Việt Văn Mới
Việt Văn Mới



LÃNG DU TRONG ÂM NHẠC ARGENTINA


NHẠC SĨ BRAZIL HEITHOR VILLA-LOBOS (1887 – 1959)

Trong âm nhạc của HeitHor Villa-Lobos ta thấy phong cảnh, con người đất nước Brazil.  Âm nhạc của ông chịu ảnh hưởng từ hai nguồn : âm nhạc dân gian Brazil và âm nhạc của Johann Sebastian Bach cùng truyền thống âm nhạc cổ điển châu Âu.

HeitHor Villa-Lobos sinh ngày 5 tháng 3 năm 1887 tại Laranjeiras gần Rio de Janeiro, Brazil trong một gia đình yêu nhạc. Gia đình thường xuyên tổ chức các biểu diễn tại nhà vào các thứ bẩy với sự góp mặt của nhiều nhạc công giỏi của thành phố. Chính tình yêu âm nhạc của người cha đã kích thích Villa-Lobos học chơi và sáng tác nhạc. Lên 6 tuổi cậu được cha dạy chơi cello và các kiến thức về hòa âm, đối vị.

 Năm 1899,  Lobos ông học chơi guitar và chơi các bản chôros với những nhạc công đường phố trong các quán bar và các lễ hội.Trong thời gian này ông sáng tác 14 bản chôros cho nhạc cụ đọc tấu cũng như hòa tấu. nổi tiếng nhất là bản Chôros Nº 1 cho guitar viết vào năm 1920 đề tặng Ernesto Nazareth (nhạc sỹ Brazil xuất chúng với các bản Chôros) và bản Chôros No. 5 viết năm 1950 (còn có tên "Alma Brasileira" (Tâm hồn Brazil) - và cũng là sáng tác nổi tiếng nhất mà ông viết cho piano).

Thấy được tài năng của Lobos, Segovia đã thuyết phục nhạc sỹ sáng tác concerto cho guitar và dàn nhạc Kết quả là sự ra đời của một trong những concerto hay nhất thế kỷ 20:  Concerto cho guitar và dàn nhạc nhỏ.

Năm 1923, được sự gợi ý của Rubinstein, Lobos sang Paris.  Các buổi hòa nhạc có trình diễn sáng tác của ông được công chúng Paris nhiệt liệt hưởng ứng. Việc các tác phẩm của ông được Rubinstein và soprano Vera Janacopulus biểu diển thành công ở nhiều nơi càng khiến Lobos nổi tiếng. Ấn tượng về Paris sâu đậm nhất là ông được nghe Rite of Spring (Lễ bái mùa xuân) của Igor Stravinsky mà sau này Lobos gọi đó là "khoảnh khắc âm nhạc kỳ diệu nhất cuộc đời tôi”. Cũng tại Paris phong cách sáng tác của Lobos được định hình, ông bất đầu thường xuyên sử dụng hình thức sonata trong các sáng tác của mình. Năm 1927, Lobos quay trở lại châu Âu để trình diễn cũng như xuất bản các sáng tác của mình. Những năm 1930, ông thường xuyên tổ chức các buổi hòa nhạc ở Sao Paolo và tham gia các hoạt động giáo dục âm nhạc trong các trường học ở Brazil. Năm 1932 ông là giám đốc của Superindendência de Educação Musical e Artistica (SEMA). Nhiệm vụ chính của ông là tổ chức các buổi hòa nhạc.  Từ năm 1930 đến 1945, Lobos sáng tác 9 bản Bachianas brasileiras ("Brazilian Bach pieces"). Năm 1942 ông thành lập Conservatório Nacional de Canto Orfeônico chủ yếu đào tạo giáo viên dạy hát đồng ca ở bậc tiểu học và trung học.

Sau năm 1945, ông sang Anh, Mỹ, Pháp để trình diễn các sáng tác của mình cũng như nhận các yêu cầu sáng tác.  Ngoài ra ông cũng sáng tác nhạc cho phim, ballet, opera, giao hưởng theo các yêu cầu của các tổ chức. Guitar chiếm một vị trí quan trọng trong cuộc đời cũng như sự nghiệp của Villa Lobos. 12 Etude (1929), 5 Prelude (1940) và một Concerto cho guitar (1951) là nhứng tác phẩm kinh điển của nghệ thuật trình tấu guitar hiện đại Đặc điểm nổi bật nhất trong âm nhạc của Villa Lobos chính là sự kết hợp giữa hòa âm, hình thức âm nhạc của châu Âu với giai điệu và tiết tấu của Brazil: hiện đại nhưng vẫn đậm bản sắc dân tộc. Villa Lobos qua đời vì ung thư ngày 17 tháng 11 năm 1959.  Ông để lại một gia tài âm nhạc đồ sộ cho nhân loại ở nhiều thể loại như piano solo, guitar solo, vocal, opera, ballet, concerto, tứ tấu, giao hưởng.. HeitHor Villa-Lobos được xem là người nổi bật nhất trong số những nhà soạn nhạc cổ điển sinh ra tại Nam Mỹ.

  BÌNH QUÂN LUẬT 

Bình quân luật  - Well-Tempered Clavier -   gồm 2 tập viết cho đàn phím solo là một trong những báu vật trí tuệ vĩ đại trong đại dương tác phẩm của J. S. Bach nói riêng và của thế giới nói chung. Mỗi tập gồm 24 cặp Prelude và Fugue ở tất các các điệu thức trưởng và thứ trong thang âm. Cặp thứ nhất ở giọng Đô trưởng, cặp thứ hai ở giọng Đô thứ, cặp thứ ba ở giọng Đô thăng trưởng, cặp thứ tư ở giọng Đô thăng thứ, cặp thứ năm ở giọng Rê trưởng và cứ thế tiếp diễn … 

Bình quân luật tập I, BWV 846 – 869, được hoàn thành năm 1722 tác phẩm này "để sử dụng tiện lợi đối với nhạc công trẻ khao khát học tập và đặc biệt là để tiêu khiển đối với những người đã luyện thành thạo." Bình quân luật tập II, BWV 870 – 893, được J. S. Bach soạn năm 1744.

Cùng với sự nổi lên của chủ nghĩa Cổ điển vào những năm 1770,  Bình quân luật  của J. S. Bach bắt đầu gây ảnh hưởng lớn đến tiến trình lịch sử âm nhạc. Dân tộc Đức luôn tự hào với ba vần “B”, đó là Johann Sebastien Bach, Ludwig Van Beethoven và Johannes Brahms. Tác phẩm của J.S.Bach luôn được xem là chuẩn mực nhất không chỉ về cấu trúc, sự hài hòa giữa giai điệu và hoà âm mà còn bảo đảm tính logic trong tư duy âm nhạc phù hợp với nhiều giai đoạn phát triển lịch sử của loài người. Âm nhạc của J.S.Bach đã vượt qua những hạn chế lịch sử của mọi thời đại, là một trong những nhân tố sáng tạo nên những truyền thống, là ngọn nguồn không bao giờ cạn trong sự phát triển của âm nhạc thế giới.

       BẢN NHẠC BRAZIL THEO PHONG CÁCH BACH  -   BACHIANA BRASILEIRA

Âm nhạc cổ điển của Brazil không thể so sánh với của Đức, Pháp, Nga và tầm vóc của Villa-Lobos không thể so sánh với Beethoven, Mozart, Tchaikovsky, nhưng Aria-Cantilena có thể coi là tác phẩm nổi trội của châu Mỹ La-tinh. Villa-Lobos soạn hòa tấu cho một giọng soprano và 8 cây cello Bachianas Brasileiras No. 5  từ năm 1938 đến 1945.

Trong số 9 tổ khúc Bachianas Brasileiras thì nổi tiếng nhất là bản Bachiana Brasileira số 5. . Bachianas Brasileiras No. 5 gồm 2 phần là Aria-Cantilena và Dança .    Aria-Cantilena   tràn đầy tính sôi nổi, cuồng nhiệt của tâm hồn Mỹ La-tinh, vừa như có sự oai nghiêm, huyền bí của những tượng thần da đỏ, của rừng rậm Amazon với bao loài động thực vật đặc sắc. Tiếng hát như cất lên từ một nơi nào xa xăm trong rừng rậm Amazon lúc chiều tà của một ngày hè oi bức, bên cạnh dòng sông Amazon đỏ ối trong ánh hoàng hôn:

            ARIA-CANTILENA                               
  
     Nhạc:Heitor Villa-Lobos  Lời: Manuel Bandeira

Chiều về, một đám mây hồng, chầm chậm và trong suốt
Trên không gian đẹp như mơ.
Trăng mọc ngọt ngào nơi chân trời
Trang trí buổi chiều như một nàng trinh nữ
Lao đi và tô điểm cho mình,
Với một tâm hồn khao khát được xinh đẹp
Thét lên với Trời và Đất và tất cả thiên nhiên.
Tất cả lũ chim đều im lặng trước những lời khúc ai oán của Trăng
Và biển cả phản chiếu vẻ lộng lẫy của Trăng
Nhẹ nhàng, Trăng sáng chỉ mới làm thức dậy
Nỗi nhớ điên cuồng cười và khóc.
Chiều về, một đám mây hồng, chầm chậm và trong suốt
Trên không gian đẹp như mơ…

Bachianas Brasileiras No. 5 thể hiện những đặc trưng của tổ khúc thời Baroque, đặc biệt là những tổ khúc của Bach. . Aria - Cantilena là bài thơ về vẻ đẹp quyến rũ của thiên nhiên lúc hoàng hôn trên nền hòa âm đầy biểu cảm … có thể sưởi ấm trái tim con người.  

TANGO ARGENTIN

Tango   (tăng-gô) là một thể loại âm nhạc và khiêu vũ kết hợp có nguồn gốc tại khu ngoại ô Buenos Aires,   và  Montevideo, Uruguay, và truyền sang phần còn lại của thế giới ngay sau đó. Lúc đầu Tango chỉ toàn có đàn ông thể hiện với nhau, vì phụ nữ cảm thấy điệu nhảy ấy có vẻ trụy lạc. Mãi sau, niềm đam mê Tango chẳng còn là độc quyền của phái mạnh nữa. Thời gian đầu, Tango luôn bị lớp người da trắng ở ngay châu Mỹ bài xích và coi đó là ” không lành mạnh”. Phải đợi mãi đến năm 1880, một nhạc sỹ người Urugoay chính thức sáng tác bản nhạc đầu tiên cho vũ điệu tango thì sức mạnh của nó như được bừng dậy, khiến hàng triệu con tim rung động và say mê.

Ðiệu nhảy tango xuất phát từ cuối thế kỷ 19,  là một tâm trạng, một triết lý, một nghệ thuật …. Vũ điệu chất chứa đầy tâm trạng này xuất hiện lần đầu tiên ở khu vực gồm những con người nghèo khó nhất của Thủ đô Buenos Aires (Achentina), ngay trong lớp người da đen di cư mang nặng tình cảm nhớ quê, đau khổ và tủi buồn. Ban đầu, tango được biết đến đơn giản chỉ là tango.  Giờ đây, có rất nhiều phong cách nhảy tango, bao gồm tango Argen-tina, tango Urugoay, tango quốc tế, tango Phần Lan ... Điệu nhảy tango Argentina bắt nguồn từ những khu bình dân ở thành phố Buenos Aires Argentina .. Âm nhạc của tango lại là một bắt nguồn từ muôn vàn thể loại âm nhạc châu Âu. Từ "tango" dường như lần đầu tiên được sử dụng vào những năm 1890. Ban đầu, nó chỉ như là một trong rất nhiều thể loại nhảy khác, nhưng tango đã sớm trở nên phổ biến rộng rãi trong cộng đồng, từ trong rạp hát cho đến trên đường phố, từ ngoại ô vào khu ổ chuột của tầng lớp lao động, nơi có hàng ngàn dân châu Âu nhập cư, đặc biệt là người dân Italia, Tây Ban Nha và Pháp.

Vào đầu thế kỷ 20, các vũ công và nhạc công từ Buenos Aires đã tới châu Âu, ở đó điệu tango châu Âu cuồng nhiệt đầu tiên đã diễn ra ở Pa-ris, rồi sang đến Luân-đôn, Ber-lin và rất nhiều thủ đô khác. Cho đến cuối năm 1913, tango đã đến với thành phố New York, nước Mỹ và Phần Lan. Năm 2009, điệu tango được UNESCO tuyên bố là một trong những di sản văn hóa phi vật thể của thế giói.  Ngày nay, có nhiều phương pháp nhảy bao gồm cả Tango Argentine , Tango Uruguayan và Tango cổ điển. Tango Argentine được xem là gần với điệu nhảy ban đầu tại Argentina  và  Uruguay. Điệu Tango được sử dụng thường xuyên trong các cuộc thi khiêu vũ quốc tế. Tango là một trong những điệu nhảy cơ bản của  khiêu vũ quốc tế. Kiểu nhảy tango hiện đại này được phát triển ở Anh trước Chiến tranh Thế giới lần 2,phần nhiều là từ công sức của Monsieur Pierre, một vũ sư người Pháp sống tại London . Mỗi năm Buenos Aires đều tổ chức cuộc thi vô địch thế giới về Argentine Tango qui tụ nhiều danh tài thế giới. Ngoài Argentine, 3 nước có điệu nhảy Argentine Tango thịnh hành và phát triển nhất là Pháp, Anh và Mỹ. Argentine Tango, tuy đã được cải cách và tiêu chuẩn hóa phần nào nhưng cơ bản vẫn là một điệu nhảy mang tính xã hội và các bước nhảy đều do tài biến hóa của từng vũ sư.  

           LỄ HỘI TANGO LỚN NHẤT THẾ GIỚI Ở BUENOS AIRES  ARGENTINA

Trong hai tuần lễ của sự kiện văn hóa này, khách tham quan sẽ có cơ hội tham gia các lớp khiêu vũ, các buổi biểu diễn, hòa nhạc, hội thảo và hội chợ. Tất cả đều được miễn phí. Đặc biệt, trong khuôn khổ của lễ hội tango ở Buenos Aires cũng sẽ diễn ra Giải vô địch Tango thế giới lần thứ 11 với sự tranh tài của gần 500 đôi vũ công chuyên nghiệp đến từ Argentina và nhiều nước khác. Lễ hội Tango do chính quyền thành phố Buenos Aires tổ chức hằng năm nhằm tôn vinh và gìn giữ những giá trị văn hóa của thể loại nhạc Tango. Đây cũng là hoạt động nhằm tạo dấu ấn riêng cho thành phố để thu hút du khách. Khi xem những bài nhảy Argentine Tango, các bạn sẽ thấy những bước móc chân của người nam và người nữ. Người nữ thường đi bên cạnh người nam, có những bước đi tréo chân và hình số 8 vòng quanh người nam.  Sự kết nối về cảm xúc giữa 2 bạn nhảy là yếu tố quan trọng để có một bài nhảy Argentine Tango hay. Chàng trai Pháp Carlos Gardel, vốn là người cùng gia đình di cư sang Achentina. Ở đó chính cuộc sống lang bạt đã đưa cậu thiếu niên Carlos đến với những người dân nghèo khổ ở Thủ Đô Buenos Aires, đến với vũ diệu Tango đồng cảm. Chàng trai dần dần say mê Tango đến lạ kỳ; bởi theo anh vũ điệu nồng nhiệt ấy thể hiện được cả những cảm giác bị mất mát lớn lao của lớp người xa xứ. Chính lòng say mê Tango đã tạo cho Carlos cơ hội bộc lộ “thiên phú” của mình về âm nhạc. Năm 18 tuổi, anh đã bắt đầu sáng tác và biểu diễn những bài hát Tango đầy ấn tượng. Năm 26 tuổi, Carlos đã trở thành một nhạc sỹ và một ca sỹ sáng giá….. Với ánh mắt đượm buồn, cộng với giọng hát quyến rũ của mình, Carlos đã đưa Tango lên đỉnh cao vinh quang ở mảnh đất Châu Âu danh tiếng. Năm 1976, Chính phủ Argentina đã ban hành một sắc lệnh, lấy ngày sinh của Carlos Gardel (11-11) làm “Quốc nhật Tango” và vào ngày ấy, cả nước hầu như tưng bừng sôi động bởi vì điệu Tango truyền thống diệu kỳ….  

NGHỆ SĨ PIANO ARGENTINA MARTHA ARGERICH
(1941- …)  

Martha Argerich sinh ngày 5 tháng 6 năm 1941 tại Buenos Aires, thủ đô Argentina, Martha bắt đầu học chơi piano khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của nhà sư phạm nổi tiếng người Italia  Vincenzo Scaramuzza.  Khi mới 8 tuổi, Martha Argerich đã có buổi biểu diễn đầu tiên của mình trước khán giả Buenos Aires. Cô đã trình diễn piano concerto số 20 giọng Rê thứ, K. 466 của Wolfgang Amadeus Mozart và piano concerto số 1 giọng Đô trưởng, Op. 15 của Ludwig van Beethoven. 11 tuổi, Martha đã trình bày thật tuyệt vời piano concerto giọng La thứ, Op. 54 của Robert Schumann.  

 Khi sự nghiệp của Argerich nở rộ vào thập niên 70 và 80 của thế kỉ 20 thì bà chú tâm vào các buổi recital nhiều hơn.  Argerich đã thay đổi lịch biểu diễn của mình bằng cách thêm vào một số buổi hoà nhạc thính phòng bao gồm các tác phẩm của Bach, Mozart, Beethoven, Schumann, Chopin, Bartók, Leos Janacek và Olivier Messiaen. Bà thường xuyên ghi âm và xuất hiện trên sân khấu với nghệ sĩ violin Gidon Kremer, nghệ sĩ cello Mischa Maisky, nghệ sĩ piano Nelson Freire và nhạc trưởng, nghệ sĩ piano Alexandre Rabinovitch. Bà yêu thích việc chia sẻ ánh đèn sân khấu với những nghệ sĩ mà lần lượt, tạo cảm hứng cho bà và cùng bà khám phá vào tận cùng những tác phẩm mới: “Sự hài hoà trong một nhóm hoà tấu tiếp thêm cho tôi sức mạnh và sự thanh thản”.

 Argerich lần đầu tiên xem Vladimir Horowitz  trực tiếp chơi đàn vào tháng 1 năm 1978 cùng với Nelson Freire. Về Horowitz, Argerich cho biết: Ông có một tốc độ biểu diễn thật kinh hoàng, ông đã hoàn toàn chiếm hữu. Những điều này tôi đã đọc trong sách nhưng đó là lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng trên sân khấu”. Sau buổi biểu diễn của bà tại Suminda Triphony Hall, Tokyo vào năm 1999 tờ Cowan đã ngợi ca Argerlich chơi đàn piano như Horowitz trước đó 22 năm.   Argerich đã 3 lần kết hôn. Người chồng đầu tiên của bà là Robert Chen, họ có với nhau một đứa con gái. Người chồng thứ 2 là nhạc trưởng người Thuỵ Sĩ Charles Dutoit, họ đã rất nhiều lần biểu diễn và ghi âm cùng nhau. Hai người li dị vào năm 1973. Người chồng thứ 3 của bà là nghệ sĩ piano, nhạc trưởng Stephen Kovacevich.

Martha Argerich có một di sản khá lớn các bản thu âm với các tác phẩm của những nhạc sĩ như Johann Sebastian Bach, Bela Bartók, Ludwig van Beethoven, Johannes Brahms, Frederic Chopin, César Franck, Joseph Haydn, Franz Liszt, Sergei Prokofiev, Sergei Rachmaninov, Maurice Ravel, Robert Schumann hay Peter Ilyich Tchaikovsky, chủ yếu là với hãng ghi âm danh tiếng Deutsche Grammophon.

Argerich giành 2 giải Grammy. Năm 2004 là giải dành cho Đĩa nhạc hoà tấu thính phòng hay nhất (cùng với Pletnev hoà tấu tác phẩm Cinderella – Suite của Prokofiev được Pletnev phối lại cho 2 piano).  Năm 2005 là giải dành cho Nghệ sĩ độc tấu với dàn nhạc xuất nhất (2 piano concerto số 2 và 3 của Beethoven cùng nhạc trưởng lừng danh Claudio Abbado và Mahler Chamber Orchestra).                             

        CON ĐƯỜNG ĐẾN VỚI CÂY ĐÀN PIANO   

Ở trường mẫu giáo,  một trong những bạn học của Martha, một cậu bé lớn hơn 5 tuổi  liên tục trêu chọc cô bé. “Có một lần cậu ta nói với tôi rằng tôi không thể chơi piano. Tôi vẫn nhớ rất rõ. Tôi ngay lập tức đi đến bên cây đàn piano, ngồi lên và chơi một giai điệu mà cô giáo đã chơi. Tôi chơi theo trí nhớ và đã biểu diễn một cách hoàn hảo. Giáo viên ngay lập tức gọi mẹ tôi đến và họ bắt đầu làm ầm lên. Tất cả là vì cậu kia đã nói rằng tôi không chơi được piano”. (Argerlich trả  lời phỏng vấn phóng viên Dean Elder của Clavier vào năm 1979).  Martha bắt đầu học chơi piano một cách nghiêm túc khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của nhà sư phạm nổi tiếng người Italia Vincenzo Scaramuzza. Mẹ của Martha luôn khăng khăng coi con gái mình là nhất và bắt ép con mình luyện tập. Argerich nhớ lại: “Cả gia đình và thầy giáo đều  nói với tôi khi tôi còn nhỏ rằng cây đàn piano là chồng chưa cưới của tôi. Tôi không có được sự tự do mà một đứa trẻ cần phải có”. Argerich hồi tưởng lại người thầy đầu tiên của mình: “Những lời ông nói ra thì chua cay, ác độc khiến nhiều khi tôi cảm thấy mình như một con ngốc. Ông nói học sinh là sắt hoặc thép. Nếu là sắt thì bạn bẻ gãy nó càng sớm càng tốt, còn nếu là thép, bạn bẻ nó, nó sẽ trở lại hình thù ban đầu”. Theo cách như vậy, Martha đã chịu đựng được những thử thách khắc người của người thầy và tiếp tục phát triển khả năng chơi đàn của mình. Và chỉ vài năm sau, khi mới 8 tuổi, Martha Argerich đã có buổi biểu diễn đầu tiên của mình trước khán giả Buenos Aires. Cô đã trình diễn piano concerto số 20 giọng Rê thứ, K. 466 của Wolfgang Amadeus Mozart và piano concerto số 1 giọng Đô trưởng, Op. 15 của Ludwig van Beethoven.

Tại châu Âu, các kỹ năng chơi đàn của Argerich đã tiến bộ một cách vững chắc. Năm 1957, ở tuổi 16, trong vòng 3 tuần lễ, cô đã giành thắng lợi tại 2 cuộc thi đầy uy tín: Geneva International Competition và Ferruccio Busoni International Competition, Bolzano, Italy.                     

LỜI BÌNH:

  HeitHor Villa-Lobos được xem là người nổi bật nhất trong số những nhà soạn nhạc cổ điển sinh ra tại Nam Mỹ.  Lên 9 tuổi, Heithor được bác gái Fifinha tặng quyển Well-Tempered Clavier (Bình quân luật) của Sebastian Bach.  Qua đọc sách, ông có cảm hứng sáng tác 9 bản Bachianas Brasileiras nổi tiếng,  tiêu biểu cho sự pha trộn giữa âm nhạc dân ca Brazil và các yếu tố phong cách của trường phái cổ điển châu Âu. Trong âm nhạc của HeitHor Villa-Lobos ta thấy phong cảnh, con người đất nước Brazil.  Âm nhạc của ông chịu ảnh hưởng từ hai nguồn : âm nhạc dân gian Brazil và âm nhạc của Johann Sebastian Bach cùng truyền thống âm nhạc cổ điển châu Âu. Martha Argerich đã có một niềm say mê đặc biệt đối với âm nhạc khi chỉ mới khoảng 2 tuổi rưỡi. Lên 12 tuổi, Martha Argerlich sang châu Âu tìm đến những thầy giáo danh tiếng hơn Friedrich Gulda – người mà Argerich coi là một trong những người có ảnh hưởng quan trọng nhất đối với cô. Argerich nói tiếng Tây Ban Nha còn Gulda nói tiếng Đức nên họ không thể trao đổi cùng một thứ ngôn ngữ mà họ trao đổi với nhau thông qua âm nhạc – đó là thứ ngôn ngữ mà Gulda đã hoa mỹ gọi là “chủ nghĩa Lãng mạn”. Gulda cũng thường xuyên ghi âm những bài giảng của mình với Argerich và cho cô nghe lại những bản thu đó để Argerich tự nhận xét về cách chơi đàn piano của chính mình. “Đó thật là thú vị vì rất dân chủ. Gulda tin rằng một nghệ sĩ cần có một chút tài năng, kiến thức và trong một chừng mực nào đó là sự ngạo mạn, tự cao trong việc khích động khán giả. Martha Argerich là  học sinh dường như toát ra tất cả các phẩm chất đó. Trong khi Horowitz  có “Sức mạnh trong sự diễn tả cảm xúc, âm thanh và sự mãnh liệt không thể tin được bộc phát từ nội tâm của ông thật kì lạ, huyền ảo và khủng khiếp” thì  “Argerich đã tạo ra những tiếng sấm trên phím đàn với một sinh lực và cảm xúc hệt như Vladimir Horowitz đã tạo ra 22 năm về trước tại Carnegie Hall”.Argerich trở thành nghệ sĩ đầu tiên của Tây bán cầu giành chiến thắng tại cuộc thi piano quốc tế mang tên Chopin lần thứ 7 tại Warsaw, Ba Lan năm 1965.  Cô cũng là phụ nữ duy nhất giành giải nhất tại cuộc thi này tính đến thời điểm hiện tại. Martha Argerich là một trong những nghệ sĩ tạo piano ra sự lôi cuốn và ấn tượng nhất trên thế giới đối với những người nghe, xem bà trình diễn.  Bà là một con người hoà nhã, lịch thiệp, bà luôn hợp tác với các dàn nhạc và nhóm hoà tấu trên tinh thần “đầu tiên là sự hoà hợp”  đúng như khẩu hiệu của nước Cộng hòa Argentina "Sống trong sự Đoàn kết và Tự do" (tiếng Tây Ban Nha): En Unión y Libertad).  Nhạc Argentina được nuôi dưỡng bởi những ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa. Cư dân của Argentina là hậu duệ của di dân người châu Âu,  vùng Caribbean và châu Phi đã ảnh hưởng tới  phong cách   tango Argentina . Thậm chí âm nhạc của người dân bản địa ảnh hưởng rất nhiều điệu múa và bài hát.Tango Argentina là sự kết nối về cảm xúc giữa 2 bạn nhảy là yếu tố quan trọng để có một bài nhảy Argentine Tango hay. Tango – không đơn thuần chỉ là một điệu nhảy, mà giống như một tâm trạng, một triết lý, một nghệ thuật sống.  Người Achnetina gửi gắm cả hồn mình vào nhịp bước của Tango như thể nó là người bạn tri kỷ vậy Năm 1976, Chính phủ Argentina đã ban hành một sắc lệnh, lấy ngày sinh của Carlos Gardel (11-11) làm “Quốc nhật Tango” và vào ngày ấy, cả nước hầu như tưng bừng sôi động bởi vì điệu Tango truyền thống diệu kỳ…. Tango – Achentina là điệu Tango được giữ nguyên bản, với phong cách chơi, trang phục và trang trí nội thất giống hệt như xưa. với mọi người dân Achentina thì Tango là bất tử vì đó là điệu nhảy của lòng người.  Ngày 30 tháng 9, 2009, Tango được Liên Hiệp Quốc tuyên bố là một phần của di sản thế giới và cho Argentina cùng với Uruguay sự chứng nhận là nơi phát xuất của điệu nhảy đẹp và cũng gợi tình này




VVM.05.12.2023-NVA.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .