TỪ TRO TÀN BÓNG CHỮ BAY LÊN
“Tôi đã ghé lại đây bởi đầu tiên hai chữ văn chương,
nhưng dừng
lại nơi này bởi giản đơn tình bạn.”
1- Cứ mỗi lần đọc hay nghĩ về những trang viết của Đặng Châu Long,
tôi thường liên tưởng đến huyền thoại chim Phượng Hoàng, nhưng không
phải là chuyện tái sinh, mà là từ đống tro tàn có những bóng chữ bay
lên, sống động.
Liên tưởng đó thường làm tôi nghĩ đến sự tái hiện của lịch sử và văn
chương. Là biểu tượng của sự sống và cái chết, Phượng Hoàng ở phương
Tây được xem là sinh vật bất tử, vòng đời không bao giờ kết thúc.
Khi bị thương hay thấy mình già yếu, chim sẽ dùng lông của mình để
xây một cái tổ rồi tự thiêu bằng chính nguồn nhiệt của bản thân. Sau
đó, từ tro của mình chim sẽ tái sinh.
Tất nhiên thơ văn của Đặng Châu Long không thể và không muốn làm hồi
sinh ai. Mà những trang viết của anh chỉ là sự gợi lại những ký ức
về những người đã đi qua đời mình. Một Chu Trầm Nguyên Minh đa tình
và đa tài, một Nguyễn Ngọc Thơ với nụ cười hồn nhiên và sảng khoái
hay từ Trần Hữu Hội, thân thể mang đầy bệnh tật mà trên môi luôn
phát ra nụ cười an lạc bình yên để ban tặng cho đời. Còn khi viết về
một người em trai, người đọc sẽ thấy đâu đó một tính cách tưởng như
ươn gàn, bướng bỉnh nhưng thực chất Đặng Phước Đạt rất yếu mềm và
nhạy cảm...
Lời tường thuật của Đặng Châu Long sinh động nên người đọc sẽ cảm
giác những người muôn năm cũ đang cười cười nói nói, hiện lên từ tro
tàn quá khứ.
Nhưng Đặng Châu Long không chỉ viết về hoài niệm. Anh viết nhanh, có
cái nhìn bao quát và thích chụp hình nên những buổi sinh hoạt đều
được anh ghi nhận đầy đủ. Nhà văn Nguyên Cẩn gọi anh là “nhà văn
thông tấn” quả thật không sai.
Tôi gặp và quen Đặng Châu Long ngay từ lần đầu anh xuất hiện trên
Quán Văn [1], sau chuyến cõng văn chương qua Paris năm 2013 [2]. Bài
viết của anh có những từ lạ và cuối câu thường buông thõng nên làm
tôi chú ý. Trước đó có lẽ anh đã ngừng viết khá lâu: “Nhờ một lần
kết nối của anh Chu Trầm Nguyên Minh, tôi dần hồi sinh cùng văn
chương”. Sau khi Chu Trầm Nguyên Minh mất, chính anh là người
lưu giữ thơ văn và khi công bố di cảo làm bao nhiêu người thảng thốt
về nhà thơ, tác giả “lời tình buồn” đa đoan này.
Qua những ghi chép “viết để nhớ” anh đã làm sống lại những
hoài niệm, đưa chúng ta gần nhau để chống lại kẻ thù ác nghiệt nhất
của cuộc đời: sự lãng quên.
Gặp nhau ngoài đời, anh Long là một người nhỏ nhẹ và kiệm lời. Anh
thường tự bạch: “Tôi vẫn vốn là người thích đứng bên lề, thích
quan sát đời hơn là gây lời lao xao.” Tôi biết anh sợ nghi thức
rườm rà. Những lần đi thăm thầy cô, anh thích đi một mình vì ngại
các bạn đặt nặng hình thức, mua hoa, quà cáp.. để cuộc gặp thiếu tự
nhiên. “Tôi vẫn cứ là người đa dại cùng đời. Không biết dối gian,
không biết khom mình đón cơ hội, chỉ biết cùng đời đón nhận buồn
vui.”
2- “Tôi yêu quý cõi đời này vô hạn, nhưng cũng trong tâm thế sẵn
sàng cho đời bay. Nhưng gì ngoài tầm tay mình có tiếc cũng hoài
công.” “Anh Chu Trầm Nguyên Minh đã trải một thời gian bạo bệnh dài,
đủ để chiêm nghiệm lằn ranh sinh tử và nỗi tồn sinh. Không như tôi,
đã một lần chạm ngõ thiên thu. Đổ sập xuống như một nhát cắt. May mà
hôm đó vợ chồng con gái tôi vừa từ Cambodia về tới và cấp cứu kịp.
Chợt nhận ra mỏng manh kiếp người và qua đời chỉ là một lần bước qua
bến bờ khác :
Như tia chớp lóe đường khuya,
Thinh không ta chạm bờ kia nghìn trùng.
Rỗng không, tắt lặng, ung dung,
Tách lìa cơn nhớ trùng phùng thiên thu.
(Đặng châu long – Chạm nẻo tử sinh)
Tôi không quen anh thời gian đó nhưng tin là sau cơn bệnh ấy, Đặng
Châu Long đã trở thành một con người khác, sống với một nhân sinh
quan khác và mạnh mẽ hơn! Một bác sĩ thần kinh người Do Thái, Viktor
Frankl, được may mắn sống sót từ trại tập trung của Phát xít Đức đã
từng nói: “Con người tự đứng dậy sẽ mạnh mẽ hơn người chưa bao giờ
té ngã”. Bác sĩ Carl Gustav Jung, cũng đã từng viết là những giọt
nước mắt của phượng hoàng có thể chữa lành vết thương, vì thế nó có
một sức mạnh và không thể bị đánh bại.
Tôi nhắc những điều này không phải để cường điệu Đặng Châu Long là
con người vô hoại, bất tử, không, mà chỉ muốn ghi nhận rằng anh là
người mạnh mẽ và rất trọng tình: “Chỉ có tình đời làm tôi chùng
bước.” (“Hoài cảm một thời). Bởi thế nên anh “Thà chấp nhận thua
thiệt để không làm sứt mẻ cái chữ tình”. “Tình bạn. Bạn bè. Bằng
hữu. Đó là những cung bậc của một tình cảm, và có lẽ chỉ khi ta đứng
tuổi mới thấy hết sức mạnh của nó. Tội nghiệp cho những ai cô độc
tuổi xế chiều, hắt hiu sống vật vờ chờ số phận để rụi tàn. Chẳng ai
thoát định mệnh, nhưng có thể bình tâm cùng gió đời.” “và tôi chợt
buồn cho những ai tham vọng bất tử, trường sinh. Đó là những con
người bất hạnh và cô đơn nhất trên cõi người. Họ sẽ mãi là trẻ thơ
không lớn và sống vật vờ cô độc trên cõi nhân sinh một cách tội
tình.” (Nhĩ thuận tòng tâm).
Có lẽ cùng quan điểm nên trong những lần hàn huyên cùng anh, trong
thư phòng bộn bề sách vở có khi chúng tôi thường trao đổi với nhau
về lẽ tử sinh. Nếu Elena Pucillo Truong vẫn thường nói “đời chỉ là
một hơi thở sao không sống cho tâm mình đẹp” thì Đặng Châu Long cũng
đặt ra những vấn đề tương tự: “Hình như suốt cuộc đời chúng ta đều
tất bật chạy theo những ảo ảnh nhưng rồi đến một lúc nào đó cũng
phải dừng lại và tự hỏi:“Mình đang ở đâu?” “Đã được và mất gì?” để
cuối cùng nhận ra là tất cả chúng ta đều mang trong người một điểm
đến mà không ai có thể tránh khỏi: cái chết. Và nếu chúng ta nghĩ
một cách nghiêm túc về điều này thì nhiều thứ xung quanh ta sẽ thay
đổi và chúng ta sẽ hiểu sống để làm gì, và từ nay sẽ phải làm gì”.
Mà thực ra có phải là chỉ tôi và anh nghĩ đến điều này đâu? Phần lớn
bạn bè đều có chung một cách nhìn nên tình bạn trong sáng và chan
hòa, ngoài những trang viết trên Quán Văn, chúng tôi còn có những
buổi sinh hoạt chung mà nói theo cách của Elena thì đó là những buổi
“trị liệu nhóm”[3].
Trải bao bể dâu tôi cảm giác là Đặng Châu Long vững vàng như cổ thụ
trước mưa bão nên anh là điểm tựa cho bạn bè, người thân. Người đồng
hành với anh, chị Hạnh là người ngọt ngào và tình cảm. Hai anh chị
đều là người được bạn bè quý mến và tin tưởng.
3- Trong Quán Văn chúng tôi có nhiều đồng cảm về tình bạn. Nếu trong
tiểu thuyết Trò chuyện với thiên thần tôi viết “bạn chính là những
người làm cho mình cảm thấy trẻ trung và biết rằng ở đâu đó vẫn còn
người cần đến sự hiện hữu của mình...” thì trong DCL cũng diễn ý ấy
bằng cách khác: “dòng sông đời vẫn ầm vang chảy giữa mùa lũ, và
chúng tôi như những nhánh cây lá nhỏ tơi tả, gắn kết cùng nhau thành
những chiếc bè trôi về một phương vô tận. Nhìn cuồng đời và không
muốn rời tay nhau”. “Cuộc sống có là bao nữa, còn thấy nhau cứ thoải
mái cùng nhau. Niềm vui lớn nhất trong giao tiếp là gặp những người
cùng dòng sống, thoải mái bộc lộ niềm vui và nỗi buồn..." (Nhớ nhau
hong một chữ tình)
Từ khi sinh hoạt cùng Quán Văn Đặng Châu Long có nhiều bài viết và
hình ảnh về những buổi sum họp, đến với nhau vì một chữ tình. Mỗi
phút ra đi như sống lại, phục sinh như đi ngược về nguồn: “Khi chúng
ta một lần bình tâm dừng lại bên bờ dòng sông cũ... khi chúng ta cố
tìm trong nhạt nhòa ký ức những hình bóng chập chờn xưa... khi chúng
ta nhói lòng nhớ một phai phôi kỷ niệm man mác không còn định hình
nổi thời không của dòng nhớ ấy... chính là lúc gió mùa heo may đang
tràn tới âm thầm cùng niềm hân hoan và cả nỗi man mác âu lo cho
những người cùng thời, những kẻ cùng tắm chung môt dòng sông ký ức
ta.” (Đời đã đá vàng)
Khi những cánh chim cô đơn tìm về sum họp cùng nhau thì đời sẽ
rất... dễ thương. Khi đó “Sống không còn chỉ là sống”, “Và khi kết
nối những tâm hồn đồng điệu chúng ta cứ vui vì được thoải mái chia
sẻ”. “Mỗi lần gặp là một lần rộn ràng hân hoan trong chân tình cởi
mở. Có một điểm chung cho tất cả, đó là sự giản dị trong vật chất và
cảm thông với từng nỗi đời. ”
4- Trong những trang viết, bạn đọc sẽ thấy Đặng Châu Long làm thơ,
viết văn và dịch thơ từ tiếng Pháp.
Alfred de Vigny: La mort du loup
“Gémir, pleurer, prier est également lâche.
Le vent se lève! … il faut tenter de vivre!
Il pleure dans mon coeur,
Hôm nay trời nhẹ lên cao,
Thơ của anh nói về thân phận, nỗi đau của con người, nhưng tất cả
đều hòa vào niềm đau của đất nước, của vận mệnh dân tộc. Bằng những
câu chữ đơn giản nhưng đi thẳng vào đời sống xã hội.
(Trong đêm tôi vùi khóc)
Thơ Đặng Châu Long là lời tự tình, là cảm nghĩ của con người với nỗi
buồn, nỗi khổ, niềm đau trong bối cảnh xã hội. Ngôn ngữ trong thơ
đơn giản mà tinh khôi. Anh viết nhẹ nhàng, hí lộng như nói chuyện,
không gọt dũa vậy mà vẫn đầy nhạc điệu. Qua cách viết ta bắt gặp một
tâm hồn phóng khoáng, không bó mình vào sự ràng buộc nào.
Trong văn xuôi cũng vậy, anh viết mà không cố gắng trau chuốt câu
văn, không cần xác định phải viết thế này thế kia mà đi thẳng vào sự
việc. Nhận định về anh, nhà văn Nguyên Cẩn nói: Anh không viết thuần
lý hay tự sự mà anh mô tả, tường thuật.
Cách viết của tôi và anh có thể khác nhau về ngôn ngữ hay cách diễn
đạt, nhưng theo nhận xét của nhà phê bình văn học Nguyễn Thị Tịnh
Thy thì tâm hồn và suy nghĩ của chúng tôi khá giống nhau. Điều này
cũng được Đặng Châu Long chia sẻ: “Chúng tôi hợp nhau từ ý nghĩ đến
cách sống. Từ nhân sinh quan đến lối ăn nép ở. Ăn uống đơn giản, đạm
bạc, miễn no lòng là ổn”. Anh còn thẳng thắn nhận xét: “Gia tài quý
nhất của Quán Văn và của Trương văn Dân chính là Elena. Với Trương
văn Dân, một nửa sự nghiệp văn chương là văn dịch từ Elena, còn với
Quán Văn Elena là một người thân mà không ai có thể vượt qua.”
Văn chương của Đặng Châu Long là “viết để nhớ”. Là nhật ký. Để nhớ
những gì cần nhớ, những kỷ niệm không thể lãng quên. Nhưng nói thế
có lẽ không công bằng vì anh đâu thiếu những trang viết trữ tình,
mượt mà và lãng mạn: “Trời se lạnh cuối năm, giữa lất phất mưa nhẹ
đã cuốn hút chúng tôi bước tới, đi mãi dọc con đường lót đá.Trước
mắt chúng tôi là biển trong đêm. Những con sóng mù động ầm ì vỗ,
những ánh đàn héo hắt vàng dọc biển đã vô tình tạo một hội ứng màu
huyền ảo giữa bao la biển. Xa xa những ánh đèn nhỏ nhoi như xếp hàng
dài ngoài khơi đủ cho ta biết nơi ấy cũng có những con người,trong
đêm cùng những con thuyền,lặng lẽ kiếm sống.” (Đêm nghe biển gọi)
Bút ký và tùy bút của Đặng Châu Long luôn có những góc nhìn sắc nét,
như khi viết về Măng Đen: “Xe chở chúng tôi hối hả theo cơn mưa
chiều nặng trĩu hạt. Cả một trời mù sương che kín vùng cao nguyên
vắng vẻ lặng lẽ như muốn kéo chùng thêm vẻ thâm u vốn đủ đầy chỗ
nguyên sơ,… những dãy lều tạm như những chiếc lều xưa kia tôi dựng
cho những người dân tản cư trong mùa chinh chiến tang thương …” hay
viết trước tượng Đức mẹ cụt tay khi anh em quây quần trong một ngày
mưa gió: “Với những chiếc áo mưa mong manh, chúng tôi ngỡ ngàng
trông thấy dáng Mẹ. Đôi tay cụt, khuôn mặt không thể buồn hơn, ngơ
ngác như xót thương cho kiếp nhân sinh.” ( Lắng đọng một chuyến đi )
Qua các bài viết người đọc có thể bắt gặp những suy nghĩ của anh về
cuộc đời và những người đã từng sống và sinh hoạt cùng anh.
5- Dù thể hiện ở dưới hình thức nào, văn thơ của Đặng Châu Long cũng
đều xoay quanh một chữ tình. Những bạn bè cứ như “Những chiếc bông
vụ cứ xoay vòng theo riêng từng quỹ đạo. Tít mù xoay sau cú hất dây
đời, cứ quay, cứ xoay cho đến tàn hơi, thở hắt ra ngơi nghỉ, lặng
im..” và cái tình anh dành cho họ là thương mến, mỗi người được anh
nhắc tên và yêu theo một cách rất riêng: “Đã được năm năm tôi thở
hơi nhỏ nhẹ cùng thân hữu Quán Văn, cùng gia đình Quán văn. Một nơi
chốn nhỏ hẹp, cũ kỹ, tồi tàn nhưng đong đầy tình thân, để tiếp tục
quay tròn sau những cơn va vấp giữa đời say. Và chúng tôi đang cùng
quay. Dù cuối cùng cũng rã rời đời.” (Nhớ nhau hong một chữ tình)
“Tôi đã ghé lại đây bởi đầu tiên hai chữ văn chương, nhưng dừng lại
nơi này bởi giản đơn tình bạn. Những ánh lửa nồng ấm của Nguyên
Minh, Elena, những lòng nhiệt tình của Hoàng Kim Oanh, Ngô Thị Mỹ
Lệ, Nguyên Tâm, những đau đáu nỗi niềm đời của Trương văn Dân,
Nguyên Cẩn, Trần Hữu Hội, những gắn kết thủy chung của Đòan Văn
Khánh, Đoàn Đình Thạch, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Sông Ba, Mang Viên
Long, Lê Ký Thương, Lữ Kiều, Đỗ Hồng Ngọc… như một khát khao cùng
nhau vượt thoát nỗi đời, những con mọt đam mê sách vô cùng tận như
Lê Viết Yên. Và những người thích nhìn ngắm những êm đềm đó như
Trường Nghị, Nguyễn Ngọc Thơ, Hoài Huyền Thanh, Mã Lam, Nguyễn An
Bình, Trần Thị Trúc Hạ, Ban Mai,, Từ Sâm, Tiết Hùng Thái, Triều
Hạnh, Đoàn Thị Phú Yên, Phan Trang Hy, Lương Minh, Nguyễn Châu, Dung
Thị Vân… nhiều nữa… như Nguyễn Thị Tịnh Thy… và tôi. Dòng sông đời
vẫn ầm vang chảy giữa mùa lũ và chúng tôi như những nhánh cây lá nhỏ
nhoi tơi tả, gắn kết cùng nhau thành chiếc bè trôi về một phương vô
tận. Nhìn cuồng đời và không muốn rời tay nhau.
Ngày kỷ niệm sáu năm, vui cùng nhau chỉ là lời mời gọi đơn giản,
bình thường, những món quà từng người mang đến giản dị nhưng thực
chất gói cả tình thương yêu trân trọng. Những chiếc bánh kem làm
thâu đêm, những nụ cười gặp nhau rạng rỡ niềm mong, đó là tất cả
những gì chúng tôi có thể cùng nhau.”
Phượng Hoàng (phoenix hay phœnix) là một dạng chim lửa linh thiêng.
Khi nhắc về loài chim bất tử này người ta thường mong ước là được
sống hết mình, yêu hết mình, cháy hết mình, để khi tất cả là tro
tàn, cùng đứng dậy, trở thành một con người mới, tiếp tục sống, tiếp
tục yêu thương như chưa biết thế nào là đau khổ.
Đó là một giấc mơ để thoát khỏi những niềm đau ở cái thế giới bất
toàn và đầy bất trắc. Và trong cái xã hội đang vun vút lao đi như
hôm nay, có lẽ những người của một thời xa lắc, chỉ còn cách trú vào
văn chương để an nhiên mà sống.
(Đặng Châu Long)
Fais énergiquement ta longue et lourde tâche
Dans la voie où le Sort a voulu t'appeler,
Puis après, comme moi, souffre et meurs sans parler”
Chỉ là hèn nếu khóc than cầu nguyện,
Hãy nghiến răng cật lực bền tâm.
Vững trên đường hắt hiu phận số,
Và cuối cùng thở hắt chết lặng câm. (ĐCL)
Paul Valéry: Le cimetière marin
L'air immense ouvre et referme mon livre,
La vague en poudre ose jaillir des rocs!
Envolez-vous, pages tout éblouies!
Gió dậy rồi… kiếp này ta gắng sống,
Gió cuồng xoay đóng mở sách tôi mang.
Đá vỡ cát vàng vỡ tung theo ngọn sóng,
Hãy bay đi, ngàn trang giấy chói chang. (ĐCL)
PAUL VERLAINE: IL PLEURE DANS MON COEUR
Comme il pleut sur la ville;
Quelle est cette langueur,
Qui pénètre mon coeur ?
O bruit doux de la pluie.
Par terre et sur les toits !
Pour un coeur qui s'ennuie,
O le chant de la pluie !
Il pleure sans raison,
Dans ce coeur qui s'écoeure.
Quoi! nulle trahison ?...
Ce deuil est sans raison.
C'est bien la pire peine,
De ne savoir pourquoi.
Sans amour et sans haine,
Mon coeur a tant de peine !
TIẾNG KHÓC TRONG TIM TÔI
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu, Chiều)
Sầu rơi trong tim tôi,
Như mưa rơi trong phố.
Ôi bạc nhược nỗi nhớ,
Len vào tim bồi hồi.
Ôi nhẹ nhàng mưa rơi,
Lăn trên đất trên mái.
Cho trái tim nỉ non,
Bài hát mưa rã rời,
Sầu rơi chẳng vì sao.
Cõi tim này yếu đuối,
Nào phải tình bội bạc.
Tim nát chẳng vì sao,
Nỗi khổ tâm tồi tệ.
Chẳng biết lẽ thế nào,
Thù không tình trống rỗng.
Bỗng buồn nghe tim đau.
(ĐCL)
...Trong cơn đau thuở nào,
Tôi đã gặp tổ quốc xanh xao ngày thương hận.
Một hình hài nát dấu đạn bom,
Tôi đã ôm người cùng tả nát vào lòng...
Hay
...Hãy viết những niềm đau lên giấy,
Nhét thật sâu vào hốc đá rong rêu hai ngàn năm tuổi.
Của bức tường than khóc Jerusalem,
Hãy gục đầu lên vách và nhòa lệ cùng tường.
Để đá vô tri cùng chia sẻ đau thương,
Quên vô vọng giữa cõi đời chai lạnh.
Tình người bị quẳng vào hố rác thảm thương,
Hãy nguyện cầu đẩy đưa lời kinh vọng cõi vô thường.
Hãy thành tín với tương lai hoàn sinh cực lạc...
(Nghe nói Jerusalem có bức tường than khóc)