Việt Văn Mới
Việt Văn Mới




HOA XUÂN VÀ PHẠM DUY  




MỜI QÚY VỊ MỞ NGHE HOA XUÂN VÔ THƯỜNG GUITARE



N hạc sĩ Phạm Duy, tên thật Phạm Duy Cẩn là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.

Hoa xuân và Phạm Duy

Nét đặc trưng và sự diệu kỳ của mùa xuân chính là hoa. Thật vậy, mỗi khi xuân về thì hoa lại khoe sắc muôn màu muôn vẻ, hoa mang hương sắc cho đời, nhưng hoa cũng còn mang hương cho lòng người nữa. Lắm khi nâng niu một bông hoa đẹp, ta thấy hồn mình lắng xuống là vậy, và nếu đó là một đóa hoa xuân, thì sự quý giá được cảm nhận hơn lên nhiều lần.

Biết bao nhiêu năm rồi, nghe lại bài hát Hoa Xuân của Phạm Duy mãi vẫn không thấy chán, cho dù cái bài hát này ra đời lúc tôi chưa sinh ra, chưa có mặt trên dương thế này mà cảm nghiệm (1953). Nay đầu đã bạc, răng đã long, chỉ còn đôi ba cái rung rinh rủng rỉnh, thế mà nghe lại vẫn thích, điều ấy chứng tỏ sức sống mãnh liệt của bài hát trải qua năm tháng cũng như sự trường tồn của một ý nhạc đẹp như lời thơ. Cái nét nhạc dịu dàng như mùa xuân đang len qua kẻ lá mà về với nhân gian, về với lòng người nghe nó êm ái như tiếng ru vậy, mặc dù ông chỉ dùng những nốt nhạc rất đơn sơ, vô cùng đơn sơ, không cần cầu kỳ như Cung Tiến hay Phạm Đình Chương, thật dễ hát dễ nghe nhưng lại thật hay và vô cùng có hồn. Ai đã từng sáng tác thì chỉ cần cảm nghiệm mấy nốt nhạc trong dòng đầu này thôi thì cũng đủ tôn ông là bậc thầy rất phải phép. Thật vậy, có cao xa gì đâu? Chỉ bốn nốt nhạc dệt vào nhau tạo nên câu hát rất tuyệt vời: Mi đồ mi sol la, sol đố…

Xuân vừa về trên bãi cỏ non
Gió xuân đưa lá vàng xuôi nguồn…

Đúng là chỉ cần 4 nốt nhạc Đô, mi, sol, la thôi là đã thấy xuân vừa mới về đây ngay lòng ta ạ! Những chiếc lá vàng rơi rụng xuôi theo nguồn mà đi, để cho mầm xanh chợt nhú lên mang sức sống mới cho đời, như muốn cho những con người trẻ vươn mình đứng dậy.

Nhưng cũng chẳng hiểu vì sao mà một bài hát về hoa xuân, mới câu thứ nhì thôi mà Phạm Duy đã đưa hình tượng chiếc lá vàng rơi rụng vào đây? Lạ thật, song để ý kỹ thì chúng ta sẽ thấy tác giả không cho chiếc lá vàng rụng rơi tơi tả mà lại cho chiếc lá xuôi theo làn gió xuân mà quay về nguồn cội. Cái tuyệt vời của Phạm Duy là ở chỗ đó. Mà quả là đúng như vậy, vì ngay sau đó, ông đã đưa những hình tượng rực rỡ của mùa xuân tuôn trào lên ý nhạc:

Hoa cười cùng tia nắng vàng son
Lũ ong lên đường cánh tung ròn…

Hoa cười trong nắng sớm, đón lấy lũ ong đang chập chờn bay đến hòa quyện với nhau trong bức tranh thiên nhiên sinh động của mùa xuân. Cái chữ ròn ở đây tôi thấy thật là lạ. Theo thiển nghĩ riêng tôi, có vẻ như đây là chữ “rờn” mới phải? hoặc là chữ “giòn” vậy? Hình như ông cố tình gieo chữ ròn cho đúng vần, nghe là lạ như rập rờn, giòn giã vậy. Cái chữ ròn ở đây được dệt nhạc thành hạ át âm nghe bâng khuâng náo nức để chuẩn bị quay về chủ âm của khổ nhạc sau…

Hoa chẳng yêu lũ bướm lả lơi
Muốn yêu anh vác cầy trên đồi
Hay là yêu chiến sĩ nghìn nơi
Thấy hoa tươi cười bỗng thương đời.

Hoa cười cùng tia nắng xuân, nhưng hoa lại chẳng yêu lũ bướm lả lơi ve vãn, vì hoa xuân đối với ông như phần thưởng của thiên nhiên cho dân tộc, cho con người Việt Nam đáng yêu, dù cho là anh dân cày nơi đồng xa hay anh chiến sĩ đang cầm súng đứng gác ở biên cương, hoa muốn được cười để mang niềm vui đến cho mọi người trong ngày xuân tươi mới, chứ không phải hoa khoe sắc lả lơi tình tứ ỏng ẹo với những kẻ đào hoa như lũ bướm dập dìu kia. Cái tình chung ông muốn gởi đến cho nhân thế là vậy.

Thường thì mỗi bài hát cứ đến điệp khúc thì dòng nhạc bỗng dậy lên thôi thúc, nhưng lạ thay cái bài viết về hoa xuân này, nó vẫn nhẹ nhàng dìu dặt mà không cần phải lên cao trào làm gì, vì thiết tưởng ai nghe qua những ý lời trong bài cũng thấy hoa xuân nhẹ theo làn gió e ấp vào lòng người, để nói lên cái ý tứ của hoa không chỉ để khoe sắc thôi, mà còn biết xây đắp cho đời, để nhân thế mãi vui vẻ sum vầy bên nhau nữa.

Xuân ! Hoa còn tươi mãi
Hoa vì nhân thế biết sum vầy cuộc vui.
Xuân ! Hoa nở vì ai
Tay nhịp bàn tay cùng đắp xây ngày mai.

Phiên khúc cuối của bài hát, Phạm Duy muốn đưa hoa xuân vào những hình tượng cụ thể chứ không nói chung chung là người người, là nhà nhà, là nhân thế nữa. Là nhạc sĩ, nhưng những hình tượng mà ông dệt nhạc đẹp như một bức tranh của một người họa sĩ hơn là một nhà soạn nhạc. Nét phác thảo đơn sơ của ông về hoa xuân dành cho người họa sĩ đồng quê ngắt bông hoa tặng cô gái xuân, cạnh đấy là mấy đứa mục đồng ôm sách lẩm nhẩm đánh vần, những chữ i tờ mà chúng đọc được cũng như những cánh hoa đẹp để làm món quà đón xuân sang, đó cũng là hoa, là hoa lòng, là hoa tâm hồn của trẻ thơ khi biết đánh vần được chữ i chữ tờ.

Có một chàng thi sĩ miền quê
Ngắt bông hoa biếu người xuân thì
Có một đàn em bé ngoài đê
Hát câu i, tờ đón xuân về.

Quả thật, chỉ là những đóa hoa xuân bình thường, vì ở đây ông không đề cập đến hoa mai, hoa đào hay là một loài hoa nào khác, thế mà khi hát lên, ta vẫn thấy hương hoa bay man mác khắp nơi trong ngày xuân, nhẹ nhàng, dìu dặt, ru êm và sâu lắng.

Qua phần thứ nhì của bài hát, ông lại đưa hình tượng hoa xuân ra như là phép lạ để đưa người với người được gần nhau hơn, cùng quyến luyến với nhau hơn. Những lời nhạc đẹp và tượng hình đến nỗi nghe qua ta không còn dám có thêm lời nào để bình phẩm nữa, vì chính lời hát đã nói lên tất cả những gì muốn nói, phải là một bậc thầy trong âm nhạc thì mới có thể làm được những lời diệu kỳ như thế.

Những đoàn người trên luống cầy nâu
Thấy hoa xuân phép lạ ra mầu
Bỗng nhủ lòng ra sức cầy sâu
Tiếng ca như thể tiếng kinh cầu.

Hoa bèn yêu bóng dáng cần lao
Bắt tay nhau tránh cuộc cơ cầu
Người cùng mùa đã thoát vực sâu
Sức hoa reo nở lúc Xuân đầu.

Xuân ! Hoa toả hương mới
Nhân quần ân ái đã kêu đòi niềm vui
Xuân ! Hoa là tình tôi
Ðua nở cùng ai, cùng luyến yêu mọi nơi.

Có một bầy thôn nữ nhìn hoa
Chúc cho Xuân vui vẻ thái hoà
Có một vài tóc trắng thầm mơ
Ước cho hoa nở mãi không già.

Vâng, mãi đến đoạn kết thì ông mới nhớ đến tiếng thời gian, nhưng ông lại quyện trẻ già lại với nhau chung vào một khổ nhạc, để thầm mơ cho hoa lâu tàn như đời người. Niềm ước mơ ấy cũng bình dị và giản đơn như giai điệu bài hát vậy.

Ước cho hoa nở mãi không già…

Ước cho lòng mỗi người chúng ta cũng thế nhé!

Nhạc sỹ Phạm Duy, người viết quốc ca cho thế hệ mai sau (Luật sư Đặng Đình Mạnh)

Ngày 05/10/2021 là dịp kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhạc sỹ Phạm Duy, người mà khi qua đời vào năm 2013, đã để lại khối di sản âm nhạc đồ sộ bậc nhất trong số các nhạc sỹ mà xứ sở này đã từng có.

Đánh giá về sự nghiệp của ông, một nhà văn đã thốt : "Một trăm năm sau cũng không có một Phạm Duy thứ hai ở xứ sở này". Dịp này, các trang âm nhạc hay người mộ điệu yêu quý ông đã tưởng niệm theo nhiều cách. Riêng tôi, tôi hy vọng công chúng yêu "tự do, công bình, bác ái" tưởng niệm ông như người viết quốc ca cho xứ sở này trong mai hậu.

Phạm Duy: 'Tôi về đây là vì tôi yêu nước'

Có phi lý chăng nếu kỳ vọng về một nhạc phẩm gánh vác sứ mệnh quốc ca từ một nhạc sỹ đã là người thiên cổ ! Thưa, không phi lý chút nào khi trong khối di sản âm nhạc để lại của ông ấy đã từng có nhạc phẩm mang tầm vóc xứng đáng như vậy.

Nhạc phẩm "Việt Nam, Việt Nam".

"Việt Nam, Việt Nam" được ông sáng tác từ năm 1966. Năm 1967, khi chính quyền miền Nam tu chính Hiến pháp, thì "Việt Nam, Việt Nam" đã là ứng viên sáng giá cho quốc ca Việt Nam. Thế nhưng, chung cuộc thì quốc hội lúc ấy đã giữ lại bài quốc ca sử dụng từ năm 1948, là "Tiếng gọi thanh niên" (hay "Công dân hành khúc") của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước để làm quốc ca. Vì lẽ, những ca từ sắt máu trong nhạc phẩm này phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh và tâm thế chiến tranh vào thời điểm ấy hơn.

Thật tiếc khi giai điệu hành khúc, trầm hùng, thôi thúc, giục giã những con dân Việt cùng chung sức tranh đấu cho những giá trị nhân bản : Tự do, công bằng, bác ái, tình yêu thương đồng loại, niềm tự hào, tự tôn dân tộc … đã chưa được chọn làm quốc ca !

Việt Nam! Việt Nam! - Phạm Duy

Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi
Việt Nam nước tôi.
Việt Nam Việt Nam tên gọi là người
Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời
Việt Nam đây miền xinh tươi
Việt Nam đem vào sông núi
Tự do công bình bác ái muôn đời
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu
Việt Nam trên đường tương lai,
Lửa thiêng soi toàn thế giới
Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời
Tình yêu đây là khí giới,
Tình thương đem về muôn nơi
Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người
Việt Nam! Việt Nam!
Việt Nam quê hương đất nước sáng ngời
Việt Nam! Việt Nam! Việt Nam muôn đời

Tôi đã xét nét, cố soi trong 20 câu hát trong "Việt Nam, Việt Nam" để thấy rằng không có một câu nào không xứng đáng làm một phần của quốc ca.

Văn Cao (tên đầy đủ Nguyễn Văn Cao)


Sinh ngày 15/11/1923 – mất ngày 10/7/1995) là một nhạc sĩ, họa sĩ, nhà thơ người VN. Ông là tác giả của ca khúc Tiến quân ca, quốc ca chính thức của nước VN, đồng thời ông cũng là một trong những nhạc sĩ có sức ảnh hưởng lớn nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Ông được giới chuyên môn và công chúng yêu nhạc đánh giá một cách rộng rãi là một trong ba nhạc sĩ nổi bật nhất của nền âm nhạc hiện đại Việt Nam trong thế kỷ XX, cùng với Phạm Duy và Trịnh Công Sơn.


Chọn chiến tranh hay là hòa bình và tình người?

Nhân dịp này, hãy nhìn lại, đánh giá và so sánh với quốc ca hiện nay: Bản "Tiến quân ca".

Tiến Quân Ca của tác giả Văn Cao có lời như sau:

Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa
Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca
Đường vinh quang xây xác quân thù
Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu
Vì nhân dân chiến đấu không ngừng
Tiến mau ra sa trường
Tiến lên, cùng tiến lên
Nước non Việt Nam ta vững bền

Bài "Tiến Quân Ca" có giai điệu trầm hùng, bi tráng, thể hiện thái độ sắt máu, quyết liệt đối với quân thù, tạo cảm xúc giục giã, thôi thúc mọi người vươn lên, xốc đến … chiến tranh. "Tiến Quân Ca" có 10 câu hát, thì trong đó, đã có đến 8 câu hát đều mang nội dung, ý nghĩa cổ võ cho những cuộc chiến đẫm máu trong thế kỷ 20 mà người Việt đã phải gánh chịu.

Rõ ràng, đấy là một quốc ca sắt máu thoát thai từ chiến tranh đang được hát giữa thời bình. Thời mà chiến tranh đã trở thành lịch sử từ nhiều thập kỷ qua. Trong thời bình, ngẫm xem, chúng ta còn cần một quốc ca chiến tranh như thế nữa hay không?

Chiến tranh đã lùi xa, thay vào đó, chiến trường bây giờ đã là thương trường. Cũng thế, những ca từ "Máu", "Súng", "Đường vinh quang xây xác quân thù":

"Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước
Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca
Đường vinh quang xây xác quân thù" Nhạc sĩ Văn Cao & Phạm Duy

Đoạn sau này, nếu dùng, hoàn toàn có thể thay thế bằng :

"Tự do, công bình, bác ái
Việt Nam không đòi xương máu
Việt Nam kêu gọi thương nhau
Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu"

Hơn nữa, quốc ca không chỉ dành riêng cho cán bộ, công chức của chính quyền hát khi suy tôn quốc kỳ, mà là toàn thể dân chúng, bắt đầu từ các cháu học sinh ở lứa tuổi nhi đồng. Một quốc ca sắt máu của chiến tranh sẽ chuyển thông điệp gì cho các em? Sẽ giáo dục điều gì cho chúng ngoài thù hận, bạo lực, khát máu, hung tàn?

Hát đến câu "Đường vinh quang xây xác quân thù", chúng có thắc mắc cha anh mình đang định chọn ai làm quân thù để lấy xác làm "đường vinh quang" nữa chăng ?

Trong khi đó, "Việt Nam, Việt Nam" chỉ có một câu nhắc đến "xương máu" nhưng với ý nghĩa hết sức nhân từ, cao thượng và bao dung : "Việt Nam không đòi xương máu".

"Tiến Quân Ca" thích hợp với giai đoạn chiến tranh và đã thực hiện xong sứ mệnh lịch sử của mình.

"Tiến Quân Ca" nay không còn thích hợp trong bối cảnh kiến quốc thời bình của xứ sở.

Nhưng những giá trị : Tự do, công bằng, bác ái, tình yêu thương đồng loại, niềm tự hào, tự tôn dân tộc được nêu trong "Việt Nam, Việt Nam" thì lại bất biến, lúc nào cũng thích hợp cho một dân tộc hướng thiện, kêu gọi yêu thương nhau, sống có trách nhiệm với chính mình, với xứ sở, với cộng đồng quốc tế văn minh…

Tôi tin lắm, sớm muộn gì thì những giá trị đích thực sẽ được trả lại cho dân mình. Khi ấy, có lẽ dân ta sẽ chọn lại một quốc ca mới thích hợp với những giá trị nhân bản và "Việt Nam, Việt Nam" lại là ứng viên sáng giá. Để người VIệt, những đứa trẻ có thể hát :

"Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời
Việt Nam hai câu nói bên vành nôi"

và người đi xa :

"Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời".

Lời ca như một định mệnh, "Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời". Tác giả, nhạc sỹ Phạm Duy đã mất tại Việt Nam vào ngày 27/01/2013.

Tưởng niệm ông nhân ngày sinh thứ 100, người nhạc sỹ tài hoa, đa tài, lắm tật và là người viết quốc ca cho xứ sở này trong mai hậu.

(Tham khảo: Sách báo – Internet)




VVM.21.1.2022

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
vietvanmoinewvietart007@gmail.com