Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      
Ấm Tử Sa ̀5 jpg

TẢN MẠN VỀ TRÀ (V)



         

CÁCH THỨC PHA TRÀ, THƯỞNG THỨC TRÀ

1. Cách thức pha trà

Chén trà pha đúng nghi thức sẽ không còn mang tính chất tầm thường do bàn tay của kẻ vô tình, nếu muốn tránh chữ phàm phu, và để cho kẻ vẫn bị gọi là “ngưu ẩm”. Pha đúng nghi thức sẽ thành một chén của “Dịch Thể Ngạnh Ngọc Bào” như đã nói ở trên.

Mời các bạn đọc trích đoạn này từ bài nghiên cứu Trà Đạo Việt Nam của Phan Lan Hoa:

[… Nhất nước, nhì trà, tam pha, tứ ấm
Đó là quy tắc pha trà của người Việt. Tuy gọi là pha trà, nhưng trà xếp hàng coi trọng sau nước. Đã thế các cụ ta còn triết lý:
Nước không chân thì không có thần
Thể không tinh thì khiếm khuyết.
Thần là thần khí, hồn phách; thể là thể chất, hình dạng. Tách trà rót ra sắc màu vàng chanh huyền ảo sóng sánh, ấy là mắt ta sắp sửa bị hình thái bắt mắt của thể dẫn dụ vào đam mê. Thần không nhìn trực diện được bằng mắt, mà phải cảm nhận ở nơi tâm hồn. Phải đợi khi trà thấm lưỡi, hơi ấm, hương thơm và vị ngọt đắng lan tỏa lên tận trí não, tác động vào chân khí, làm khai thông đan điền, sảng khoái khắp cả vùng thần lực của ta, khiến cho đầu óc ta cảm thấy thanh thoát và tỉnh táo vô cùng, ấy là khi ta ngộ ra cái triết lý về chân thủy của cổ nhân Việt Nam thật hoàn hảo làm sao!
Trong nghệ thuật pha trà của người Việt, quan trọng hàng đầu là phải tìm cho được nguồn nước có chân thủy, tức loại nước có nguồn gốc tự nhiên sinh ra trong trời đất. Trong thuyết ngũ hành của người Việt: Kim – Thủy – Khí – Hỏa – Thổ, thì Thủy được cho là nguồn gốc tạo nên sự sống. Thủy sinh khí, nên thủy tinh khôi thì khí trong lành. Vạn vật sống trong môi trường trong lành thì mạnh khỏe, không bệnh tật. Nước trà uống vào có giá trị khai thông chân khí, khai thông thần lực của con người, giúp con người thêm tỉnh táo minh mẫn. Cho nên đã “nhất nước”, mà lại phải là loại có “chân thủy” tự nhiên, khả năng dẫn thần mới đỉnh cao nhất.
Chân thủy trong quan niệm dân gian Việt Nam có hai nguồn gốc là chân Thiên và chân Địa. Thiên thủy là nước trời mưa, nước sương đêm – là những “hạt ngọc” của Trời ban tặng Trần gian để nuôi dưỡng vạn vật; Địa thủy là nước giếng khơi, nước sông, nước suối – là thứ nước sản sinh ra từ trong lòng đất mẹ, cũng để nuôi dưỡng vạn vật. Kinh nghiệm lấy nước cũng được cổ nhân truyền dạy rằng:

“Khê thủy thượng,
Giang thủy trung,
Tỉnh thủy hạ”

Nghĩa là nước suối phải lấy ở đầu nguồn, nước sông phải lấy giữa dòng, còn nước giếng thì khi thả gàu xuống, phải khỏa gàu cho lớp trên bề mặt nước giếng dạt qua hai bên, vục gàu sâu xuống mà múc lấy lớp nước ở dưới mới tinh khiết.
Cách tìm chân thủy để pha trà ở đất kinh đô Huế lại không giống với Nghệ An. Sử sách còn lưu truyền câu chuyện thưởng trà của vua Tự Đức “…Sáng sáng các cung nữ thường chèo thuyền nhỏ đi gom hứng những giọt sương vương đọng trên lá sen về pha tra cho vua ngự…”. Trong nội đô Huế có hồ sen Tịnh Tâm, bông lớn, sắc sen tươi hồng, hương sen thơm đặc biệt, hạt sen ở hồ này cho đến nay vẫn là đặc sản lưu truyền của xứ Huế. Nước sương được đem về gom vào một cái vại sành, cất dành chỉ để dùng pha trà. Chân thủy của nước ấy có nguồn gốc từ trời cao muôn vàn tinh tú. Đậu xuống lá sen và trải qua một đêm gần gũi đất mẹ và vạn vật. Nước ấy cũng hài hòa âm dương nên cũng là loại nước có thần lực vậy. Tìm được nước rồi lại còn phải biết cách để giữ được cái thần của nước cũng là điều đáng bàn. Trên vại sành đựng nước sương thường được đậy một cái sàng đan bằng tre, trên sàng đậy thêm dăm ba lớp lá sen hoặc lá chuối lên trên, làm như vậy thoáng khí mà không bay hơi. Dăm bữa nửa tháng, trong vại sành có chút rêu xanh mọc lên, nước trở nên trong vắt như gương soi. Người sành trà cho rằng nước ấy mà dụng để pha trà, nhấp vào đến đầu lưỡi là biết sự thanh khiết của trà đến đâu] (Trà Đạo Việt Nam – Phan Lan Hoa)

Yếu tố cần thiết để có thể pha trà ngon còn là yếu tố nước; không phải lấy nước ở đâu cũng được và bất cứ ngày giờ nào cũng được.
Thứ nước làm cho trà tăng hương vị, hoặc giữ trọn hương vị gọi là nước suối núi vì suối là bạn của trà (tuyền dĩ trà vi hữu), thứ hai là nước giếng núi, là hai thứ nước của thiên nhiên, vị nước ngọt, thanh. Thứ ba là nước sông, những dòng sông ngày chưa bị ô nhiễm.
Ngày xưa nước mưa, cũng như nước tuyết cũng được liệt vào hạng bạn của trà, nhưng ngày nay, ở thời đại ô nhiễm nầy thì mây trên trời cũng không còn mang lại những giọt nước trong lành nữa. Cũng thời xưa, các ông vua cầu kỳ, sai hứng lấy sương đọng từ lá sen để pha trà. Ngày nay người ta uống nước máy nhưng với các chất sát trùng hóa học, hoặc chất vôi trong nước làm cho trà trở thành tím và mất rất nhiều hương vị.
Ngày nay với thời đại văn minh nầy, người nghiện trà, hoặc là mua nước suối, hoặc dùng nước máy nhưng phải đun lên một lần, mang lọc qua những cái lọc giấy mà người ta vẫn dùng để lọc cà phê, có thể đặt thêm một miếng bông gòn để cho các chất vôi, cáu và thuốc khử trùng hóa học đi bớt. Thứ nước nấu và lọc nầy xong, còn phải để ra vài ba ngày mới mang đun trà, có như thế trà mới không đổi sắc và hương vị. Cố nhiên là không bằng với nước suối núi được. Thời Lục Vũ người ta chia ra đến mấy chục thứ nước nhưng bây giờ thì con người đành phải bớt khó tính, bớt cầu kỳ.

Nước sôi có 3 độ, lúc ban đầu nước sủi lăn tăn như những hạt cườm nhỏ, hay mắt cá đang nổi lên, độ thứ hai trở thành hạt châu, to hơn, những hạt châu lăn lóc trên mâm bạc, độ thứ ba nước bắt đầu lên tiếng gào thét, những hạt châu trở nên điên cuồng đòi vùng ra khỏi nồi nước. Lúc nầy cần phải lấy xuống ngay, không nên để lâu nước sẽ làm cứng trà. Kỵ nhất là nước đun từ nửa tiếng hay một tiếng đồng hồ trước, mặc dầu đã bỏ vào bình thủy, nước vẫn không đủ sức làm chìm trà. Khi một ấm trà đã hỏng rồi thì chỉ có cách là bỏ ra làm ấm khác.

Những nguyên tắc căn bản

– Nước sôi đổ vào để tráng ấm cho nóng và sạch.
– Bỏ trà vào ấm, vừa với độ chứa của ấm, độc ẩm hay song ẩm hay quần ẩm. Người nghiện còn bỏ một lớp trà một lớp mạt trà, rồi lại một lớp trà trên nữa. Mạt trà là để gọi những vụn trà còn lại bên dưới, mỗi lần thay trà mới vào hộp, người ta cất riêng cái vụn không cho lẫn.
– Nước đang sôi chế vào trà rồi đổ ra ngay, gọi là rửa trà hay là để cho trà được thấm chất ẩm.
– Đặt ấm vào dầm chế nước sôi vào ấm (Xin nhắc lại – đã viết ở trên: Cái dầm hay đĩa dầm dùng để ngâm ấm trà cho nóng; còn gọi là trà tẩm hay trà thuyền), đậy nắp ấm và sẵn nước sôi, chế cả lên ấm cho gần ngập, làm như thế để trà được nóng từ trong ra ngoài tất cả trà phải toát ra hết chất tinh túy.
Trong lúc chờ trà ngấm, lối 5 phút thì phải lo sửa soạn quay chén vào nước sôi, cả chén tống cũng phải được tráng nước sôi. Sau 5 phút có thể pha trà ra chén tống để rồi chuyển vào những chén quân mà thưởng thức với tri kỷ.
Không kể lần nước đổ ra khi rửa trà, nước nầy gọi là Khất Cái, tức là nước đổ cho ăn mày uống, vì người ăn mày thời xưa cũng biết thưởng thức trà.
Nước thứ hai, mới chính là nước trà nhất, vừa thơm ngon đậm đà, đủ ba yếu tố, tam tài tức là thiên, địa, nhân, thiên là Hương trà, địa là Vị trà và Nhân là màu Sắc của trà. Nước trà nhất được gọi là Hoàng Đế trà, theo nguyên tắc Quân Sư Phụ; nước trà hai là Lão Bá trà, tức là cha mẹ ông bà, hay thầy giáo, người mình kính trọng; nước thứ ba gọi là Bình Dân trà.

pha-tra-bac-ngon

Đi đầu trong việc pha trà là chọn nước. Từ xưa người Trung Hoa đã bỏ nhiều công sức bàn về chuyện này, có người viết cả cuốn sách chỉ luận thứ nước nào pha trà ngon như cuốn Tiễn Trà Thủy Ký – “Ghi chép các loại nước pha trà ngâm” của Trương Văn Tân viết năm 814; trong đó nêu nhiều địa danh ở Trung Hoa nổi tiếng cho nước pha trà ngon. Lục Vũ thì cho rằng nước suối pha trà ngon nhưng phải tránh nơi gần thác vì nước vẫn đục, thứ đến là nước sông nhưng phải lấy giữa dòng. Nhưng đúc kết của trà nhân từ xưa để lại ba kinh nghiệm: thứ nhất Sơn thủy thượng (nước đầu nguồn hoặc sương tuyết tan trên vùng băng giá), thứ nhì Giang thủy trung (nước ở giữa lòng sông) và cuối cùng Tỉnh thủy hạ (nước ở giếng sâu). Theo giới chơi trà thời nay, nước pha trà phải khử độ cứng của nước và có một hàm lượng vi khoáng nhất định mới ngon, họ cho rằng nước cất hay nước mưa (nước tinh khiết) pha trà uống lạt phèo.

Độ nóng của nước cũng quyết định chất lượng chén trà, không đủ độ nóng thì không chiết hết tinh trà, quá nóng trà nhũn và bay mất hương vị. Giới quen dùng trà hiện nay thường bảo với nhau: trà xanh dùng nước khoảng 85 C, trà lài khoảng 90 C, còn hồng trà (tức trà đen theo lối gọi Phương Tây) phải sôi 100 C. Ngày xưa người ta lắng đọng tâm hồn vào chén trà ngay trước khi nó được pha, các cụ thưởng thức trà ngay từ tiếng reo của nước đang đun nên tinh tế phân biệt ba loại nước sôi: độ thứ nhất là nước sôi “giải nhãn” trông như mắt loài cua (mới chớm sôi); độ thứ nhì là “ngư nhãn” tức bọt nước lăn tăn trông giống như mắt đàn cá đang lội gần mặt nước (sôi vừa); cuối cùng là nước sôi to.

Tùy loại trà và kinh nghiệm uống mà hãm 15 đến 60 giây đồng hồ có khi 3 phút. Nước thứ nhất chỉ nên rót ra 2/3 ấm, chùa lại 1/3 ầm làm nước cốt cho lần thứ hai. Lần thứ hai cũng vậy, chừa 1/3 cho nước ba. Nước ba là nước cuối cùng.

Trước khi pha trà, ấm chén phải sạch sẽ và trụng nước sôi (nên nhớ một điều không bao giờ rửa ấm trà bằng xà-phòng, đó là việc tối kỵ), rồi cho trà vào bình, lượng trà nhiều ít tuỳ số người uống. Múc trà cho vào ấm pha phải dùng một thứ dụng cụ gọi là cóng xúc trà hay muỗng xúc trà bằng gỗ để lường, chứ không bốc tay. Xưa kia các cụ nho gia gọi động tác này rất văn chương: “Ngọc diệp hồi cung” (lá ngọc quay về cung).

Sau đó rót nước vào ấm trà từ một độ cao, để cho trà khuấy lên và làm tan bụi bậm gọi là “cao sơn trường thủy”(núi cao sông dài). Nước châm lần thứ nhất hơi ngập mặt trà rồi chắt ra để tráng (rửa).Tiếp theo hạ thấp bình nước nóng , châm nước vào ấm trà đợt hai. Nước lần thứ hai đổ gần đầy có tên “hạ sơn nhập thủy” (xuống núi tắm sông). Bấy giờ chờ khoảng 1, 2 phút cho trà thấm ra, rồi rót ra chén tống và chia cho từng chén quân. Nước trà thứ hai nầy mới đúng tiêu chuẩn thơm tho tuyệt diệu của bình trà.

Khi chia trà phải theo quy tắc: Để các chén gần sát nhau, không rót đầy chén này rồi qua chén khác; mà phải rót nửa chén một vòng lượt đầu, sau đó rót ngược lại. Rót như thế hương vị và độ đậm nhạt các chén đều như nhau. Rót trà cũng đòi hỏi có khuôn phép và thể thức: Nếu rót xoay vòng các chén quân mà không nhấc tay lên gọi là cách rót “Quan Công tuần thành”; còn nếu rót một chén xong nhấc tay lên rồi rót chén khác gọi là cách “Hàn Tín điểm binh”.

Khi rót trà ra chén, không nên đưa bình lên cao quá, nước trà chảy ton ton làm nước văng tung toé, mau nguội và thiếu lịch sự. Lại nữa, khi rót trà đừng bao giờ rót đầy chén, chỉ rót 2/3 mà thôi. Những loại trà vàng, trà trắng, trà xanh nên hãn trong chén có nắp mới ngon. Còn dùng ấm là trà đen, trà phổ nhĩ và trà Ô Long.

2. Thưởng lãm trà

Thưởng lãm trà có nghĩa là thưởng thức trà; nó là một nghệ thuật. Ở Việt Nam chúng ta nên lưu ý có hai thú uống trà: thú của giới bình dân uống trà xanh chan chát và thú của giới trung lưu trí thức uống trà tàu (tức tiễn trà). Mỗi thú nên dùng một loại bình riêng: trà xanh nên dùng bình to loại lam xanh của Việt Nam, trà tàu nên dùng ấm sứ theo kiểu đời Minh-Thanh. Ngay cả dùng thứ trà bột (mạt trà) dùng đồ lam Huế của Việt Nam mới ngon; do vậy có một thời giới trà đạo Nhật Bản nhập gốm sứ lam Huế về phục vụ cho nghi thức uống trà của họ: Lam Huế lừng danh thế giới từ đó.
Loại trà tươi mà người Việt quen gọi là trà xanh được nấu từ nguyên nhánh trà tươi nấu lên hay từ nụ vối, lá vối nên uống bát sành mới thấy thú. Ngày xưa trên đầu môi người Việt luôn có chữ “bát chè xanh” tức là loại trà này, nó được bán ở đầu chợ đầu làng mà nay ít còn thấy. Loại trà này uống vào có vị chát nhưng sau đó trong cổ có hậu ngọt. Khi phong trào uống trà xanh có lợi cho sức khỏe khởi đầu vào thập niên cuối của thế kỷ 20, các chợ ở Việt Nam có bán trà tươi nguyên nhánh và nhiều người mua về tự nấu tại nhà.

Trà ngon phải hội đủ ba yếu tố: Hương, Vị, Sắc. Nếu để mất đi một là không thể đạt được, đây dành cho người biết thưởng thức. Lắm khi trà ngon lại pha không thành, mà trà thường lại pha ra ngon, đó cũng là nhờ tài pha của người biết trà. Hà tiện, bỏ ít trà, thì vị sẽ kém, bỏ quá nhiều thì vị và sắc cũng quá độ.

– Mời các bạn đọc trích đoạn này từ sách The Importance of Living của Lin Yutang (Lâm Ngữ Đường):

[ … Uống trà đừng nên có nhiều bạn. Vì khách nhiều quá thì ồn, mà ồn thì mất nhã thú. Độc ẩm thì gọi là “u” (vắng vẻ); hai người uống thì gọi là “thắng” (thích); ba bốn người thì gọi là “thú” (hứng thú); năm sáu người thì gọi là “phiếm” (phàm tục); bảy tám người thì gọi là “thi” (thi ân bác ái).
Tác giả cuốn Trà Sớ viết: “Dùng ấm chén lớn, rót mấy tuần trà, uống một hơi một, hoặc ngưng một lát rồi hâm lại cho nóng, hoặc pha trà đậm đắng, thì có khác gì nông phu và thợ thuyền uống cho no bụng sau khi làm việc mệt nhọc; như vậy sao gọi là thưởng trà được?”
Vì lẽ đó, các văn nhân Trung Hoa khi bàn về phép pha trà, đều nhấn mạnh vào điểm phải đích thân pha lấy hoặc tập cho hai tiểu đồng pha trà đúng cách và tinh khiết. “Người ta thường dùng một cái hoả lò nhỏ đặt ở xa bếp mà gần chỗ uống trà. Trà đồng (tiểu đồng pha trà) phải được huấn luyện, pha trà trước mặt chủ phải tinh khiết, phải rửa chén vào mỗi buổi sáng (đừng bao giờ dùng khăn bẩn để chùi), tay phải thường rửa, nhất là móng tay.
Khi có ba người uống thì một hoả lò và một ấm nước cũng đủ, nhưng khi có năm sáu người thì phải dùng hai hoả lò và hai ấm nước, mỗi trà đồng trông nom một cái lò, để cho khỏi chậm trễ”. Tuy nhiên, người sành uống trà cho sự đích thân pha lấy là một cái thú riêng. Cách pha trà ở Trung Hoa không biến thành một quy tắc nghiêm túc như ở Nhật Bản, nhưng vẫn là một việc hứng thú, quan trọng và cao thượng. Cái vui pha trà cũng bằng cái vui uống trà.
Muốn hưởng cái thú uống trà cần theo những quy tắc sau đây:
      1. Hương trà rất dễ bay, cho nên phải giữ gìn sạch sẽ, đặt nó xa những vật có mùi nồng như rượu, hương… và xa những người tiếp xúc thường những vật đó.
     2. Nên cất trà vào một chỗ khô ráo và mát; mùa ẩm thấp, lấy ra một số đủ dùng chứa trong một hộp nhỏ bằng thiếc, còn bao nhiêu chứa trong những bình lớn, khi nào cần thiếc lắm mới mở ra; nếu trà hơi ẩm, muốn mốc thì phải sấy trên lửa nhỏ, vừa sấy vừa quạt nhè nhẹ cho cánh trà khỏi biến sắc.
     3. Biết lựa nước nấu là đã hiểu được nửa nghệ thuật pha trà rồi; nước suối tốt nhất, rồi tới nước sông, sau cùng mới tới nước giếng.
     4. Khách không nên nhiều mà cần phải là người văn nhã, biết thưởng cái thú uống trà.
     5. Chính sắc của trà là màu vàng lạt mà trong; nếu nước trà mà đỏ đậm thì phải pha thêm chất gì cho bớt chát đi, chẳng hạn như chanh, bạc hà, sữa.
     6. Trà có một dư vị, uống được nửa phút, các chất hoá học trong trà tác động vào tân dịch rồi mới thấy dư vị đó được.
     7. Trà nên pha xong uống liền, đừng để trong ấm lâu quá, e mất vị.
     8. Pha trà nên dùng nước sôi đã già.
     9. Nên trừ tuyệt những hương liệu có thể làm hỗn tạp cái hương vị của trà, cùng lắm là có thể thêm một chút xíu hương quế hoặc hương lài, nếu muốn cho hợp với khẩu vị.
Dưới đây tôi trích dẫn những đoạn trong cuốn Trà Sớ bàn về nghệ thuật uống trà.

NHỮNG LÚC NÊN UỐNG TRÀ

Lúc tinh thần và tay chân nhàn nhã. Lúc ngâm thơ đã mệt rồi. Lúc ý tưởng lộn xộn.
     Lúc nghe ca hát. Lúc hết một khúc ca. Lúc gảy đàn cầm mà ngắm tranh.
     Ban đêm, trong một cuộc đàm đạo nghiêm trang.
     Lúc ngồi ở một cửa sổ sáng sủa và bàn ghế sạch sẽ.
     Lúc có bạn thân và người đẹp thanh nhã.
     Khi trời đẹp, gió hây hẩy. Khi trời hơi u ám, mưa nhỏ.
     Trong một chiếc thuyền sơn đẹp bên một chiếc cầu nhỏ.
     Trong một khu rừng tre rậm rạp.
     Mùa hè trời xanh, ngồi trong một nhà mát thưởng sen.
     Sau khi đã đốt hương trong một phòng sách nhỏ.
     Khi bữa tiệc đã tàn, khách đã về.
     Khi trẻ con đương học ở trường.
     Trong một ngôi chùa tịch mịch.
     Trước cảnh suối đá kỳ dị.

NHỮNG LÚC KHÔNG NÊN UỐNG

Khi làm việc.
      Khi coi tuồng.
      Khi mở thư ra coi.
      Khi mưa lớn hoặc đổ tuyết.
      Trong bữa tiệc đông người uống rượu.
      Những ngày bận việc.
      Khi bận coi nhiều giấy tờ, sách vở.

KHÔNG NÊN DÙNG

Nước dơ.
      Thìa bằng đồng.
      Ấm bằng đồng.
      Thùng gỗ (để xách nước).
      Củi để đun (vì có khói).
      Than xấu, xốp.
      Giẻ bẩn.
      Các thứ trái cây và hương liệu, vị thuốc.

KHÔNG NÊN GẦN

Những phòng ẩm thấp.
      Nhà bếp.
      Những đường phố huyên náo.
      Những trẻ con la hét.
      Những kẻ tính tình thô lỗ.
      Những người ở gây lộn nhau.
      Những phòng nóng quá…. ]
      (Một Quan Niệm Về Sống Đẹp của Lâm Ngữ Đường, Nguyễn Hiến Lê dịch)

– Nghệ thuật uống trà:
      Mời các bạn đọc trích đoạn này từ bài viết “Trà Và Thuật Uống Trà (Huỳnh Ái Tông):
[… Uống trà không những bằng miệng, bằng mủi, bằng mắt, bằng tai, bằng lưởi mà còn uống bằng cả tâm hồn nữa. Tay trái nâng chén trà, ngón giữa đỡ lấy đáy chén, ngón trỏ và ngón cái giữ lấy miệng chén gọi là “tam long giá ngọc”, đưa cao chén trà ngang mũi, là “du sơn lâm thuỷ”, tay phải che ngoài tay trái để giử làn hơi bay vào mũi, khỏi phải hít hà thô lậu, vừa che được miệng khi uống. Thật là tận hưởng hương vị của chén trà.
Ngụm nước đầu tiên chậm rãi nuốt khẽ cho hương trà thoát ra đằng mũi và đồng thời còn đọng lại hơi chan chát ở lưỡi, ngòn ngọt ở cổ họng rồi thấm thía tận tâm can. Nuốt nước bọt tiếp lần một, lần hai, rồi lần ba sẽ cảm nhận được hương vị của trà ngon.
Ngồi uống trà một mình thì gọi là “độc ẩm”, hai người thì gọi là “đối ẩm”, ba người trở lên thì gọi là “quần ẩm”. Thông thường uống trà ngồi với nhau là những người đồng tâm, hợp ý cho nên quần ẩm nhiều nhất là ba người.
Sao người ta không pha một bình trà lớn, không uống bằng chén lớn, mà lại dùng bình nhỏ, chén nhỏ ? Nếu uống Trà với chén lớn gọi là “ngưu ẩm”, tức là uống như trâu ống nước, nghĩa là uống lấy no, uống cho đã khát, chớ không phải uống để thưởng thức trà. Thưởng thức trà, người ta chỉ uống một hớp nhỏ, vừa đủ nóng trong miệng (còn nếu hớp một hớp to trong cái chén ăn cơm sẽ bị phỏng miệng ngay vì nước trà nóng), nuốt từ từ vào, người ta cảm nhận nước từ từ thấm vào và chậm chậm một lát sau sẽ có hương vị của trà trong cổ họng của người uống, nếu vừa mới hớp một hớp trà, trà chưa kịp thấm giọng lại hớp tiếp một hớp khác, cứ như vậy, người uống sẽ không cảm nhận được hương vị của trà. Và nếu pha một bình trà lớn, trong khi uống một hớp nhỏ chờ thưởng thức hương vị trà của hớp ấy, uống và thưởng thức được hương vị chén trà thứ hai thì bình trà sẽ nguội đi, uống không còn ngon nữa, chính vì vậy người ta phải dùng bình nhỏ, bình độc ẩm, đối ẩm, quần ẩm, cái chính của nó là hớp trà nào cũng đủ nóng tỏa hương vị thơm ngon của nó…]

– Cách uống trà của tiền nhân:

Xin mời đọc trích đoạn bài Chén Trà Trong Sương Sớm của Nguyễn Tuân trong Vang Bóng Một Thời để thấy rõ các cụ xưa uống Trà:

[ … Gió bấc thổi qua những kẽ cánh cửa bức bàn đã gửi vào nơi yên lặng này mười lăm tiếng gà không nhẫn nhục được với tối tăm. Từ ngoài phía ngõ râm bụt lượn sát nhà gạch, dội vào những tiếng bước chân người n ằng nặng nhè nhẹ. Cuộc đời hồi tỉnh lại dần dần.
Cụ Ấm phẩy quạt nan phành phạch theo một nhịp nhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tàu lép bép nổ, nghe rất vui tai. Và làm vui cho cả mắt nữa, những tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn vẽ lên một khoảng không những nét lửa ngang dọc, ngoằn ngoèo. Những lúc có cháu nhỏ ngồi với mình, cụ Ấm thường hỏi xem chúng xem pháo hoa cải như thế có thích không.
Những hòn than tàu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn quanh. Không khí mỗi lúc giao động càng nâng cao thêm những lưỡi ngọn lửa xanh nhấp nhô. Hòn lửa rất ngon lành, trở nên một khối đỏ tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chảy.
Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu diệt buộc ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn. Thế rồi hòn than sống hết một đời khoáng chất. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm ấp trong một cái vỏ tro tàn dầy và trắng xốp. Cụ Ấm vuốt lại hai mái tóc trắng, cầm thanh đóm dài đảo lộn tàn than trong hỏa lò, thăm hỏi cái hấp hối của lũ vô tri vô giác. Cụ Ấm bỏ thêm một vài hòn than hoa nữa vào hỏa lò. Than hoa không nổ lép bép như than tàu; nhưng từ ruột ấm đồng nung nấu đã lâu, có tiếng thở dài của khối nước sắp biến thể. Nước đã lên tiếng để nhắc người ta nghĩ đến nó.
Cụ Ấm cũng thở đánh phù một cái, như khi người ta được gặp lại bạn cố nhân sau nhiều giây phút mong chờ.
Cụ khẽ nâng vuông vải tây điều phủ trên khay trà gỗ khắc có chân quỳ. Nhẹ nhàng, khoan thai, cụ Ấm nhắc cả đĩa dầm chén tống chén quân ra khỏi lòng khay. Ðến lúc dờ tới cái ấm con chuyên trà thì cụ kểnh càng hơn. Cụ ngắm nghía mãi chiếc ấm màu đỏ da chu, bóng không một chút gợn. Dáng ấm làm theo hình quả sung và khi luyện đất cho vào lò lửa, nguời thợ Tầu lấy dáng cho ấm kia đã là một người thợ có hoa tay. Cụ Ấm thử mãi da lòng tay mình vào mình cái ấm độc ẩm, hình như cố tìm tòi một chút gợn trên đất nung để được sung sướng thêm hơn nữa sau khi nhận thấy cái ấm độc ẩm kia là nhẵn nhụi quá.
Nước sôi già lắm rồi. Nhưng thói quen vẫn bắt cụ Ấm rót thử một chút nước xuống đất xem có thực là sôi không. Mở đầu cho công việc vụn vặt trong mỗi ngày tàn còn lại, ông già sợ nhất cái ấm trà tàu pha hỏng lúc sớm mai. Từ trên bề cao cỗ sập, dòng nước sôi trút mạnh xuống nền đất trị, tiếng kêu lộp bộp.
Trên chiếc hỏa lò để không, cụ đã đặt thêm một ấm đồng cò bay khác. Những người uống trà dùng cách thức như cụ Ấm bao giờ cũng có ít ra là hai ấm đồng đun nước. Ấm nước sôi nhắc ra khỏi lò than là đã có chiếc ấm thứ hai đặt lên đấy rồi. Và hai ấm đồng đó cứ được mãi mãi thay phiên nhau đặt lên lò than đỏ rực. Bữa nước trà cứ kéo dài không hết hồi, người ta luôn tay có một thứ nước sôi đủ độ nóng để pha một ấm trà ngon.
Nhưng có mấy khi cụ Ấm uống trà tàu nhiều đến thế. Riêng về phần cụ, chỉ hai chén con là đủ rồi. Nhưng hai chén đó đã được cụ săn sóc đến nhiều quá.
Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy nhiều công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi. Trong ấm trà pha ngon, người ta nhận thấy có một mùi thơ và một vị triết lý.
Cụ Ấm sau mỗi lần nhỡ gặp phải ông khách tạp, uống trà rất tục, cụ thường nói với vài bạn nhà nho:
– Có lẽ tôi phải mua ít chén có đĩa ở hiệuTây, để mỗi khi có mấy th ầy làm việc bên Bảo Hộ tới thì đem ra mà chế nước pha sẵn trong bình tích. Các cụ cứ suy cái lẽ một bộ đồ trà chỉ có đến bốn chén quân thì các cụ đủ biết cái thú uống trà tàu không có thể ồn ào được. Lối giao du của cổ nhân đạm bạc chứ không huyên náo như bây giờ. Chỉ có người tao nhã, cùng một thanh khí, mới có thể cùng nhau ngồi bên một ấm trà. Những lúc ấy, chủ nhân phải tự tay mình chế nước, nhất nhất cái gì cũng làm lấy cả, không dám nhờ đến người khác, sợ làm thế thì mất hết cả thành kính. Tôi còn nhớ hồi nhỏ, còn là học trò quan Ðốc, tôi đã được cái vinh dự sớm dậy, sớm nào cũng như sớm nào, đứng hầu trà cụ Ðố, trước khi cụ giảng bài và chấm cho anh em tập quyển. Nhiều người đã ghen tị với tôi và kêu ca với cụ Ðốc xin để cắt lượt học trò hầu trà, cho anh em ai nấy đều được chút vinh dự gần gũi thày và sớm chiều được gần cái đạo của thầy. Quan Ðốc mỉm cười: “Thầy giã ơn các anh. Thầy nói thì các anh đừng giận: các anh không pha trà cho hợp ý thầy được đâu. Ðể thời giờ ấy mà học. Anh Ðam – (trước kia tôi là Ðởm, sau sợ phạm húy nên cụ Ðốc mới đổi tên đi cho) – anh Ðam pha trà khéo thì thầy để cho giữ việc hầu thầy, chứ có phải thầy yêu anh Ðam hơn hay là ghét các anh đâu”. Bây giờ mỗi buổi trà sớm, ngồi uống một mình, tôi cứ nhớ cái tiếng ngâm của quan Ðốc. Sớm nào vậy, cụ cũng ngâm một vài bài thơ. Giọng thật ấm, thật trong. Cụ hay ngâm mấy câu này:

Bán dạ tam bôi tửu
Bình minh sổ trản trà
Mỗi nhật cứ như thử
Lương y bất đáo gia
Một buổi sớm, thấy rõ lòng thầy là vui vẻ, tôi đã mạn phép đọc để cụ Ðốc chữa cho bài diễn nôm:

Mai sớm một tuần trà
Canh khuya dăm chén rượu
Mỗi ngày mỗi được thế
Thầy thuốc xa nhà ta
Cụ Ðốc tạm cho là được.

Sớm nay, cụ Ấm cũng ngâm thơ. Cụ tin rằng ngâm thơ lúc yên lặng, lúc mới tỉnh giấc là một cách vận động thần khí kỳ diệu nhất của một người sống bằng cuộc đời tâm tưởng bên trong. Mỗi buổi sớm ngâm như thế là đủ tiết hết ra ngoài những cái nặng nề trong thân thể và để đón lấy khí lành đầu tiên của trời đất. Âu cũng là một quan niệm về vệ sinh của thời cũ. Và người xưa uống trà là để giữ mình cho lành mạnh… ] – [Chén Trà Trong Sương Sớm – Nguyễn Tuân]

3 – Lợi ích của uống trà

Lợi ích của việc uống trà được viết rất nhiều trong các sách cổ của Trung Quốc. Riêng về lợi ích sức khoẻ, có sách viết như sau: “Uống trà đúng cách giúp giải khát cũng như tiêu hoá, tiêu đàm, tránh sự buồn ngủ, kích thích sự hoạt động của thận, tăng cường thị lực, minh mẫn trong tinh thần, xua tan sự uể oải và làm tiêu mỡ.”
Trong những năm gần đây, những đặc tính y học thần kỳ của trà đã được các nhà khoa học chấp nhận một cách nghiêm túc. Nhiều nghiên cứu cho thấy, uống bốn cốc Trà xanh mỗi ngày có thể làm giảm sự nguy hiểm cho hoạt động bao tử, ung thư phổi cũng như bệnh tim.


tradaonhatban


SƠ LƯỢC VỀ TRÀ ĐẠO NHẬT BẢN

Phần Trà Đạo này tác giả xin nói rõ: Đây là những trích đoạn tác giả tìm hiểu, tham khảo rồi sắp xếp lại cho mạch lạc từ các nguồn: Trà Đạo – Bảo Sơn dịch từ The Book of Tea của Okakura Kakuzo, Nghệ thuật yêu trà trong Niệm Thư 1 của Minh Đức Hoài Trinh và Trà Luận của Đức Chính…
Trước khi vào mục, xin ghi ra đây 2 bài thơ nói lên sự liên quan mật thiết giữa Trà và Thiền:

. Thiền Trà 1

      Thi kệ Thích Nhất Hạnh

Chén trà trong hai tay
      Chánh niệm nâng tròn đầy
      Thân và tâm an trú
      Bây giờ và ở đây

Khi uống chén nước trong
      Ta nhớ nguồn nhớ cội
      Khi nhấp miếng trà thơm
      Hỏi nước đến từ đâu?

Nước từ nguồn suối cao
      Nước từ lòng đất sâu
      Nước mầu nhiệm tuôn chảy
      Ơn nước luôn tràn đầy

Thiền Trà 2

Thơ Thích Quảng Thanh

Ta ngồi nhìn khói trầm
      Trầm xông ướp chân tâm
      Chân tâm đồng pháp giới
      Thực tại của ngàn năm

     

Ta ngồi nhìn khói trầm
      Lòng thanh thoát vô ngần
      Hương trà thơm nhất quán
      Vạn pháp không mê lầm

Ta nhìn ta biết ta
      Trầm trà tâm nhất quán
      Thưởng thức hương vị trà
      Ta và Phật không xa

Ta, Phật vốn không xa
      Phật có trong hương trà
      Trà thơm hương đạo hạnh
      Thiền trà ta với ta
      …………….
      (Link bản nhạc ở dưới)

I. Những Trích Đoạn Về Thiền Và Đạo

Trà Đạo Nhật liên quan đến Đạo của Lão giáo và Thiền của Phật giáo, tôi xin trích ra đây vài đoạn lý thú trong sách Trà Đạo (The book of Tea) của Okakura Kakuzo, Bảo Sơn dịch:

Về Thiền:

– Thiền là từ có gốc từ tiếng Phạn Dyana (thiền na) có nghĩa là trầm tư. Thiền đòi hỏi phải dồn hết vào trầm tư mới hầu đạt được cái Tâm Vô thượng của mình. Trầm tư (tức Định) là một trong sáu hướng đi đến cảnh giới Phật, và các thiền phái khẳng định Đức thích-ca Mâu-ni dành ý nghĩa đặc biệt của thiền cho những lần thuyết pháp sau cuối, truyền thừa giáo pháp này cho đại đệ tử Ma-ha Ca-diếp. Theo truyền thuyết thiền tông, Ca-diếp là tổ thứ nhất truyền lại mật pháp cho A-nan-đà, và các tổ nối nhau truyền thừa đến đời của Bồ-đề Đạt-ma, tổ thứ 28. Bồ-đề Đạt-ma đi sang Hoa Bắc vào nửa đầu thế kỷ thứ 6 và trở thành tổ thứ nhất của Thiền Trung Hoa. Lai lịch và giáo pháp của các vị tổ này đều mơ hồ. Về mặt triết học, dường như thiền học một mặt gần gủi với thuyết phủ định Ấn Độ của Nagarjuna và mặt kia là là triết học Gnan của Sancharacharya. Giáo pháp đầu tiên của thiền mà nay được biết được gán cho Lục tổ Huệ Năng (637-713), người sáng lập ra Thiền Nam Tông; gọi như vậy vì dòng thiền này chiếm ưu thế vùng Hoa Nam. Truyền thừa của Huệ Năng là Mã Tổ (mất năm 788) người làm thiền có ảnh hưởng sinh động ở Trung Hoa. Bách Trượng (719-814) là đệ tử của Mã Tổ, người đầu tiên lập ra thiền viện và xây dựng Thanh Qui để quản lý thiền viện. Sau thời của Mã Tổ, trong tranh luận về thiền tông chúng ta thấy có vai trò của tinh thần Dương Tử Giang khiến cho nó có sự bổ sung cách tư duy bản địa và tương phản lại chủ nghĩa lý tưởng Ấn Độ lúc ban đầu. Dẫu cho có lòng tự tôn giáo phái thế nào đi nữa cũng không thể phủ nhận Thiền Nam Tông có nét tương đồng với giáo lý của Lão Tử và phái Thanh Đàm của Lão giáo. Trong Đạo Đức kinh chúng ta từng thấy ẩn ý nói đến tầm quan trọng của việc tập trung tinh thần và điều tiết hơi thở; đấy cũng là những điểm cốt lõi trong thực hành thiền định. Một số cuốn bình chú về Đạo Đức kinh hay nhất lại do các học giả thiền viết nên – (Trà Đạo, Bảo Sơn dịch từ The book of Tea – Okakura Kakuzo)

Về Đạo:

-“Dịch sát nghĩa chữ Đạo có nghĩa là ”Lối Đi” (Path). Đạo lại được dịch thành nhiều từ khác như “Con Đường” (Way), “Tuyệt Đối Tính” (Absolute), “Qui Luật” (Law), “Tự Nhiên” (Nature), “Lý Tính Tối Thượng” (Supreme Reason), “Phương Thức” (Mode). Không phải những từ này đều sai cả vì cách dùng từ của các đạo gia có khác biệt nhau tùy theo chủ đề-đối tượng đòi hỏi. Chính Lão Tử cũng từng dùng chữ Đạo như thế này: “Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vạn hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó tên là gì, tạm đặt tên nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là lớn (vô cùng). Lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì đi xa, đi xa thì trở về (qui căn).” . Đạo ở đây hàm nghĩa “con đường” hơn là “lối đi”. Đạo chính là Tinh Thần Thường Biến của vũ trụ, vĩnh hằng sinh trưởng để rồi quay về chính nó để sản sinh ra cái mới. Đạo cuộn mình lại như con rồng, một biểu tượng được ưa thích của các đạo gia. Đạo thu lại rồi trương ra như những đám mây. Có thể nói Đạo là sự Biến Chuyển Vĩ Đại. Chủ quan mà nói Đạo là Tính Khí của Vũ Trụ. Sự Tuyệt Đối của Đạo là Tương Đối.
Lão giáo cố tìm được cái đẹp ngay trong thế giới nguyện ước và âu lo của chúng ta. Câu chuyện ngụ ngôn đời Tống về ba người nếm giấm giải thích tuyệt diệu xu hướng của ba học thuyết. Thích-ca Mâu-ni, Khổng Tử và Lão Tử cùng đứng trước một hũ giấm – biểu tượng của cuộc đời – và từng người nhúng ngón tay vào đó để nếm. Thực tế thấy Khổng Tử thấy chua, Phật bảo là đắng, và Lão Tử thốt lên khen ngọt” – (Trà Đạo, Bảo Sơn dịch từ The book of Tea – Okakura Kakuzo)

Về Trà Đạo:

“Trà Đạo là một thứ đạo đặt nền tảng trên sự tôn thờ cái đẹp xen lẫn giữa muôn vàn điều nhớp nhúa của cuộc sống đời thường. Ăn sâu vào trong trà ý niệm về sự thanh khiết và hòa điệu, sự huyền nhiệm của lòng nhân ái lẫn nhau, tính lãng mạn của trật tự xã hội. Then chốt của Trà Đạo là tôn thờ sự Bất toàn, như là một nỗ lực dịu dàng hoàn thành điều có thể nào đó trong điều không thể mà ta biết rõ đang hiện hữu trong cuộc sống” – (Trà Đạo, Bảo Sơn dịch từ The book of Tea – Okakura Kakuzo)

Chén trà vốn không là Đạo, chính tư duy của các triết nhân suy tưởng bên chén trà biến trà thành Đạo. Cũng như cây đa vốn chẳng linh thiêng, nhưng vị thần được thờ ngự trên nó khiến nó linh thiêng.

Người ta thường dùng 4 chữ “hòa, kính, thanh, tịnh” để khái quát tinh thần cơ bản của trà đạo: “Hòa” là hòa bình; “kính” là tôn trọng người trên, yêu thương bè bạn, con cháu; “thanh” tức là thanh tịnh, thanh khiết; còn “tịnh” là giới hạn mỹ học cao nhất của trà đạo: an nhàn.

II. Nghi Thức Trà Đạo

Giờ chúng ta bắt đầu tìm hiểu sơ lược về nghi thức của Trà Đạo
– Ở phần trên, chúng ta đã biết vào đời nhà Tống có vị Thiền sư Nhật Bản, khi sang Nam Trung Hoa để nghiên cứu về Thiền học, ông còn nghiên cứu thêm về các giống trà, và đã chọn giống trà ở Phù Lương, thuộc tỉnh Giang Tây. Mang hạt trà về trồng tại mấy vùng, nhưng về sau chỉ nghe nói đến 2 tên Châu Sơn và Vũ Thủy là nổi tiếng.
– Theo tư liệu trà du nhập vào Nhật Bản từ thế kỷ thứ 9, do công của các thiền sư, nổi bật là thiền sư Tối Trừng (Saicho)- năm 805 và tiếp liền sau đó là thiền Không Hải (Kukai)- năm 806. Lúc đó cách thức dùng trà của Nhật chịu ảnh hưởng nặng của thiền phái Trung Hoa, được các thiền sư Nhật tham học và cũng có một ít trà thư được viết ra trên nền tảng cuốn Trà Kinh của Lục Vũ (Dấu vết lưu lại đến hiện nay là món mạt trà vẫn còn dùng).
– Thiền sư Eisai Zenji (1141-1215) có công rất lớn trong việc phát triển thuật uống trà tại Nhật Bản. Khi trở về nước năm 1191, thiền sư Eisa được Sanetomo, sứ quân thứ ba của dòng Kamakura cho triệu vào cung để trị bệnh cho vị lãnh chúa này bằng bùa chú và cầu an. Thay vì đáp ứng lời yêu cầu trên, thiền sư Eisai trình lên Sanetomo một luận thuyết mang tựa đề “Chú Giải về Dược Tính của Trà” và một ít trà bột, nói rằng những thứ này còn hiệu nghiệm hơn thần chú và cầu an. Sau một thời gian uống trà, sứ quân Sanetomo bình phục. Ông rất đỗi vui mừng và trân trọng giới thiệu trà đến những người dưới trướng. Sau đây là một đoạn trích từ luận thuyết: “Trà là một vị thuốc thần diệu cho dưỡng sinh; trà là bí quyết của trường sinh. Trà mọc lên từ các sườn núi như biểu hiện tinh thần của đất đai. Những ai hái và uống trà chắc chắn sẽ sống lâu. Ấn Độ và Trung Hoa đều xem trọng trà. Trong quá khứ, người nước ta đã từng ưa thích trà. Từ trước đến sau, trà vẫn mang những phẩm tính quý hiếm. Do vậy, chúng ta nên sử dụng trà một cách quảng đại hơn…”
Cuộc vận động toàn quốc uống trà của Thiền sư Eisai đã mang lại một lợi ích lớn lao cho sức khỏe dân Nhật từ đầu thế kỷ 13. Sau công cuộc cổ vũ này, các thiền sư My oe Shonin (người phục hồi Hoa Nghiêm Tông tại Nhật), Eison, và Dogen (tổ sư phái Thiền Tào Động tại Nhật) cũng đã đóng góp nhiều trong sự hình thành Trà đạo.
Vậy bước đầu của Trà Đạo là do một vị thiền sư, về sau cũng do các thiền sư tiếp tục nâng trà lên một vị trí xứng đáng và dạy cho dân chúng cách uống trà theo Đạo: Trà và Thiền là hai thứ được đi đôi với nhau, hòa hợp với nhau.
– Bắt đầu từ thế kỷ thứ 15 người Nhật Bản đã nâng trà lên đến một địa vị quan trọng hầu thành một nghi lễ, một tôn giáo mà mọi người đều nghe nói đến hai chữ Trà Đạo.
– Đến thế kỷ thứ 16, thời Mạc Phủ tướng quân (Shômu) cùng các hiệp sĩ đạo (samurai), thiền sư Thiên Lợi Hựu (Sen Reikyu) đã đưa trà xanh từ chùa vào cung đình cùng nghi thức uống trà (chanoyu) để có Trà Đạo ngày nay, và lãnh chúa Hideyoshi, cũng là người đã dựng lên trà thất ở thời kỳ ấy.
Như đã biết, Người Nhật và lối Trà Đạo của họ là lối uống theo nghi thức của đệ nhị trà phái thời Tống: Mạt trà. Lối uống này không cần ấm trà hay trà hồ. Thứ trà mà chúng ta vẫn nghe nói trong các buổi Trà đạo là một thứ trà bột (Koicha), mầu lục đậm, lúc quấy ra thì đặc như một thứ kem, nhưng phải quấy sao cho đừng nổi bọt, đừng đóng thành từng cục nhỏ, nói đơn giản ra thì nó chỉ có thế, và trà Nhật Bản rất đậm, uống vào một bát lớn là có thể thức luôn mấy đêm.
Trà đạo đã hình thành nhiều trường phái khác nhau, chủ yếu có ba trường phái lớn là: Risenka, Hyosenka và Bushakoro Senka. Mỗi nhà đều theo chế độ gia truyền – tức là con thường kế nghiệp bố làm người chủ trì trà đạo của gia đình đó.

1. Trà thất

Trà thất: tiếng Nhật gọi là Chashitsu, có liên quan với chữ chaseki: nơi uống trà, bao gồm bất kỳ nơi nào người ta ngồi uống trà được.

Xưa kia các thiền tăng Nhật có tập quán uống trà nơi thiền đường, trước tượng Bồ Đề Đạt Ma. Thiền đường là nơi thanh tịnh tu tập, không giống như bái đường của chùa chiền ; thiền đường là nơi bài trí đơn sơ vừa làm chỗ tu tập vừa làm chỗ nghỉ ngơi cho thiền sinh.

Trà Đạo phải được đặt vào trong một ngôi Trà Thất mới đúng khung cảnh của nó. Nguyên Thủy của Trà Thất chỉ là những mái chùa Thiền, đơn sơ bé nhỏ, nên ngày sau người ta cũng vẫn tiếp tục theo lối kiến trúc đơn sơ ấy, để xứng với cái tên Trà Thất được gọi là “Hư Không Cư Trú”.

Trà thất ví như khoảnh đất phì nhiêu trên sa mạc quạnh hiu, buồn tẻ của cõi đời mà khách lữ hành có thể gặp gỡ nhau ở đó, để cùng nhau giải khát trong nguồn suối chung của lòng ham chuộng thưởng thức nghệ thuật. Trà thất không đòi hỏi gì hơn là một căn nhà nhỏ nơi thôn dã – một túp lều tranh, như chúng tôi thường gọi.

Ban đầu, trà thất chỉ là một phần của căn phòng khách thông thường ngăn ra bằng những tấm bình phong. Phần ngăn ra như vậy gọi là Vi (KaKoi) – một cái tên hiện hãy còn dùng để gọi những trà thất đặt liền ngay ở trong nhà, chứ không xây cất riêng biệt ra một nơi. Còn trà thất sau này thì gồm có một phòng trà chính trù liệu để tiếp đón khách – không quá năm người.

trà thất 2

(Hình Trà thất)


tra-thất

Hiện nay người ta quan niệm: Một trà thất lý tưởng phải nằm trong một khu vườn nhỏ.
      — Bắt đầu là “trì hợp” (machiai) – hành lang ở cửa vào để khách đợi chờ, nơi đây cũng thảo luận vị trí chổ ngồi của khách khi vào trà thất.
      — Một “lộ địa” (roji – lối đi có sương) – lối đi ở trong vườn nối liền trì hợp với trà thất:
      “Cái “lộ địa” này có ý nghĩa là giai đoạn “minh tưởng” thứ nhất – là đường đi tới chỗ tự giác. Lộ địa có ý định dùng để cắt đứt hết mọi liên lạc với thế giới bên ngoài, và để gây cho khách có một cảm giác lâng lâng, thư thái sẵn sàng đón nhận những thú vui hoàn toàn của duy mỹ chủ nghĩa đương đợi khách ở trong Trà thất. Người nào đã đặt chân lên con đường này, trong khi bước đi dưới bóng tranh tối tranh sáng của những cây vạn niên thanh, trên những hòn phi thạch không đều đặn nhưng tề chỉnh, dưới trải một lớp lá thông khô, và đi bên những chiếc “thạch đăng lung” – đèn lồng bằng đá hoa cương đầy rêu phong, chắc người ấy không thể không nhớ rằng tâm hồn mình khi đó đã bay bổng lên cao khỏi những tư tưởng bình phàm như thế nào. Người ta có thể ở ngay giữa một đô thị, tuy nhiên lại cảm thấy như mình đương ở trong một cánh rừng xa hẳn cảnh bụi bặm và huyên náo của văn minh. Thế mới biết các tay đại Trà sư gây ra được những hiệu quả thanh tĩnh và thuần khiết ấy tài trí cơ xảo biết chừng nào. Tính chất những cảm giác được gợi ra khi đi qua lối sương lộ khác nhau tùy theo mỗi Trà tượng. Một vài người, như Lợi Hưu (Rikiu), nhằm một cảnh hoàn toàn cô quạnh, và chủ trương bí quyết làm một sương lộ bao hàm trong bài cổ ca này:

Nhìn sang bờ bên nọ;
Hoa tươi đã chẳng có,
Lá úa lại xác xơ.
Ầm thầm đứng trên bờ
Một túp lều quạnh hiu
Trong ánh chiều tàn tạ
Giữa cảnh thu hoang liêu”.

Sương lộ có chủ ý được dùng để đoạn diệt mọi liên hệ với ngoại giới, và tạo ra một cảm giác thư thái dẫn đến niềm lạc thú tròn đầy của chủ nghĩa duy mỹ (aestheticism) ngay bên trong trà thất. Ai đó từng đặt chân bước đi trên lối nhỏ trong vườn này không thể nào nhớ nổi tâm hồn mình lúc đó như thế nào, vì người ấy bước đi trên những mảng thềm đá không đều nhau lại được bố trí một cách đều đặn dưới ánh sáng xanh rì chập choạng của cây xanh, dưới chân là những chiếc lá thông khô rơi rụng, và hai bên là mấy ngọn thạch đăng lung (trụ đèn bằng đá) rêu phong, tâm hồn lúc đó vụt bay bổng lên khỏi ý tưởng phàm tục. Một người có thể đang sống giữa chốn đô thị mà vẫn cảm thấy nhu đang ở nơi rừng sâu xa lánh khỏi bụi trần và phồn hoa của chốn văn minh. Các trà sư tài tình làm sao khi tạo ra cảnh giới vô vi và thanh tịnh này. Mỗi trà sư đi qua sương lộ nảy sinh một cảm giác riêng chẳng ai giống ai.. Một vài vị, như Lợi Hưu (Rikiu), cảm nhận thấy nét hoang liêu và thốt lên rằng bí quyết làm sương lộ nằm trọn trong câu hát dưới đây:

Phóng mắt nhìn bên ấy, ” (I look beyond;)
Chẳng thấy một cánh hoa (Flowers are not,)
Chiếc lá vàng cũng không, (Nor tinted leaves.)
Trên bãi biển mênh mông, (On the sea beach)
Một chiếc lều cô quạnh. (A solitary cottage stands)
Trong nắng vàng tàn tạ, (In the waning light)
Trởi chiều thu man man. (Of an autumn eve.”)

Một vài kẻ, chẳng hạn như Tiểu Khuất Viễn Châu (Kobori-Enshiu), thấy nơi ấy một tâm cảnh khác. Viễn Châu tìm được nơi sương lộ (con đường trong vườn) ý thơ sau:

Một khóm cây mùa hạ, (“A cluster of summer trees,)
Một góc biển xa xa (A bit of the sea,)
Chiều tà trăng nhạt nhòa ( A pale evening moon.”)

– Đi vào trà thất thông qua một cái cửa nhỏ gọi là nijiriguchi (có nghĩa cúi người bước vào). Gian trà thất có trần thấp và chẳng có đồ đạc chi cả, khách và chủ nhân phải ngồi đúng chỗ của mình trên sàn nhà (gọi là chính tọa – seiza). Mọi vật dụng có trong này đều đơn sơ và quê mùa một cách có chủ ý. Ngoài cửa vào của khách, có thể có nhiều cửa khác (các cửa đều là cửa lùa), ít nhất phải có một cửa khác dành cho chủ nhân gọi là sadōguchi và cửa này dẫn đến mizuya (Thủy ốc : nơi sắp xếp và rửa trà cu trước khi đem vào trà thất đãi khách). Các cửa sổ đều nhỏ và dán giấy shoji nên ánh sáng tự nhiên chiếu được vào gian trà thất, nhưng không thể nhìn từ trong ra ngoài; nhờ vậy khách dự không mất tập trung khi uống trà. Trong gian trà thất có một bếp lò (tiếng Nhật gọi là ro) đặt trên tatami (là tấm nệm, chiếu) sát bên tatami của chủ nhân, chủ yếu dùng sưởi vào tháng lạnh hay dùng thay cho bếp lò chính (furo).
      – Một nơi trong gian trà thất gọi là tokonoma (sàng gian) treo những bức thư pháp hay thư họa, cũng có thể có một lọ hoa hoa nhỏ giản đơn cắm theo lối gọi là chabana (Trà hoa), ngoài ra không trang trí gì thêm.
      Thường số khách được mời đến dự một buổi lễ Trà Đạo không quá 5 người.”
      (Trích: Trà Đạo – Bảo Sơn dịch từ The Book of Tea của Okakura Kakuzo)

2. Nghi thức trà: Trà thang

Phần này là tổng hợp giữa Trà Đạo- Bảo Sơn dịch từ The Book of Tea của Okakura Kakuzo và “Nghệ Thuật Yêu Trà- Niệm Thư 1 của Minh Đức Hoài Trinh cùng vài nguồn trên Internet:

.

Thiền Trà

Nghi thức trà: Tiếng Nhật gọi buổi tiệc trà theo nghi thức là Chanoyu (trà thang), nguyên thủy ban đầu Chanoyu nhằm giúp tinh thần đi đến chỗ vắng lặng theo nghĩa chữ “tịch” của Lợi Hưu. Mọi hành động trong lễ trà nghi Chanoyu phải thật nhẹ nhàng, chuyện trò có qui định riêng, giữ tịch lặng khi uống trà như một thiền sư đang tham thiền.

Khi nghe tiếng cồng nhỏ vang lần cuối, các người khách khom người chui qua một cánh cửa nhỏ, cao không quá ba bộ, để vào gian phòng trà thất. Bất cứ khách nào, quyền quý hay thấp hèn, cũng đều như vậy cả, nhằm ý nói với khách về đức tính khiêm hạ. Khách theo thứ tự trước sau từng người một khe khẽ bước vào phòng, không quên đến gần các dụng cụ nhìn kỹ, xa xa, không cầm lên, không sờ mó, rồi vào chỗ ngồi của mình không gây một tiếng động. Khách an tọa theo thứ tự của mình(Thứ tự này đã được bàn khi khách đang chờ đợi ở nơi trì hợp (machiai) – hành lang ở cửa). Khi ngồi, mỗi người không quên đến nghiêng đầu cúi chào trước cái bệ có đặt bức tranh hay bình hoa cắm theo lối Thiền đặt nơi sàng gian (tokonoma), đó là điểm trang trí độc nhất của ngôi Trà Thất.

Khi khách an tọa, một sự tĩnh lặng thật sư ngự trị; trong gian phòng lúc nầy chỉ còn có tiếng nước sôi reo, như tiếng nước suối chảy đâu đây: Những miếng sắt xếp khéo léo dưới đáy ấm đun nước reo lên nghe rõ theo một giai điệu lạ kỳ, tuồng như tiếng vọng của thác nước bị mây che khuất, nghe như tiếng biển nơi xa xăm dập dồn vỗ vào vách đá, tiếng phong ba quét rít qua các bụi tre rừng, hay tiếng thông reo trên ngọn đồi xa lắc.
Ánh sáng dịu dàng mát mẻ, mọi thứ, từ sàn nhà, vách tường mái đều u nhã, ngay cả lối ăn mặc từ chủ đến khách cũng phải nhã nhặn. Chẳng ai dám dùng những màu sặc sỡ để đi dự một buổi lễ trang trọng nầy.
Khi khách đã an tọa, tấm cửa ra vào được hạ xuống. Lúc nầy, từ Thủy Ốc (tức là cái chái nhỏ nằm bên cạnh, chỗ để rửa và xếp đặt các thứ cần dùng cho buổi trà lễ) chủ nhân mới bước vào Trà Thất để chuẩn bị pha trà.
Nào trà uyển (chén trà) – đặc biệt là chỉ dùng có một cái, nào trà khâm (khăn lau), trà tiển (cái chỗi để quậy trong chén trà sẽ được chủ nhân pha chế). Mọi thứ đều phải tinh khiết sạch sẽ, và riêng cái khăn lau, cái gầu tre múc nước, và cái tiễn đều phải là những thứ tre mới chưa dùng qua một lần nào.
Chủ lễ quỳ xuống, các thứ đặt trước mặt, lúc nầy là lúc quan trọng, ai chưa quen sẽ lúng túng vì tất cả mọi hành động, cử chỉ đều đã được đặt theo thứ tự quy tắc.

Cánh cửa liếp từ thủy ốc cũng đã được kéo lại và sau đây là những động tác của người chủ lễ:
Tay phải đưa ra, cầm lấy cái chén, đặt vào lòng bàn tay trái, rồi tay phải đỡ bên dưới trước khi đặt cái chén xuống phía trái. Cái hộp đựng trà được kéo đến trước nồi nước sôi, mà mỗi phút qua càng reo mạnh hơn. Chủ lễ lại đứng lên, đi qua thủy ốc mang một cái chậu nhỏ để đổ các thứ nước tráng chén, một mắt tre xanh để gác nắp nồi nước sôi. Cái gàu múc nước được đặt ngang miệng chậu. Những vật nầy lúc đưa sang, chủ nhà cố ý hạ thật thấp để mọi người khỏi phải nhìn thấy vì chúng nó chẳng đáng gì.

Cửa liếp ở thủy ốc lại được đóng, khi người chủ lễ trở về, quỳ trước ấm nước sôi. Người chủ lễ dùng tay trái cầm cái gàu nâng lên, tay phải đỡ bên dưới. Người chủ lễ ngưng thần, nhìn xuống cái chén, hình như đó là mảnh gương soi linh hồn. Cái gàu được đặt sang phía trái cạnh cái lò, tay phải nâng gàu rồi lại đặt xuống trà uyển gieo một âm thanh sắc cạnh. Mọi người đều lễ phép cúi mình như để chào buổi lễ sắp bắt đầu. Cũng là giờ phút mà từ chủ đến khách đều phải sửa sang dáng ngồi, tập trung tư tưởng và huy động thần lực.

Lần nầy tay phải lại nâng trà uyển lên, tay trái đỡ bên dưới để chứng tỏ sự kính cẩn đối với vật thể vừa được nâng lên. Trà uyển lại được đặt xuống, kéo hộp trà tới, mở sợi kim tuyến buộc ngoài, lấy bình trà được nằm gọn trong bao lụa thêu. Chủ nhân lại lấy một chiếc khăn lụa khác đã được xếp sẵn, được gói trong bao giấy mịn, dùng khăn lụa nầy để lau trà uyển, trước khi lau, còn phải nhìn khăn xem có vết nào đáng thắc mắc, mặc dầu tất cả đều mới tinh.

Những cử chỉ lau chùi khám xét nầy đã được đi vào nghi thức không thể bỏ qua. Sau khi dùng khăn lau mọi thứ, chủ nhân lại xếp khăn bỏ vào bao, đợi lúc cần đến mới mở ra, không để bừa bãi ra ngoài.

Nghi thức pha trà Nhật

.

Chủ nhân dùng tay phải lấy gàu đưa qua tay trái, tay phải mở nắp ấm, đặt xuống cái gác nắp ấm bằng tre. Đây là nắp ấm không phải bằng kim loại, nếu là bằng kim loại thì cần phải có một cái khăn để khỏi bỏng tay.
Bắt đầu múc nước, 3 gàu từ trong ấm ra, đổ vào trà uyển để tráng chén, cả cái tiển để quấy trà cũng được quấy trong nước nóng. Đặt trà uyển, đã được lau chùi xuống chiếu, tay phải cầm thìa múc trà, tay trái nghiêng bình đựng trà đã được mở nắp. Múc ra 3 thìa trà, đặt thìa vào trà uyển và lấy khăn lau uyển, tức là chén trà mà mọi người rồi sẽ được uống, đậy nắp bình, gõ nhẹ thìa để tất cả bột trà rơi hết xuống uyển. Một gàu nước lã được đổ vào nước đang sôi để nước phục hồi nguyên tính. Một gàu nước khác được múc ra đổ vào trà uyển. Gác gàu ngang lên miệng ấm, lối nầy gọi là định tiễn, có nghĩa là cho mũi tên được nghỉ ngơi.

Lúc nầy dáng ngồi của người chủ lễ hơi cúi ra đằng trước, một tay giữ chén trà, một tay quấy bằng cái tiển đã được rửa nóng ban nãy. Quấy trà nầy là cả một nghệ thuật phải vừa vững vừa mạnh tay, lúc nó sền sệt mới thêm một vài gàu nước nữa cho vừa uống.

Khi nhìn thấy vừa đúng một chén trà, không đặc, cũng không lỏng quá. Chén trà được nâng lên đặt vào lòng bàn tay trái, xoay theo chiều đồng hồ, để cho mặt chén sẽ được ngược từ phía người chủ lễ ra phía người thượng khách của buổi lễ.

Thượng khách phải biết mà nghiêng mình về chén trà, hai tay kính cẩn nhận lấy, quay mình về phía người khách thứ hai. Mọi người lại phải cúi mình để chào chén trà. Thượng khách, hai tay nâng chén trà lên xoay hướng mặt chén ra ngoài trước khi đưa lên miệng uống một hớp.

Chờ khách vừa uống xong, chủ nhân hỏi thăm:
      – Thưa có vừa uống không?
      – Thưa vừa vặn, rất ngon.
      Khách trả lời khẳng định, sau khi uống xong 3 ngụm nhỏ, khách phải nhẹ nhàng và kính cẩn đặt chén trà xuống chiếu trước mặt mình, rút chiếc khăn mới đã mang sẵn theo với mình lúc ra đi, để chùi chỗ miệng mình vừa uống. Mỗi vị khách lúc đi dự buổi trà đạo đều bắt buộc phải có mang theo một chiếc khăn mới, không thể nào quên chiếc khăn mới nầy, nên nhớ nó không phải là cái khăn tay như lệ thường, khăn phải chưa bao giờ dùng, còn mới nguyên. Trà uyển lại được nâng lên, quay ngược chiều đồng hồ, đưa sang cho người đệ nhị thượng khách. Và cứ tiếp tục như thế.

Chủ nhân là người uống chót, sau đó lại chùi miệng chén trao về cho thượng khách để ông nầy ngắm nghía cái chén cho thỏa thích. Khách sẽ đặt câu hỏi về chén trà từ bao nhiêu thế kỷ, xuất sản tại nơi nào. Khi chủ đã hỏi hết các vị khách nhận xét phê bình về chén trà rồi thì mỗi người phải biết khen trà, khen cách pha chế và cảm ơn buổi lễ đã cho mình cái hân hạnh đến dự. Trong câu chuyện cũng phải hỏi tên trà, mọc ở vùng nào…

Uống xong mọi người lại phải cúi mình một lần nữa. Khi đã dọn bớt các thứ lỉnh kỉnh sang thủy ốc rồi, thượng khách lại phải hỏi thăm về cái bình đựng trà, cái bao lụa và cái thìa múc trà, thường lệ phải là bằng ngà hay ngọc. Ai đã xem trước rồi thì phải cúi mình xin lỗi đưa sang cho người thứ hai.
Chờ cho các vị khách ngắm nghía xong, chủ nhân mới lại bước ra để trả lời mấy câu hỏi về lịch sử tông tổ những thứ ấy từ đâu đến, cái bình đựng trà nầy làm tại đâu, bằng thứ đất gì, ai thêu cái bao lụa, tên hiệu của nó gọi là gì… Phần hỏi han còn tiếp diễn sau khi đã được chủ nhân tuyên bố trà lễ đã bế mạc.


Tùy ở cuộc sống, ngày nay cũng có những người Nhật chưa bao giờ được nhìn một buổi lễ Trà Đạo của họ.
“Chúng ta dễ dàng nhận thấy trong sự câu nệ và phiền trược của nghi thức Chanoyu, tâm người dùng trà khó đạt được bốn chữ “Hòa, Kính, Thanh,Tịch” đúng với tinh thần ban đầu do Lợi Hưu đề ra. Lợi Hưu là nhân vật của thế kỷ 16, ông đề ra quy luật đó vì có sự dung tục trong văn hóa trà vào thời đại Thất Đinh. Giống như một ẩn dụ của Phật Thích-ca, bốn chữ đó như chiếc xuồng chở chúng ta qua bên kia bờ, qua được bờ bên kia rồi thì chớ cõng chiếc xuồng trên vai mà đi. Trà nghi Nhật Bản đang cõng chiếc xuồng tứ bản “Hòa, Kính, Thanh, Tịch” (chứ không phải xuồng tam bản) ư!?” – (Trích Đức Chính – Trà Luận)

...............................(Còn Tiếp)




VVM.05.8.2023.NVA

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. vietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .