Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



BÚT KÝ VỀ VỊ THẦY CỦA TÔI:

GIÁO SƯ THANH LÃNG,

NGƯỜI ĐÃ GẮN BÓ VỚI VĂN HỌC VN LÂU DÀI, NHƯNG
CUỐI ĐỜI LẠI BỊ ĐƯA VÔ HOÀN CẢNH KHÔNG THỂ CẦM BÚT.


T rung Tâm Huấn Huyện Quang Trung 1968, vườn Tao Ngộ, buổi trưa. Trời mưa tầm tả từ sáng sớm tới giờ. Người đi thăm nuôi và tân binh đều ướt loi ngoi. Tân binh còn tìm được chút ít chỗ trú ẩn dưới tàng những cây sầu đông ít lá đầy gai nơi thân, nơi gốc (??). người đi thăm nuôi thời đành chịu, bốn bề là đồng ruộng mênh mông, trơ trọi. Tôi mặc kệ cơn mưa, đứng cạnh rào kẽm gai, rảo mắt nhìn quanh mong ngóng người thân, luôn tiện quan sát hoạt cảnh. Tôi đang buồn nẫu ruột mà mưa lại lê thê như không bao giờ dứt. Mẹ tôi mới qua đời chừng một tháng, tôi vừa sạt nghiệp nợ nần vì tái ứng cử lại đơn vị nhưng bị rớt đài vì nhiều lý do trong đó có lý do chánh trị là chuyện bẩn thỉu đáng ghê tỡm. Từng sinh hoạt chánh trị trên bình diện quốc gia, giờ đứng bên hàng rào kẽm gai trong vai trò Tân Binh Dự Bị Sĩ Quan, nghe từng hạt mưa nhỏ rớt nhẹ trên đầu, len lỏi lên cổ, trong một vòng rào của trường huấn huyện tân binh quân dịch, với bộ đồ binh nhì dơ dáy mặc cả tuần nay, tôi thấy lòng trống trãi một cách kỳ lạ về sự thay đổi của cuộc đời. Một người cô tôi kêu tên tôi từ xa. Trước mặt bà có nhiều thân nhân của tân binh với những cồng kềnh của giỏ thức ăn khiến bà khó thể tới gần. Tôi nhìn bà mà tội nghiệp. Những giọt mưa làm bà khổ sở hơn so với tuổi đời. Cô tôi, cuối cùng cũng đến được hàng rào khi tôi men tới một chỗ ít người, trao cho tôi một bức thơ viết tay của Linh Mục Thanh Lãng, người thầy đỡ đầu của tôi ở ban Cao Học bốn năm nay. Bức thơ bị nước, ướt, khi mở ra thì bị rách nhiều chỗ theo lằn xếp. Đại ý cha Lãng hỏi sao hơn hai năm rồi tôi bỏ ngang công việc hoàn tất luận văn Cao Học, không liên lạc, cũng không cho địa chỉ, giờ thấy địa chỉ của tôi nhân lời phân ưu mẹ tôi mất, nên mới liên lạc lại. “Toa có thể về trường mình làm phụ khảo cho ban Việt văn vì không ai xong hay gần xong luận văn như toa. Nếu muốn thì xúc tiến việc giấy tờ… Trong khi đó toa cố gắng viết cho xong, càng sớm càng tốt.” Tôi mừng rỡ, lật mặt sau bức thơ ra viết vài dòng cám ơn và nói mình sẽ lo việc giấy tờ khi có thể…

Cuộc đời tôi thay đổi và dính luôn với văn chương Việt Nam kể từ bức thơ đó của cha Thanh Lãng. Chuyện đã hơn 30 năm qua, Giờ nhìn di ảnh thầy trên tường, cạnh ảnh cha mẹ tôi, tôi vẫn nhớ cảnh tượng hôm ấy, nhớ luôn nụ cười của thầy khi tôi mặc đồ tân binh thùng thình, với đôi giày trận nặng nề đến Trụ Sở Địa Phận Thanh Hóa trong một con đường nhỏ trên đường Trương Minh Giảng thăm thầy sau đó. “Toa đi đâu mà đi luôn mấy năm không gặp, bây giờ trở về đây trong bộ đồ này!” Thầy trò cùng cười. Tuổi trẻ ngày nay có nhiều cách để làm cho đất nước nầy khá hơn. Quan trọng là nhìn đúng đường, và đi bằng tất cả tấm lòng chân thật của mình. Cha bóng gió: “Có nhiều đường mà cũng có nhiều bảng cấm không cho vào đó khiến người ra cực chẳng đã phải rẽ sang đường mình không thích. Tạm thời toa về giúp ban Việt của moa vậy. Mọi chuyện khác tính sau.”

Tôi thật sự bước vào và để hết tâm trí trong việc tìm hiểu cũng như sống với văn chương Việt kể từ đó. Công việc, sở thích và những thách đố. Bao năm trời làm việc với cha, tôi thấy cha tranh đấu không mệt mỏi, từ những định chế mới của Đại Học đến những điều tự do của dân chúng và báo chí. Cha tranh đấu với tấm lòng hồn nhiên vì mục tiêu cần đạt chớ không phải vì thù hằn người bị cha chỉ trích, càng không phải vì những danh tiếng nhứt thời. Có thể những hoạt động của cha gián tiếp góp phần cho một vài xáo trộn bất lợi cho VNCH, nhưng ít nhứt cha đã nói lên tiếng nói lương tâm con người trong hoàn cảnh mà con buôn chánh trị đầy rẫy khắp nơi.

Cha viết bài về văn học, chánh trị, cha lo chuyện Văn Bút, cha diễn thuyết, cha nâng đỡ những bước tiến của các anh em trẻ khi mới vào trường. Cha hồn nhiên và vui tính. Cha dùng những ngôn từ bình nhựt, không kiêu sa, không làm dáng trú ẩn trong những câu nói cao kỳ, xa cách cuộc đời với những con người thật lăn lộn kiếm sống từng bữa.... Cha thơm phức dầu thơm và không có áo chùng dài, cha hối thúc tôi hoàn tất luận văn như lời tôi đã hứa, cha với tủ sách gần như đầy đủ nhứt về văn học Việt Nam mà chúng tôi có thể mượn được không khó khăn lắm.

Và rồi tháng 4 năm đó…Những người mới đến chỉ chịu gọi cha bằng anh. Tiếng thầy không được sử dụng, tiếng cha cũng vắng mặt, tiếng giáo sư cũng không được dùng. Người mới có những cấm kỵ phải theo, mang một lập trường rõ ràng khi sử dụng nhân danh đại danh từ, như anh, như thằng, như bọn... Đó là chưa kể khi những đại danh từ nầy được thêm các tĩnh từ, trạng từ chết người kèm thao... Nhưng chúng tôi, những người cũ, “lưu dung” - khi thì lưu dụng - thì vẫn cứ cha, thầy tùy theo vị trí và ý thích cùng sự quen miệng của từng người.

Rồi cha được cám ơn để về vườn, từ giả ngôi trường vì lý do không thể để tôn giáo trong Đại Học, các Linh Mục và Thượng Tọa từng dạy ở đây phải ra đi. Tôi thiệt tình không hiểu chữ tôn giáo được hiểu theo nghĩa nào. Con người tôn giáo của cha, vâng, nhưng có bao giờ cha đả động đến tôn giáo ở trường đâu. Cha đến với ngôi trường như một người văn chương, một chuyên viên về văn học. Cha văn chương văn học hơn chán vạn người khác không phải là linh mục như cha. Không ai học với cha mà bị ảnh hưởng về tôn giáo của cha cả. Cha có giảng dạy tôn giáo đâu! Nhưng mà thôi, lý do chỉ là cái cớ để đưa ra cho có, cái cớ không bao giờ thật. Cái cớ đưa ra cho có của kẻ mạnh. Ai  dám phản đối lúc đó khi guồng máy sẵn sàng  san bằng!

Người đã dùng hết vốn liếng của tuổi đời đầu tư về giáo dục về văn học như cha mà không được dạy, không được viết hẵn bức xúc lắm. Cha chuyển ngành sang địa hạt ngôn ngữ chỉ là có thể được đọc, có thể còn viết, cho hết thì giờ, cho cảm thấy rằng đời mình cũng không đến nỗi bỏ đi. Cha trao đổi thêm vốn liếng chữ Nôm, cộng tác với Ủy Ban Khoa Học Xã Hội Thành Phố để thực hiện những công trình phiên âm các tác phẩm nôm về đạo Thiên Chúa của giáo sĩ Majorica (17). Quyển tự điển Annam-Lusitan-Latinh (Việt Bồ La) cùng dịch chung với các ông Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính (18) là công trình giới thiệu một cách hữu hiệu nhứt quyển tự điển có giá trị lịch sử của cố đạo A. De Rhodes. Cho đến ngày nay quyển này vẫn là sách gối đầu giường cho những ai muốn biết về ngôn ngữ Việt thế kỷ 17, với sự dịch phần tiếng La tinh ra tiếng Việt, quyển nầy càng có lợi ích thiết thực hơn. Công trình viết lách của Cha Lãng quá nhiều. Thư mục đồ sộ của cha để lại cần phải có thì giờ đọc đi đọc lại nhiều lần và phân tích tỉ mỉ mới thấy hết giá trị công trình. Tôi không có ý định đó khi viết bài nầy. Tôi chỉ muốn ghi lại vài nét đại cương về người thầy của mình, một người thầy đã thay đổi cách suy nghĩ và số phận của tôi. Con đường viết lách của tôi hôm nay cũng là thể hiện phần nào sự bắt chước con đường của thầy mình. Tôi cám ơn Trời Phật đã cho mình viết được, đăng được. Và tôi ứa nước mắt khi đọc lời nói của thầy nghe như xót xa cho thân phận của một người bị bẻ bút: “Tôi khi ở Pháp chuyên nghiên cứu văn học Việt Nam; về nước tôi dồn tất cả công sức vào công việc viết lách và đào tạo sinh viên Văn Khoa. Nhưng 14 năm qua tôi không có điều kiện làm văn học. Nay quý anh gọi tôi ra làm văn học, chẳng khác nào đã chôn dưới đất lại được moi lên, các anh cần dùng về công việc gì tôi xin tận lực”(19).

Mõi mòn chờ đợi, chìm ngập trong nỗi buồn thất vọng (20) cha mất mấy tháng sau ngày tuyên bố câu nói lịch sử đầy nước mắt trên kia. Sau đó công trình của cha được ‘người ta’ in lại ở bên nhà cũng như ở bên nầy để trục lợi trên công trình của người đã thất vọng vì hoàn cảnh cho đến không còn thiết sống.

Than ôi! ./.

Texas, Tết Kỷ Mão, in lại bài đã đăng trong tạp chí Dòng Việt, CA năm Kỷ Mão.
  Chú thích:

  (1). Đó là nói về học sinh theo chương trình Việt từ nhỏ, học sinh theo chương trình Pháp từ nhỏ thì thi Tú Tài Việt ban C lại dễ đậu hơn vì có lợi thế sinh ngữ. Vào những năm cuối cùng của thế hệ chương trình Pháp. Đai Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa. Các ban Triết, Pháp văn, Anh văn có nguồn gốc sinh viên từ chương trình Pháp nhiều hơn từ chương trình Việt.
(2). Xin mượn bài này để nói một chút ít riêng tư: Tôi lúc còn nhỏ, ở Trung Học, hay học chạy trường, đổi từ trường nầy sang trường kia nhiều lần trong năm vì thích hay không thích một thầy nào đó, nên may mắn được nghe lời giảng của nhiều vị giáo sư vốn là những nhà văn, nhà thơ tên tuổi như Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân, Bùi Xuân Uyên, Lữ Hồ, Nguyễn Sỹ Tế, Nguyễn Duy Diễn, Vũ Ký… xin có lời cám ơn các thầy, người còn cũng như người đã khuất.
(3). Nhà Xuất bản Sông Nhị 1951, Hoàng Xuân Hãn chọn, phiên âm và giới thiệu, Nghiêm Toản chú thích từ ngữ. Quyển nầy rất có giá trị về mặt tài liệu khả tín, công bố lần đầu tiên và chú thích chính xác. Đã nửa thế kỷ trôi qua, về mặt nầy, chưa có quyển nào vượt hơn. Bộ Thơ Văn rất đồ sộ về đời Lý Trần do Nguyễn Huệ Chi chủ biên, nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1988 có giá trị về phần tác phẩm chữ Hán, nhưng phần tác phẩm Nôm, chưa có những khám phá hay công trình gì độc đáo khả dĩ vượt qua mặt quyển Thơ Văn Việt Nam từ đời Trần đến cuối đời Mạc của thầy Nghiêm Toản.
(4). Tác phẩm Nôm ít người biết đến, tương truyền là của Nguyễn Chu Kiều, em ruột Nguyễn Du. Cụ phó bản Võ Hoành phiên âm, Giáo sư Nghiêm Toản hiệu đính và chú thích, đăng lần đầu trong nguyệt san Luận Đàm 1961- 1962, mới in lại ở Pháp năm vừa rồi do sự xúc tiến của Giáo sư Võ Thu Tịnh, thứ nam của cụ Võ Hoành.
(5). Tam quốc: Mới dịch và in được một phần thôi. Phụ dịch với Giáo sư Langlet, Nghiêm Toản chú trọng nhiều về nhân danh và địa danh. Langlet chú trọng đến mặt sử liệu và sự kiện. Đạo Đức Kinh: chú trọng nhiều đến sự chấm câu. Nghiêm Toản nhiều chỗ cho thấy 2, 3 cách ngắt câu trong văn bản. Từ đây có nhiều cách hiểu khác nhau về tác phẩm lừng danh của Lão Tử. Cả hai quyển này hiện có trong thư viện Đại Học Washington State ở Seattle.
(6). Luận Đàm Bộ II, số 9, tháng 9 -1962, trang 80 tức 1156.
(7) Giáo Sư Nghiêm Toản muốn nhắc đến Nguyễn Du.
(8 Luận Đàm Bộ II số 9, tháng 9 -1962, trang 81 tức 1157.
(9. Cũng bằng cách vậy GS Nghiêm Toản chú giải Đạo Đức Kinh. Ông cho thấy có nhiều cách hiểu, nhưng ông không bao giờ cho biết cách hiểu nào là đúng nhứt hay cách hiểu mà ông lựa chọn.
(10). Tức Giáo Sư Võ Thu Tịnh, hiện đang cư ngụ tại Paris, người thường viết bài/sách giới thiệu văn hóa Việt Nam với người đọc tiếng Pháp.
(11). Luận Đàm Bộ II, số 9, tháng 9 – 1962, trang 81 tức 1157.
(12). In lần đầu tiên năm 1949, nhà Xuất bản Vĩnh Bảo, Saigon. Sống Mới in lại tại Hoa Kỳ, độ mười năm trước đây. Cho tới ngày nay, bộ sách này vẫn còn có giá trị như một quyển tóm lược những kiến văn cơ bản cần phải có về văn học Việt Nam, cho người đọc một cái nhìn bao quát về sự tiến triển của con đường văn học nước nhà.
(13). Chương mục quyển Việt Nam Văn Học Sử Yếu của Dương Quảng Hàm lộn xộn, bề bộn không phải lỗi của người viết, mà là vì người viết phải viết theo đúng chương trình quốc văn thời đó, đề cập hết những gì do chương trình đưa ra và theo thứ tự của chương trình.
(14). Những trường hợp Kinh Thi của Trương Tửu, Văn Học Khái Luận của Đặng Thai Mai là trường hợp đầu tiên. Sau này mới có bộ Văn Học Việt Nam của nhóm Văn Tân, cuốn Cuộc Tiến hóa của Văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế có tựa đề Tiến hóa nhưng không cho thấy được sự tiến hóa và cũng thiếu giải thích động lực của sự tiến hóa.
(15). Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu, trang 151.
(16). Việt Nam Văn Học Sử Trích Yếu, trang 189.
(17). Nguyên bản các sách Nôm này hiện chứa tại Thư Viện Quốc Gia Pháp. Các bản phiên âm nghe rằng đã xong nhiều nhưng cho tới ngày nay vẫn chưa được công bố.
(18). Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Sàigòn, 1991. Bản in có giá trị ở chỗ đã cho in lại nguyên văn ấn bản lần đầu ở Roma năm 1651 và bản dịch phần tiếng Latinh của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính.
(19). Trích lời nói đầu của GS Hoàng Như Mai, viết cho “13 năm tranh luận Văn Học”, nhà xuất bản Sàigòn, 1995. Bản in ở Mỹ không ghi năm in và nhà xuất bản.
(20). Giáo Sư Nguyễn Văn Trung nói với tôi rằng cha Thanh Lãng buồn chán đến nỗi bỏ hết sách vở, kêu ve chai bán kí lô như là giấy vụn không có giá trị. Cha cũng không trả lời thư từ bạn bè và môn đệ trong và ngoài nước gởi đến.

 


VVM.30.10.2023 -

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .