” của Bạch Cư Dị: Hậu cung giai lệ tam thiên nhân/ Tam thiên sủng ái tại nhất thân… Tại thiên nguyện tác tỷ dực điểu/ Tại địa nguyện vi liên lý chi/ Thiên trường địa cửu hữu thì tận/ Thử hận miên miên vô tuyệt kỳ (Ba nghìn cung nữ bao người - Mà lòng yêu dấu riêng nơi một nàng… Xin kết nguyện chim trời liền cánh - Xin làm cây cành nhánh liền nhau - Thấm chi trời đất dài lâu - Giận này dằng dặc dễ hầu có nguôi)1, rồi cả bài “Thanh bình điệu số 1” của thi tiên Lý Bạch: Vân tưởng y thường, hoa tưởng dung/ Xuân phong phất hạm, lộ hoa nùng/ Nhược phi Quần Ngọc sơn đầu kiến/ Hội hướng Dao Đài nguyệt hạ phùng (Thoáng bóng mây hoa, nhớ bóng hồng - Gió xuân dìu dặt giọt sương trong - Ví chăng non ngọc không nhìn thấy - Dưới nguyệt đài Dao thử ngóng trông)2…
Bỗng dưng, mối liên tình liên tài hiếm hoi ở chốn điêu tàn khiến người đẹp xưa chợt hiển hiện về, cặp mắt còn đẫm lệ trên dung nhan khiến chim sa cá lặn, thì thầm trong gió thu chớm lạnh với thi nhân phương Nam như tiếng sắt ai oán tràn ngập không gian:
DƯƠNG QUÝ PHI:
Than ôi! Bao năm nay, ta dường đã bị người đời lãng quên… Chỉ có tiên sinh, thi nhân lãng tử phương xa lặn lội tới cảnh vật hoang tàn đổ nát… Cơn cớ chi mà tiên sinh lại nhớ tới những cánh hồng tan tác bi thảm này?
TỐ NHƯ:
Nữ Đạo sĩ Thái Chân kính mến! Ta đã và đương khóc bao nỗi “đoạn trường” của thập loại chúng sinh - trước hết là của bậc nữ lưu tài sắc trên thế gian, những kiếp “hồng nhan đa truân” phải chịu số phận của lời nguyền ác nghiệt: “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”… Với ta, nàng là số một trong hàng nữ lưu đó! Nàng biết không, cái vẻ đẹp bí ẩn quyến rũ kèm tài hoa hiếm có của các vị, với ta là “chất ngọc quý” của đời - dù ở tầng lớp kỹ nữ, con hầu, hay ở bậc nữ hoàng, phi tử… Đấy là cô ca nữ ở La Thành, là cô tỳ nữ của em trai ta, là những giai nhân bạc mệnh ở nước nàng, như Tiểu Thanh, Nga Hoàng và Nữ Anh, vợ con Lưu Thời Cửu, Thái Diễm Văn Cơ, Trác Văn Quân, chị em Đại Kiều - Tiểu Kiều, và nàng - Dương Ngọc Hoàn… Ở Nghệ An ta đã khóc một người đẹp vắn số: Nhất chi nùng diễm há Bồng Doanh/ Xuân sắc yên nhiên động lục thành/ Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh/ Trủng trung ưng tự hối phù sinh (Như cánh hoa thắm từ cõi tiên xuống - Sắc đẹp uyển chuyển làm rung động cả sáu thành - Thiên hạ ai kẻ thương người bạc mệnh? - Dưới mồ, chắc cũng hối hận cho kiếp phù sinh). Và chắc Dương Phi nàng hiểu, ta khóc bên mộ Tiểu Thanh ở Tây Hồ cũng là khóc cả cho nàng nữa đó: Cổ kim hận sự thiên nan vấn/ Phong vận kỳ oan ngã tự cư (Mối hận cổ kim, thật khó mà hỏi ông trời - Ta tự coi như người cùng một hội, một thuyền với nàng là kẻ vì nết phong nhã mà mắc phải nỗi oan lạ lùng).
DƯƠNG QUÝ PHI:
Đa tạ tấm lòng của tiên sinh! Chính tại Mã Ngôi này, khi hoàng đế đem ta chạy loạn An Sử, ba quân đã không chịu đi tiếp, đòi giết anh trai ta và ép vua giết ta. Vua năn nỉ ba quân tha cho ta, nhưng quân sĩ chỉ tung hô vạn tuế mà không chịu đi tiếp. Các quan đại thần khuyên nhà vua nên dẹp bỏ tình riêng để chiều lòng ba quân. Vua đành chỉ đứng yên mà khóc nhìn ta bị thắt cổ trên cây liễu trước sân chùa. Bấy giờ ta mới 37 tuổi...
TỐ NHƯ:
Chuyện đó thì bất kỳ kẻ nào từng dùi mài Kinh Sử đều biết… Thế là nàng không chỉ là nạn nhân của quân khởi loạn, mà còn là nạn nhân của những kẻ mày râu hèn hạ! Than ôi! Tự thị cử triều không lập trượng/ Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành - Bởi tại cả triều đình đều là kẻ đứng im như ngựa gỗ - Khiến cho nghìn đời còn đổ oan cho người đẹp tội làm nghiêng thành! Cả một lũ triều thần ngu muội, bất tài, tham sống sợ chết nọ có khác chi tám con ngựa phải đứng im trong hàng gậy lúc thiết triều theo phép tắc nhà Đường đã buộc nàng, một người đẹp vô tội phải chết oan uổng! Khổ nỗi, ở đất nước của nàng, từ xưa một định kiến ác nghiệt đã in hằn trong óc cả người dân thường mà Kinh Thi từng nói: Loạn phỉ giáng tự nhiên, sinh ư phụ nhân (Loạn chẳng phải giáng từ trên trời xuống mà sinh ra từ đàn bà)… Đau quá! Buồn quá! Xin lỗi nàng nhé, một hoàng đế vì muốn được sống sót mà vất bỏ người yêu cho số phận, không thể bảo vệ được người phụ nữ của mình, bất lực trước bọn quần thần đòi giết người mình yêu thương, thì liệu có xứng đáng với tình yêu và sự gửi gắm tính mệnh, sự đón chờ hạnh phúc của nàng, người đàn bà mà Bạch Cư Dị hết lời ngợi ca: Hồi mâu nhất tiếu bách mị sinh/ Lục cung phấn đại vô nhan sắc (Nàng đưa mắt mỉm cười, trăm vẻ đẹp hiện ra - Các phi tần trong sáu cung đều thành không nhan sắc)?
DƯƠNG QUÝ PHI:
Than ôi! Bởi tấm tình tựa ân nghĩa ngàn vàng đó mà ta không dám oán trách phu quân ta nửa lời… Hoàng đế không tiếc ta một thứ gì, ngài còn nâng đỡ cả gia đình ta. Khi ta tỏ ý muốn ăn quả vải, ngài đã lệnh cho quân binh ngày đêm vượt nghìn dặm xa xôi để lấy bằng được thứ quả này cho ta…
TỐ NHƯ:
Nhưng nàng hãy cho ta nói thẳng, điều đáng buồn đáng giận nhất chính là bản tính hiếu sắc coi khinh vận nước của bậc “Thiên tử” nàng từng yêu dấu, điều mà Bạch Cư Dị đã chỉ ra ở đầu “Trường hận ca”: Hán hoàng trọng sắc tư khuynh quốc (Vua Hán trọng sắc đẹp, luôn nghĩ đến người làm nghiêng nước). Ta không tin những chuyện như Chiêu Quân cống Hồ có thể làm cho nhà Hán yên, cũng như không tin Dương phi nàng lại làm nhà Đường loạn lạc… Nước mất hay còn, chính thể nguy hay an, thì người đàn ông phải gánh lấy trách nhiệm chính yếu. Tại sao lại đem tội bại vong đổ lên đầu nữ giới? Thực đáng xấu hổ! Ta đã từng kính phục ông hoàng đế của nàng, từ lúc còn là Lý Long Cơ “anh minh đa nghệ, hiểu biết âm luật, thiện bát phân thư, dung mạo vĩ lệ, có tư chất phi thường" - như Tân Đường thư đã tả… Thế rồi, sau khi đăng cơ, ngài đã mở ra thời đại Khai Nguyên thịnh thế huy hoàng kéo dài hơn ba thập kỷ, thanh trừng các phe cánh chống đối, trọng dụng nhân tài, ngăn chặn quan liêu lãng phí, hợp tác với lân bang…Trong lịch sử Cổ Kim, ngài là một vị hoàng đế hiếm có về tâm hồn nghệ sĩ tài hoa tột bậc, làm thơ hay, soạn ca nhạc và vũ điệu giỏi… Thế nhưng, tiếc thay, dần dà ngài sinh ra u mê xa xỉ, mê đắm tửu sắc, không chú ý đến nền chính trị ngày càng bại hoại suy vi, sủng ái Dương Phi nàng quá mức, bỏ bê việc nước, trọng dụng lũ gian thần trong đó có anh trai nàng… Mỗi lần ngài tổ chức tắm suối cho nàng tại Hoa Thanh cung tốn hàng vạn bạc của quốc khố, làm chết hàng trăm mạng người… Phải chăng đó cũng là một trong nguyên cớ để nổ ra loạn An Sử, mở đầu cho sự suy vong của triều đại nhà Đường?
DƯƠNG QUÝ PHI:
Trời ơi! Ta đâu ngờ sự xa hoa hưởng thụ của ta lại đẫn đến thảm họa cho bao dân lành, và cho ta!… Thi nhân tiên sinh còn là một sử gia sáng suốt…
TỐ NHƯ:
Sử sách và truyền miệng dân gian đã cho đời sau ta biết nàng sở dĩ trở thành ái phi số một của Đường Huyền Tông, vì nàng là người thông minh lanh lợi, tinh thông cầm kỳ thi họa, nổi danh với điệu múa "Nghê thường vũ y khúc", người đương thời đều so sánh với tiên nữ xuống trần lại không tham quyền thế, khác rất xa loại đàn bà chuyên lôi kéo bè đảng can thiệp vào triều chính bằng đủ âm mưu - như Vi Thái hậu, Công chúa Thái Bình, Thượng Quan Chiêu Dung đã gây ra bao hận thù…
DƯƠNG QUÝ PHI:
Vâng, biết ơn tiên sinh đã đồng cảm với ta… Quả là ta chỉ biết suy ngẫm đêm ngày để tạo ra thêm điệu múa "Nghê thường vũ y khúc" thứ hai nữa dâng lên Thánh thượng… Ta không hề mảy may biết đến cuộc tranh quyền đoạt lợi của những người đàn bà ghê gớm ấy…Ta thật ngu dại quá!
TỐ NHƯ:
Không đâu! Nàng không hề ngu dại! Nữ nhi tài sắc như nàng sinh ra trên đời là để đem tới cho nhân sinh niềm hoan lạc cao vời bằng thi ca, nhạc họa, và bằng nhan sắc khiến Hằng Nga phải ghen tỵ!
DƯƠNG QUÝ PHI:
Thi nhân quá khen rồi… Ta thực xấu hổ, và lại càng hận cho số mệnh trớ trêu…
TỐ NHƯ:
Ta còn nhớ sách Minh Hoàng tạp lục đã kể: Khi An Lộc Sơn phá vỡ Đồng Quan, Đường Minh Hoàng cùng nàng chạy vào Tứ Xuyên - đất Thục thì xảy binh biến: lục quân, đội quân của thiên tử đều dừng ngựa, giết Dương Quốc Trung anh nàng, đòi vua trị cả nàng vì họ cho rằng hai người là nguyên nhân của ly loạn. Vua đành ban cho thái giám Cao Lực Sĩ một dải lụa trắng dùng để thắt cổ ái phi bên dưới cây lê ở Phật đường để yên lòng quân sĩ. Kết cục này thực đối lập với với lời thề đêm thất tịch ở Điện Trường Sinh: “Trên trời nguyện làm chim liền cành, dưới đất nguyện làm cây liền cành”… Minh Hoàng tạp lục còn viết, nàng xem có gì sai sót: Đêm ấy, Đường Minh Hoàng mỉm cười ghé vào tai Dương Qúy phi: “Đêm nay sao ngưu Lang - Chức Nữ gặp nhau không biết vui thú đến thế nào! Đáng tiếc hợp ít ly nhiều, sao bằng hai ta đêm ngày đoàn tụ”; nàng ngậm ngùi nói: “Cõi đời hoan lạc rồi có lúc tan, sao bằng Ngưu Lang - Chức Nữ tuy lâu ngày mới gặp nhau nhưng mỗi năm còn được đoàn tụ một lần”, và nói xong nức nở, lệ nhỏ như mưa”. Còn mấy trăm năm sau, thời mạt Đường, thi sĩ Lý Thương Ẩn trong bài thơ “Mã ngôi” đã kết bằng một lời chất vấn: Như hà tứ kỷ vi thiên tử/ Bất cập Lư gia hữu Mạc Sầu (Cớ sao đã làm thiên tử đến bốn chục năm trời - Mà không bằng chàng họ Lư có nàng Mạc Sầu?). Chua chát thay, hơn 45 năm ở ngôi vị thiên tử mà không giữ nổi mạng người vợ tuyệt thế giai nhân, chẳng bằng mối tình sắt son chung thủy của đôi vợ chồng bình dân hạnh phúc đời Hán cách đó tám trăm năm!
DƯƠNG QUÝ PHI:
Than ôi! Cái hạnh phúc bình dân đáng yêu kia ta chưa hề được nghe nói đến trong cõi thế tràn ngập vàng ngọc yêu chiều… Hỡi thi nhân trong hình dáng nhà tu hành kia, thật ra chàng là ai mà thấu tỏ tâm tình ta, cùng nỗi đau vĩnh cửu chỉ biết gửi vào cỏ cây ngàn đời của ta đến vậy?…
TỐ NHƯ:
Dương phi nàng ơi, ngay cả những lúc thân phận ta phiêu dạt Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng (chân không bén rễ mặc gió bay như ngọn cỏ bồng) thì nỗi ngậm ngùi buồn thương của ta đối với nàng cũng là một trong những cổ kim hận sự (mối hận Kim Cổ) mà ta luôn mang nặng trong lòng… Là kẻ tạm khoác áo tu sĩ hành hương, thân đến nơi này không phải là “trướng vọng”, ta xin tặng nữ Đạo sĩ đoạn kết kinh Kim Cang mà ta từng đọc cả ngàn lượt, may giúp nàng có thể tự an ủi chút nào chăng: Nhất thiết hữu vi pháp/ Như mộng, huyễn, bào, ảnh/ Như lộ diệc như điện (Hết thảy pháp hữu vi - Như mộng ảo, bọt nước - Như sương sa, điện chớp). Và xin gửi vào mây gió cho nàng mấy dòng khi lạc bước tới quê cũ của nàng:
楊妃故里
山雲削略岸花明,
見說楊妃此地生。
自是舉朝空立仗,
枉教千古罪傾城。
簫簫南內蓬篙遍,
寞寞西郊丘隴平。
狼藉殘紅無覓處,
東風城下
勝情。
DƯƠNG PHI CỐ LÝ
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.3
_________________________
1. Tản Đà dịch thơ
2. Ngô Tất Tố dịch thơ
3. Dịch nghĩa: QUÊ CŨ DƯƠNG PHI
Mây núi lơ thơ, bờ sông hoa tươi sáng
Đây là nơi người ta nói rằng Dương phi đã sinh.
Bởi tại cả triều đình đều là người đứng im như ngựa gỗ
Khiến cho nghìn đời còn đổ oan cho người đẹp tội làm nghiêng thành
Cung Nam Nội cỏ cây hiu hắt, cỏ bồng mọc khắp
Đồng Tây Giao tịch mịch, gò đống đã san bằng
Tìm đâu cho thấy những cánh hồng tan tác
Dưới thành gió đông thổi, khiến lòng ngậm ngùi không kể xiết
Dịch thơ:
Mây rừng hoa bến cảnh xinh xinh,
Nghe nói Dương phi đất ấy sinh.
Ngán nỗi cả triều đều lập trượng,
Oan thay đổ tội đến khuynh thành.
Cỏ cây Nam Nội đà man mác,
Gò đống Tây Giao cũng vắng tanh.
Tìm mảnh hoa tàn đâu chẳng thấy
Dưới thành gió thoảng xiết bao tình.
(Lê Thước - Trương Chính dịch)
Bờ hoa thắm, núi thưa mây
Dương phi nghe nói đất này quê sinh
Bởi như phỗng cả triều đình
Ngàn năm nhan sắc tội tình chịu oan
Buồn thương Nam Nội cỏ tràn
Tây Giao gò lũng đã san bằng rồi
Tìm đâu phấn rã hương rơi
Dưới thành gió nổi, ngậm ngùi lòng ta.
(Vương Trọng dịch)
VVM.24.8.2024.
山雲削略岸花明,
見說楊妃此地生。
自是舉朝空立仗,
枉教千古罪傾城。
簫簫南內蓬篙遍,
寞寞西郊丘隴平。
狼藉殘紅無覓處,
東風城下
勝情。
DƯƠNG PHI CỐ LÝ
Sơn vân tước lược ngạn hoa minh,
Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh.
Tự thị cử triều không lập trượng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành.
Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến,
Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình.
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ,
Đông phong thành hạ bất thăng tình.3
_________________________
1. Tản Đà dịch thơ
2. Ngô Tất Tố dịch thơ
3. Dịch nghĩa: QUÊ CŨ DƯƠNG PHI
Mây núi lơ thơ, bờ sông hoa tươi sáng
Đây là nơi người ta nói rằng Dương phi đã sinh.
Bởi tại cả triều đình đều là người đứng im như ngựa gỗ
Khiến cho nghìn đời còn đổ oan cho người đẹp tội làm nghiêng thành
Cung Nam Nội cỏ cây hiu hắt, cỏ bồng mọc khắp
Đồng Tây Giao tịch mịch, gò đống đã san bằng
Tìm đâu cho thấy những cánh hồng tan tác
Dưới thành gió đông thổi, khiến lòng ngậm ngùi không kể xiết
Dịch thơ:
Mây rừng hoa bến cảnh xinh xinh,
Nghe nói Dương phi đất ấy sinh.
Ngán nỗi cả triều đều lập trượng,
Oan thay đổ tội đến khuynh thành.
Cỏ cây Nam Nội đà man mác,
Gò đống Tây Giao cũng vắng tanh.
Tìm mảnh hoa tàn đâu chẳng thấy
Dưới thành gió thoảng xiết bao tình.
(Lê Thước - Trương Chính dịch)
Bờ hoa thắm, núi thưa mây
Dương phi nghe nói đất này quê sinh
Bởi như phỗng cả triều đình
Ngàn năm nhan sắc tội tình chịu oan
Buồn thương Nam Nội cỏ tràn
Tây Giao gò lũng đã san bằng rồi
Tìm đâu phấn rã hương rơi
Dưới thành gió nổi, ngậm ngùi lòng ta.
(Vương Trọng dịch)