Xã Sơn Phúc thuộc huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh xưa là
làng Phúc Đậu. Trong cải cách ruộng đất, như ở một
số nơi, người ta đặt tên xã mới bằng cách lấy đầu
hoặc đuôi tên huyện ghép với một phần tên xã cũ hoặc
một tiếng mới đặt. Cách này làm cho nhiều địa danh
đã có bề dày lịch sử biến mất, kể cả những cái
tên đã đi vào ngạn ngữ. Không chỉ mai sau, ngay bây giờ
về Hà Tĩnh khó mà tìm được các địa danh nằm trong các
câu truyền tụng trước đây: “Lắm lúa Trị
Yên, lắm tiền Thịnh Xá”, “Trai
Đông Thái gái Yên Hồ”… May mắn, một số làng xã
sau này đã được lấy lại tên cũ như Kim Liên ở Nghệ
An, chẳng hạn. Làng Phúc Đậu không có cái may đó. Phúc
Đậu gắn với tên xa xưa động Tiên Hoa. “Động”
ở đây chỉ một nơi cư trú miền rừng núi không mang ý
nghĩa “hang động” như quen nghĩ. Vùng này có hai đồi
thấp, dân địa phương gọi là Rú
(núi) Tiên Động và Rú
Hoa Bảy. Người ta đoán định cái tên Tiên Hoa là
từ tên mấy ngọn đồi này mà ra.
Đất Phúc Đậu và phụ cận thuộc vùng đồi. Chừng như
khi xưa ông Trời tạo ra dãy Trường Sơn đã để vung vãi
ra những mẩu vụn. Vùng đất ấy lại trũng, mùa mưa bão,
các ngọn đồi dễ biến thành những hòn đảo liên hoàn.
Dẫu vậy, thời xa xưa ấy đã có dân đến khai khẩn. Chưa
nhiều. Nhà ở lơ thơ còn xen cùng rừng; người chung địa
bàn cùng thú hoang. Có một nhà sống bằng nghề trồng tỉa
trên cạn và đơm cá dưới khe. Bữa nọ, người chồng
cứu được một con cọp non bị kẹp chân giữa hai thân
cây bắc làm cầu qua suối. Con thú từ đấy hàm ơn người
cứu mạng. Đêm đêm nó giúp canh bọn khỉ, bọn lợn lòi
phá ruộng rẫy, bọn rái cá phá đăng trộm cá. Thỉnh thoảng
nó mang con mồi săn được đến đặt gần nhà. Một đêm,
người nông phu ra thăm cái trộ
cá thấy cái đó bị nước dồn về đẩy xiêu bèn
lội xuống sửa vào một cái giờ bất thường. Con hổ
ngỡ là trộm, từ trên cao lao xuống vồ chết ân nhân.
Vồ xong, con mãnh thú biết là nhầm, nó trằn mình lăn lộn,
vật vã trên một đám đất hoang lấp xấp nước. Đám
đất nát nhừ như bị bừa; sau này khi được vỡ hoang
thành ruộng, người ta gọi là ruộng trằn, cái tên
ấy gần đây vẫn còn. Con cọp tự phẫn một hồi
rồi mang xác người bị nạn đến dựng đứng dựa vào
gốc cây sui to ở lưng ngọn đồi bên cạnh. Sáng hôm sau,
mối đã đùn đất phủ kín cái thây. Bà vợ đến gỡ
ra đem về chôn gần nhà mình. Đêm đến, con vật lại moi
cái xác lên đưa về chỗ cũ. Cái xác đã nhũn chỉ có
thể đặt ngồi dựa cây. Mối lại đùn lên thành mả.
Một thầy địa lí đi qua bảo: “Cứ để nguyên đấy!
Huyệt mộ chỗ đó có thể phát vương, đáng tiếc là chôn
ngồi nên chỉ phát tướng”. Đám rừng có ngôi mộ do
hổ táng được bảo tồn cho đến cách nay chừng nửa thế
kỉ và mang tên lòi hổ huyệt (“lòi” là tiếng
địa phương chỉ đám đất rộng vừa phải có cây cối
rậm rịt. “Hổ huyệt” là mộ do hổ táng).
Con trai người bị hổ vồ tên là Nguyễn Tuấn Thiện lớn
lên vào lúc bọn nhà Minh bên Tàu đang cướp nước ta. Ông
bèn tụ tập trai tráng trong vùng đứng lên chống lại quân
đô hộ, đóng bản doanh tại động Tiên Hoa- quê ông. Bấy
giờ Bình Định Vương Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn,
Thanh Hóa, đánh không lợi bèn chuyển hướng chiến lược
vào xứ Nghệ. Nghe danh ông Thiện, Vương thân đến mời
hội quân. Hai người làm lễ ăn thề bên gốc một cây
thị, về sau được gọi là “cây thị
ăn thề”. Từ đó, nghĩa quân Lê Lợi ngoài bản doanh
chính là thành Lục Niên ở núi Thiên Nhẫn lại thêm bản
doanh ở động Tiên Hoa. Cả hai đều thuộc huyện Đỗ Gia,
Châu Hoan (nay là huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh). Từ các
căn cứ này, nghĩa quân từng có trận thắng lớn giặc
Minh trên sông Phố, dưới chân núi Rú Vằng (Kim Sơn), ở
cửa ngõ động Tiên Hoa.
Nơi Cây thị ăn thề có một truyền thuyết liên quan đến
cảnh gian truân của người khởi nghiệp nhà Hậu Lê. Một
lần, Lê Lợi thất trận bị quân giặc truy nã. Quân tán
lạc mất cả, chỉ mỗi mình ông lẩn trốn. Ông gặp bên
đường một người đàn bà bị giặc giết nằm phơi thây.
Bình Định Vương thấy bất nhẫn bèn đem chôn vào một
cái hố gần đó. Giặc vẫn lùng đuổi. Vào một lúc bí
thế, vương chui vô ẩn trong gốc cây thị. Cây thị rỗng
trong gốc, song chỉ thông với cái hốc trên cao. Giặc đuổi
đến, đàn chó xúm quanh cây thị sủa vang. Bọn lính lấy
giáo xỉa vào cây. Vương phải lấy vạt áo khéo lau những
mũi giáo đâm chạm vào mình. Đang hồi nguy cấp, một con
chồn trắng từ hốc cây lao vọt ra trốn chạy. Lũ chó
ùa đuổi theo. Tên tướng Tàu chỉ huy toán quân tức giận
ra lệnh gọi bầy chó lại chém chết con đầu đàn rồi
kéo quân đi. Sau này, vua Lê sai lập miếu thờ người đàn
bà vô danh đã hiển linh hóa ra con chồn để đánh lạc
hướng giặc. Chuyện này còn được gán cho một số nơi
khác với những tình tiết tương tự. Chẳng sao. Điều
chính yếu là cái lõi, cái thần câu chuyện để lại cho
hậu thế. Cây thị ăn thề không có thêm truyền thuyết
này thì vẫn là một chứng tích lịch sử đã được ghi
nhận.
Cây thị nay vẫn còn, gốc tày hai người ôm, già cỗi y
như cổ tích, song vẫn còn “phong độ”, đến vụ vẫn
cho nhiều quả. Đúng là thân rỗng lên tít trên cao. Nơi
gốc bây giờ bị hổng hai mảng đối diện có thể nhìn
xuyên qua, và có thể ghé nhìn thông lên phía trên. Nếu
không được chăm sóc e chẳng còn “thọ” được lâu.
Cây thị trước kia đứng giữa đồi đất hoang, nay đứng
lẫn giữa các cây vườn. Mãi sau này mới có tấm biển
đề giới thiệu cây bằng xi măng qua quít. Không một dấu
hiệu nhỏ nào khác tỏ sự quan tâm. Ít ai nhớ đến cái
quá khứ vinh quang và thiêng liêng của nó, cho dù giả sử
chỉ được ghi nhận ở mức truyền thuyết.
Cây sui “hổ huyệt” thì nay chỉ còn trơ lại cái gốc
cụt đang mục dần, to đến bốn người ôm. Năm 1994, Bộ
Văn hóa trao bằng di tích lịch sử cho khu lưu niệm về
Nguyễn Tuấn Thiện. Xã Sơn Phúc (Phúc Đậu) xưa kia là
nơi phát tích và là căn cứ nghĩa quân nay chỉ có một
chi họ nhỏ họ Nguyễn hậu duệ của ông. Họ lớn (đại
tôn) lại ở xã Sơn Ninh bên kia sông Phố, nơi có nhà thờ
và mộ Nguyễn tướng quân. Do vậy, họ lớn đã tranh rước
bằng di tích về bên đó. Một số cán bộ văn hóa cấp
trên thấy có gì chưa phải, nhưng chi họ nhỏ thế yếu,
xã sở tại cũng không mấy mặn mà cho là việc riêng của
dòng họ.
Tháng 8- 1994 rước bằng về xã Sơn Ninh thì tháng 5-1995
cây sui đại thụ, ít ra cũng hơn 600 tuổi như cây thị,
bị sét đánh. Từ xa, người ta cũng nhìn thấy trong mưa
to những tia sét loằng ngoằng thi nhau giáng xuống cái cây
thọ mà không trọn. Cây sui bắt đầu héo ngọn lan dần
xuống gốc, các nhánh và cành lần lượt rã ra rơi xuống
đất. Người làng cho là có một sự phẫn nộ linh thiêng
(!). Tôi không nghĩ xa về cõi siêu hình, chỉ nghĩ hẹp trong
cõi trần gian thấy sự bỏ bê chốn gốc tích và chuyện
tranh chấp, nếu có, đúng là đáng giận. Ngày nay, người
ta đua nhau, tranh nhau nhận bằng di tích lịch sử - văn hóa,
phải chăng với ý thức tôn vinh danh nhân, tôn vinh công
tích, bảo tồn di sản dân tộc, bảo tồn truyền thống,
hay ẩn đằng sau còn có cái “tiếng” và, tệ hơn nữa,
cái “miếng”? Dấu tích chỗ cây sui, ngoài gốc cây cổ
thụ mục, chỉ có am thờ nhỏ như một cái chóp mộ trong
góc một miếng đất thoai thoải chừng 1500 mét vuông, sơ
sài cỏ và lẻ tẻ cây dại.
Đất tốt mà để hoang. Đất hương hỏa, họ chính ở
xa, chẳng giao cho ai. Một người ngoại tộc ở kề đấy
đề nghị được trồng trọt và đổi lại sẽ trông nom,
hương khói và nộp một phần thu hoạch, nhưng chưa được
chuẩn y.
Còn
đáng buồn hơn, một dấu tích tưởng đâu là bất biến
đã và đang bị huỷ diệt, sẽ xoá sổ luôn một địa
danh vốn đã bị chìm trong sương khói lịch sử. Bản doanh
nghĩa quân Lê Lợi - Nguyễn Tuấn Thiện từng đóng tại
đồi Hoa Bảy. Nay còn lưu lại nơi rìa đồi những tên
đất: Nhà Dinh, nhà Nổ, Cây Ràng, Cây Kè, ... Cuối thế
kỉ 19, đầu thế kỉ 20, trong cuộc khởi binh Cần vương
chống Pháp kéo dài hơn mười năm, nghĩa quân Phan Đình
Phùng - Cao Thắng mà người dân Phúc Đậu vẫn gọi là
quân cụ Đình (Đình Nguyên Phan Đình Phùng), cụ Chưởng
(Chưởng Quân Cao Thắng) cũng từng đồn trú tại Hoa Bảy.
Trong số các tướng của quân Cần Vương có một người
quê ở ngay Phúc Đậu, ông Nguyễn Nhị (không thuộc dòng
họ Nguyễn Tuấn Thiện) tục gọi là Cử Nhị vì ông đậu
cử nhân võ, đã tử trận khi dẫn quân đánh giặc Pháp
ở đồn Linh Cảm. Một địa danh gắn với những biến
cố lịch sử như thế, tiếc thay… Đồi Hoa Bảy có hai
ngọn, ngọn thứ hai có tên là Động Quang. Chừng mười
năm trước, hòn Động Quang đã bị ngoạm vẹt sườn một
vệt rộng và sâu dọc chiều dài để lấy đất tôn tạo
quốc lộ 8. Sau đấy mấy năm, người ta lại đào tiếp
sang hòn Hoa Bảy cũng để lấy đất đưa đi làm đường
Hồ Chí Minh. Một di tích văn hóa vật thể sắp tiêu vong
cùng di sản văn hóa phi vật thể bao quanh nó.
Có người nói: Những ngọn đồi Hoa Bảy, Cây-thị-ăn-thề,
Lòi-hổ-huyệt, Ruộng trằn, Cầu-cứu-cọp…không đưa
lại những dịch vụ kiếm tiền thì đòi hỏi người ta
quan tâm sao được. Song, di sản dân tộc cùng anh hồn quá
khứ đâu có cần “dịch vụ” để chiêm bái hay ít ra
là nhớ về.
H
ầu như mỗi vùng đất của nước ta đều ít nhiều
có dính dáng đến truyền thuyết, dã sử. Bạn đi tham quan
- du lịch, nhất là đi đường dài, thường chỉ đến những
thắng cảnh nổi danh, những di tích văn hóa, lịch sử có
hạng. Bạn khó biết, khó đến những nơi đã bị lãng
quên, đã bị mai một, thậm chí đã bị huỷ hoại vì thời
gian, vì con người.