(Xa xôi gởi anh Nguyễn Thanh Chiểu em Hoàng Ngọc Bân)
T
ô
Đông Pha (1036 - 1101) tên thật là Tô Thức
tự Tử Chiêm người huyện Mi Sơn tỉnh Tứ Xuyên
bên Tàu. Cùng với cha là Tô Tuân và anh là Tô Triệt
đã được văn học giới đời Tống coi là Đại
văn gia rồi gọi tắt là Tam Tô.
Tô
Thức đậu tiến sĩ năm 20 tuổi, anh ông là Tô
Triệt cũng đậu tiến sĩ khoa này (1056). Ông được vua
Anh Tông mến tài nên bổ dụng làm quan
lớn trong Sử Quán khi mới có 21 tuổi, đấy là tuổi
tính từ lúc mới tượng hình là bào thai.
Tuổi trẻ tài cao, vua biết mặt chúa biết tên, ba
cha con ông là ba tiến sĩ trong một nhà. Khách đến thăm,
phải nói rõ là gặp ai? Đại Tô hay tiểu Tô? Đại
Tô là ông bố Tô Tuân, Tiểu Tô là Tô anh (Thức) hay
Tô em (Triệt) thì chưa được đọc sách nào nói rõ để
phân biệt.
Ông
tự hãnh vì là đại phú gia và tài học mình hơn hẳn
người trong thiên hạ. Cũng phải, cũng đúng thôi
ở sự hạ mục vô nhân của người tuổi trẻ.
♣ ♣
Đời
vua Thần Tông, nhà Tống bắt đầu suy vi. Để cứu
vãn, vua ủy cho tiến sĩ Vương An Thạch dùng
Tân Pháp để cải cách chính trị
trong nước. Vua xuống chiếu cấm không ai được bài bác.
Không hiểu sự biến pháp từ cổ sang tân có
gây thiệt hại gì về vật chất hay tinh thần
với gia đình họ Tô mà Tô Thức chống lại Tể Tướng
Vương An Thạch đến cùng mà quên cả lệnh vua.
Ông coi Tân Pháp và Vương An Thạch không ra chi
nên chống đối kiểu “một mình chống Mafia” ngày nay
vậy.
Rõ
nét nhất là ông phê phán họ Vương cũng chỉ
là Tiến sĩ thôi mà ỷ quyền cậy thế được
vua tin yêu cho làm Tể Tướng rồi vu khoát
những điều nghịch lý. Ngay trong một bài thơ của Vương
ông dẫn ra cũng đã có hai câu phi lý:
Minh
nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa tâm.
Tiến
sĩ Tô thương “anh già Vương” lẩm cẩm,
thuận tay sửa sai giùm ra thành:
Minh
nguyệt sơn đầu chiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa âm
Giai
thoại về Vương An Thạch bị Tô Đông Pha sửa
lưng về kiến thức qua hai câu thơ là một giai thoại văn
học quá hay. Họ Vương thấy được cái thuần lý
đương nhiên của trời đất. Họ Tô dùng lý
trí nhìn thơ họ Vương chỉ toàn thấy vô
lý. Làm gì có cảnh:
Trăng
hót ở đầu núi
Chó
vàng ngủ trong hoa.
Vương
An Thạch không hề phiền người tuổi trẻ: biết
- cả - những - cái - không - biết, không trách người
đang chống đối mình một cách ngô nghê khi đất nước
cần có một chính sách thích hợp, xã hội cần một sự
đổi thay.
° Năm
1067, triều đình vẫn chiếu theo tội trạng phản đối
Tân Chính của ông để biếm ông ra đất Hoàng Châu tỉnh
Hồ Bắc. Tại đây, Tô Thức làm nhà ở sườn núi phía
đông nên lấy tự hiệu là Đông Pha cư sĩ có nghĩa là
Kẻ - Sĩ - Ở - Sườn - Núi - Phía -
Đông chứ chưa hẳn là cư sĩ, tín đồ Phật giáo
tu tại gia. Từ đó ông có tên là Tô Đông Pha, người
đời xưng tụng như một anh hùng dám chống bạo quyền.
Sự
trớ trêu của số phận? Sự vô tình
hay cố ý của quan lại trong triều
muốn đón ý đàn anh Vương tể tướng nên đẩy tiến sĩ
Tô đến vùng đất trích cho mà biết thế nào là hoàng
- khuyển - ngọa,
là minh - nguyệt - khiếu (!).
Do
vô tình hay hữu ý? Chỉ khổ có bản
thân Tô Đông Pha lúc đó. Còn sau đó là một giai thoại
trong văn chương đời đời truyền tụng rằng:
Một
đêm trời quang mây tạnh, trăng vằng vặc, gió hiu hiu
như mời như gọi khách đa tình phải cất bước
lên đường. Từ “đông pha”, Tô nhìn xuống
thung lũng trước nhà. Trăng trải dài hết cả vùng sơn
khê trùng điệp. Tô từ từ cất bước hạ sơn, tên tiểu
đồng lót tót theo sau. Thầy trò ông vượt qua
không biết bao nhiêu gò đống, lội qua vài tiểu
khê và ngừng ở nơi có tiếng chim ca và hương hoa thơm
ngát.
Cả
một rừng hoa hàm tiếu, bán khai đang chờ đợi chim
đến hát mừng để mãn khai đón trăng đón gió
vào lòng. Giữa nhụy hoa có một sinh vật
màu vàng be bé xinh xinh nằm co như đang chìm và
giấc ngủ sâu thật sâu trên tấm nệm màu hồng tươi.
Cành
gió đưa, tiếng chim đẩy làm lay động nệm ấm
khiến sinh vật bé nhỏ trong hoa chồm lên
như con chó vàng mẫn cán; thấy tiếng động ở quanh nhà
thì chồm dậy canh phòng bảo vệ.
Hoa
mãn khai phô sắc toát ra thứ hương vương giả, tiếng
chim hòa minh trầm bổng dưới trăng lung linh sáng như bạc
quyện vào gió thánh thót như nhạc trời chỉ có thần
tiên mới được thưởng thức.
Trước
cảnh kỳ thú lung linh mờ ảo ấy Giữa
thực và mộng. Tô tưởng mình cũng lạc bước
vào Thiên Thai như Lưu Thần, Nguyễn Triệu xưa. Tô
tự hỏi: mình thoát tục rồi sao? Thế là hết phiền.
Thế là ta xa hẳn được những bon chen, giận
hờn của đồng liêu nơi “Trường An” đầy mưu mô cạm
bẫy. Tô cởi áo khoác đắp cho tên tiểu đồng đang gối
đầu lên đá nằm co quắp ngủ khè. Tô như mơ như
tỉnh rồi cũng nằm xuống bên cạnh tiểu đồng, thiếp
đi giữa bao la đất rời.
Giật
mình tỉnh dậy, Tô thấy tiểu đồng ngồi bó gối
co ro. Tấm áo đắp cho nó lúc trước bây giờ đang ở trên
mình. Chiêu dương ló dạng, Tô nhìn ra đường mòn thấy
một người trẻ tuổi, vạm vỡ vai đeo cung tên, tay
cầm búa đang đi tới. Ông cho tiểu đồng ra mời. Người
đó tới. Ông hỏi điều gì người đó cũng lắc
đầu rồi với vẻ mặt rầu rầu lấy tay chỉ
vào miệng. Thế ra anh ta câm. Thấy vẻ mặt buồn
buồn của người đối diện, anh ta chỉ vào anh ta
rồi chỉ vào Tô, chỉ lên hướng nhà
Tô để cho ông hiểu rằng anh ta đã biết. Cuối cùng
anh ta ra hiệu cho thầy trò ông ra cạnh
đường mòn đứng chờ một cụ già râu dài chống
gậy sẽ đi tới mà hỏi.
Quả
nhiên, không phải chờ lâu, Tô đã thấy một
Lão Trượng râu tóc trắng muốt toát ra vẻ tiên
phong đạo cốt từ hướng ngược chiều với anh tiều
phu chống gậy trúc đi qua. Tô kính cẩn vái chào rồi
kể về một đêm đã trải tại đây. Tô xin Lão Trượng
cho biết: đêm qua chim hót hoa nở... Vậy; đó là hoa
gì chim gì đã khiến cho: “vãn sinh” như
lạc vào cõi thần tiên?
Lão
Trượng vui vẻ nói:
- Chắc quý khách là người ở xa tới du ngoạn
nên mới phải hỏi. Chim là chim Minh Nguyệt. Hoa là hoa Hoàng
Khuyển đấy. Thế quý khách có bao giờ đọc hai câu thơ
này chưa?
Minh
nguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa tâm.
-
Thưa Lão Trượng, vãn sinh đã đọc rồi. Thơ của Vương
An Thạch, Tể Tướng đương triều.
-
Khá lắm! Như vậy quý khách là người
trong Nho Lâm, đang cầu toàn cái việc cách vật
trí tri.
-
Dạ đúng thế. Xin Lão Trượng cho biết tại sao
chim đó lại có tên là Minh Nguyệt? Sanh hoạt của nó thế
nào là màu sắc nó ra sao? Hồi đêm có trăng thật sáng
đấy nhưng cũng không nhận rõ được để phân biệt với
các loài chim khác. Còn hoa nữa, sao nó lại mang cái
tên một súc vật?
- Tại sao ư? Hơn mười năm trước cũng người khách trẻ
qua đây. Vị ấy cũng hỏi ta như khách vừa hỏi. Ta
đang có người chờ ở thảo lư là một Lão sơn nhân, một
bá tánh ở địa phương này. Vậy “khách”
muốn biết triệt để thì theo ta về thảo lư gần
đây thôi.
- Xin lãnh ý Lão trượng!
♣ ♣
Tam
nhơn đồng hành. Thầy trò ông Tô lẽo đẽo
theo sau gậy trúc gần như chạy gằn mới kịp.
Túp
lều cỏ trên ghềnh đá ẩn hiện dưới tàn cây
vừa lộ rõ. Một tràng cười rổn rảng,
sung mãn cùng với tiếng nói có âm vang đầy nội lực:
- Ta đến đây thấy lều vắng đã mừng vì cọp tha ma
bắt lão rồi. Uống rượu một mình “nhạt
quá!” thì lão Phật Ấn dẫn xác tới. Hắn
từ chối rượu mời của ta, cứ ngước mặt nhìn trăng
rồi cười rồi khóc. Ta bực mình xách cổ hắn
ra suối lớn, ngồi trên cầu câu cá. Cá mới đớp bóng
trăng thăm dò cắn câu của ta thì lão ấy cười ha
hả nói: “Ta đã NGỘ”.
Ta
bực quá vì mất ăn món cá nướng nên
quất cho hắn một cần câu rồi túm cổ
liệng hắn xuống ngộ với cá. Thấy hắn lóp ngóp
tội nghiệp ta lại “câu lên”. Mắng cho hắn
một hơi: Trăng in đáy nước. Nước thì
“hằng chuyển như bộc lưu”. Cá đớp sảng là hiện
tượng tự nhiên của trời đất. Hắn run lên
cầm cập vì lạnh vẫn cố mắng lại ta là: “Đồ rừng
rú ngu si. Rằng anh có phải là cá đâu mà biết cái
vui của cá”. Lão ấy điên rồi. Ta đang đốt
cho đống lửa, hắn vừa sưởi vừa hong
cho khô quần áo ở hốc núi sau lều. Còn lão? Lão đã bỏ
lều ra đi vướng nhiễm biết bao bụi thế
gian rồi lại còn tha cả rác rưởi về đây. Đồ khùng!
- Lão nín đi! Đây là quý khách của ta.
♣ ♣
Khi
chủ khách đã phân ngôi. Tô được mời uống một
loại trà rất ngon rất lạ do chính Lão Trượng
chủ nhân làm trà nô. Không gian lắng đọng một hồi lâu.
Cụ già mà Lão trượng chủ nhân kêu là Lão sơn nhân người
bản địa với tay lấy bình rượu tu một hơi lên tiếng
phá tan cái không khí u trầm trong lều cỏ:
- Cái Lão con lừa ưa nặng chủ nhân này nói người
là quý khách của Lão. Người đến sau ta, vậy
ta là “cựu khách, còn người là “tân
khách”. Vậy cựu khách hỏi tân khách: Tân khách “Quý”
từ gót chân đến khoáy đầu, tất cả đều
là “quý” từ trong ra ngoài, tâm can tì
phế... đều tuyệt vời cả sao?
Tô
ngượng nghịu chưa biết thưa thốt ra sao với hai lão
già cổ quái này. Thậm chí đến tên tuổi của mình các
lão ấy cũng không thèm lý tới. Tô chưa
biết thưa thốt ra sao cho phải thì chủ nhân can thiệp.
- Cái lão tiều lười biếng! Mặt trời lên cả
mấy sào rồi còn chưa được gánh củi
nào. Cứ ngồi ì thân xác ra đấy rồi uống rượu
chạc của ta, rồi còn ba hoa nữa chứ. Mới lột lưỡi
hay sao mà hót nhiều quá. Quý khích của
ta đây muốn biết về Hoa về Điểu của nhà lão đấy.
- Cũng được thôi! Trước đây có anh chàng họ Vương
muốn biết rồi biết đã rộn chuyện lắm rồi! Anh
ta lại còn làm thơ ca - tụng để trưng bày hiểu
biết mới khiếp chứ. Quý khách chẳng nên biết thêm nữa
làm gì là tốt nhất.
- Nói đi! Ta miễn thứ cho tội tự nhiên
như ruồi uống cạn mấy vò rượu quý đang ủ để giao
hòa âm dương tú khí...
- Âm Dương tú khí giao hòa cái khỉ mốc!. “Vạn
dân nô lệ cường quyền hạ” ngoài kia. Áo Cơm
là Đạo Cả. Mấy ai đã xả thân để tiên thiên
hạ tri ưu ! Toàn đồ lợi danh biển lận. Cái anh chàng
họ Vương trước khi nhập thế cục, ta đã can mà
khăng khăng không nghe, cứ biến pháp, tân pháp rồi
cũng nhơ nhuốc vì bọn thủ cựu cầu an, vì lợi vì quyền
không muốn đổi thay Ta đã cho người ra khuyên hắn: khích
cho tụi lươn lẹo kia hưng khởi lên bằng một vài chiến
thắng rồi hắn giả như thua. Nếu được cách chức
là hay nhất. Có như thế mới bảo toàn được mạng sống.
- Thôi! Giỏi như rứa sao không ra cứu đời mà cứ lấp
ló ở xó núi này? Đến rượu cũng phải uống
chạc của ta thì hay hớm gì chứ...
- Để ta nói! Để ta nói cho “tân khách” này hiểu.
Chắc đêm qua lạc vào rừng hoa và được nghe tiếng chim
chứ gì?
- Thưa tiền bối đúng vậy.
- Ở đất này và chỉ có ở đất này mấy trăm năm
trở lại đây, tự nhiên có một giống cây lạ mọc
rồi có hoa, hương thơm hay thối do đạo tâm
của người ngửi nó. Kẻ cùng hung cực ác, cứ càng xấu
xa bao nhiêu thì mới đến gần hoa đã ngửi thấy
mùi xú uế nồng nặc bấy nhiêu. “Tân
khách” là người tốt nên ngửi thấy mùi thơm từ hoa.
Nó có tên là Hoàng Khuyển do người bản sơn thấy
ở giữa nhụy hoa có con sâu vàng nằm thò lõ
như con chó con đang khoanh mình nằm ngủ. Bông hoa nào
không có cái con “Hoàng Khuyển” là hoa không nở.
Những ngày trung tuần trong tháng, nếu có
mưa gió bão bùng; hoa cứ hàm tiếu chờ những
đêm trăng sáng tháng sau.
- Thưa, còn chim. Nó là động vật hẳn hòi sao lại
đặt tên nó là Minh Nguyệt, một tĩnh vật ạ?
- Chim cùng ánh trăng đến với hoa. Trăng là Nguyệt, chim là
Minh. Cả hai là Minh Nguyệt. Tân khách có nghe câu: “Văn
kỳ thanh bất kiến kỳ hình” bao giờ chưa? Nghĩa
là chỉ nghe thấy tiếng mà không hề thấy
hình dạng nó ra sao. Những người có chút lòng với
cảnh quan thiên nhiên, ngắm hoa nở, nghe chim hót
là quên cả phiền muộn. Kẻ cái gì cũng muốn
chiếm hữu chả bao giờ được diễm phúc thưởng
ngoạn như tân khách đâu.
- Cám ơn tiền bối đã thương tình chỉ giáo,
đã khai thị cho kẻ vãn sinh này. Xin đa tạ tiền
bối.
♣ ♣
Lều
cỏ lại trở lại im lìm. Từ núi rừng xa xa vọng
về tiếng vượn hú cọp gầm, tiếng be be của
sơn dương, tiếng líu lo của chim hót hòa với gió đưa
vào lều. Một giọng nói nhẹ nhàng như tiếng hát ru:
- Lều cỏ mà cũng bày đặt tiếp khách Xa Mã.
Rõ thật tởm cho hai lão độc vật. Một lão thì Làm
mà không Nói. Một lão thì Nói mà không Làm. Hôm nay hai
lão lại hoán vị cho nhau kẻ tung người hứng
để bịp thí chủ đấy. Đừng có tin.
Vị
tăng nhân bước lên nhà, tới chỗ ngồi của Lão sơn
nhân, bưng cái vò rượu không lên lắc lắc rồi giốc
ngược lên đầu lão Tiều cười hề hề. Qua chỗ ngồi
Lão chủ nhân rót trà ra đứng uống liền ba chung, đi thẳng
ra cửa. Ra tới giữa sân, Tăng nhân quay lại đọc
bài kệ:
Bản lai vô xứ sở
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị huyễn
Huyễn hữu tức không không.
Định Hương Trưởng Lão (Vietnam)
HVĐS
tạm dịch
Bản lai không xứ sở
Xứ sở là chân tông
Chân tông như huyễn hoặc
Huyễn hoặc lại chân không.
Đọc
dứt câu kệ chót, Tăng nhân quay lưng xuống dốc như bị
rượt đuổi. Tô Đông Pha tự cảm thấy Bài Kệ vị
tăng nhơn “tặng” cho riêng mình và cũng chẳng
dám buồn vì sự không được để mắt tới. Tô lên tiếng:
- Thưa nhị vị Tiền Bối, người vừa ra là...
- Là Phật Ấn đấy. Hắn là thứ “Bất
Giới Hòa Thượng”. Suốt đời lão
đi tìm cái Không trong Có, cái Có trong Không. Cũng chẳng
“đi đến đâu đâu” nên vẫn vân du, vẫn hạc
lội mây ngàn để tùy duyên hóa đạo, hóa đạo
tùy duyên. Lão giỏi lắm đấy! Quý khách nên
kết giao khi có thiện duyên. Lời lão trượng
chủ nhân nhỏ nhẹ nhưng rõ ràng. Rõ ràng là có sự
tôn kính với sư Phật Ấn vừa đi.
Được
tiếp cận với ba cao nhơn, Tô Đông Pha rất vui vì được
khơi gợi biết bao điều mà bản thân chưa sống trải nên
chưa biết, sách vở còn nhiều chưa được đọc.
Tô đứng lên nghiêm chỉnh thưa
- Tiểu sinh xin cáo thoái. Đa tạ nhị vị Tiền Bối
đã giành cho nhiều thì giờ và ban cho những lời vàng
ngọc. Nói xong, Tô vái dài mỗi vị một
vái rồi ra cửa.
Tô
không được đáp lễ bằng lời nói đã cam,
một cái gật đầu nhẹ cũng không, một
bước tiễn chân xuống núi cũng không. Thầy trò ông
cứ ngắm đường mòn đã đi mà hướng tới. Càng đi càng
thấy rừng núi thâm u. Đói, mệt đang băn khoăn thì
nghe một tiếng nói xa xa vọng tới:
- Thí chủ lạc đường rồi! Có mấy con
cá vô tội đã nướng và một nai rượu ta để trên
trạc ba cây trước mặt, lấy mà ăn rồi đi ngược
hướng mặt trời là hơn một canh giờ nữa về đến nhà.
Ăn uống xong là đi ngay đi, đi cho khỏi cánh rừng này nếu
không là làm bữa chiều cho cọp dữ đấy.
-
Xin thâm tạ Đại sư! Tô mỗ xin được...
- Hữu duyên thiên lý Đông Pha cư sĩ ạ.
Đời một con người thích đủ thứ là chả được
thứ gì cho ra hồn. Mọi sự, mọi việc đều: bất
- triệt - đe cả đấy!. Một tiếng cười
nhạt xa dần xa dần rồi rừng cây trở lại im lìm.
♣ ♣
° Năm 1086, Vương An Thạch đã thua phe thủ cựu, “Cựu
pháp” cùng những thối nát do bọn quần thần
quanh vua Tiết Tông (1064 - 1100) được
ở thế thượng phong, tha hồ vơ vét. Bọn ấy nhớ tới
một tay văn học đã bị biếm truất đời vua trước
nên tâu với vua Tiết Tông triệu ông về kinh làm vây cánh.
Người đó là Tô Thức, Tô Đông Pha.
Về
kinh, Tô Đông Pha được Tiết Tông thăng bổ làm
Hàn Lâm Học Sĩ rồi Binh bộ Thượng thơ. Ông
Bộ trưởng Quốc phòng lơ mơ lúc nào cũng
như ở trên mây. Cái gì ông cũng nửa vời. Phục vụ Quân
quyền: Nửa vời. Tranh đấu chống bạo quyền: Nửa vời,
Danh lợi: Nửa vời. Thoát tục: Nửa vời...
Nhiều
cái nửa vời ấy tạo nên một ông Bộ trưởng
Quốc phòng nhà Tống hoang mang trước một binh
đội tướng hèn binh yếu ngoài nội.
Trong triều thì bọn Trình Di nắm hết trọng quyền, chỉ
biết thủ lợi và dương danh. Tô Đông Pha
biết mình chỉ là con cờ, con rối trên bàn cờ, trong
sân khấu tuồng tích không hay!>
Cảnh
tĩnh lặng tuyệt vời nơi đất trích. Cảnh ồn
ào huyên náo nơi quan trường khiến Tô Đông Pha thấy
ngay được cái hiểu biết cạn cợt
của mình. Ông tự biết mình còn kém xa Vương An Thạch
từ ngày thật mục sở thị Minh Nguyệt sơn
đầu, Hoàng Khuyển ngọa... Bây giờ thì lại
càng kém họ Vương ở sở năng sở kiến. Nhỡn giới của
Vương to lớn quá. Vương đã thấy trước nhà Tống
không chịu thay đổi chính sách cai trị là mất nghiệp,
là loạn to. Ngay cả làm thơ để di dưỡng tinh thần,
ông Vương cũng thấu tình đạt lý:
Minh
mguyệt sơn đầu khiếu
Hoàng
khuyển ngọa hoa tâm
Còn
Tô Đông Pha ta, con mắt chỉ bằng hạt đậu không
nhìn ra núi Thái Sơn. Những lời lẽ tuy ít của ba
bậc cao niên ở rừng núi suy đi nghĩ lại đều
là những Cửa Lớn dẫn dắt mình tiến lên, tiến vào Đại
Đạo.
Thái
độ hiệp tác thiếu tích cực kèm theo sự
coi thường Trình Di khiến phe cánh họ Trình
ghét ông, nên ở cương vị lớn mà ngồi chơi xơi
nước được đúng ba năm thì Tô Đông Pha bị giáng
xuống làm Tri Châu châu Hàng Châu, Chiết Giang.
° Năm 1089 ở Hàng châu, Tô Đông Pha mở rộng cửa tiếp
giao với các danh sĩ các môn phái. Ông không phân biệt
Đạo gia, Nho gia hay Phật gia. Cũng từ đấy
Văn, Thơ của Tô Đông Pha toát ra vẻ
tiêu sái, phóng khoáng vô cùng.
Cái
cao ngạo của Tô Thức, tiến sĩ trẻ đã là
Tô Đông Pha già rồi nhìn thấu đời sống có
vô vi lẫn hữu vi, có Sắc đấy rồi Không đấy.
Làm gì có Hữu Cực mà Vô Cực. Tất cả là Vô Minh
từ nguyên thủy. Giống như bên Phật gia coi Thiền
là Thiền, không có sự tranh chấp để sở
hữu hay chối bỏ nên mới có thuật ngữ Sắc Sắc
Không Không.
♣ ♣
Ở
vào tuổi tri thiên mệnh rồi mà Tô Đông Pha còn để
cho bị biếm truất - Được phục chức thăng quan
rồi lại bị giáng chức. Như vậy,
hoạn lộ của ông quan Tô Thức gập ghềnh bị chông
gai cản lối. Nhưng đường đi của thi nhân
Tô Đông Pha thênh thang. Ông đã trải nghiệm
cuộc đời? Bằng bài thơ thất ngôn tứ tuyệt diễn ý
ông ao ước được một lần trong đời ngắm
Lô Sơn. Được đến, được ngắm nhìn chán mắt rồi
ông thấy gì? Chỉ thấy:
Lô
sơn yên tỏa Chiết giang triều
Vị
đáo sanh bình hận bất tiêu
Đáo
đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô
sơn yên tỏa Chiết giang triều.
Tại
Vietnam ta, các cụ chỉ coi họ Tô là
một thi sĩ. Thơ văn của Tô Đông Pha ở đâu đó được
trích dẫn để so sánh cũng rất mờ nhạt. Riêng bài thơ
tứ tuyệt chỉ có 28 chữ thôi nhưng đề
và hoàn đe lại rất đạt. Nội
dung lại tuyệt vời nói thẳng ra sự hư huyễn ngắn
ngủi của đời người trước biến dịch
của thiên nhiên nên đã có chí ít là hai bản thơ dịch:
Bản
dịch 1
Mù
tỏa Lô sơn sóng Chiết Giang
Đi
chưa đến đặng hận muôn ngàn
Đến
rồi về lại không chi lạ
Mù
tỏa Lô giang sóng Chiết giang.
Trúc Diệp
Thiền sư (Huế - Việt Nam)
Bản
dịch 2
Khói
ngút non Lô sóng Chiết giang
Khi
chưa đến đó luống mơ màng
Đến
rồi hóa vẫn không gì khác
Khói
ngút non Lô sóng Chiết giang.
Trúc Thiên
(Saigon - Vietnam)
Mấy
chục năm trở lại đây, có nhiều Đại
gia viết về Tô Đông Pha. Tôi hậu sanh thiển
học nhưng để ghi nhận một lần gặp gỡ nói chuyện về
Tô Đông Pha với nhà thơ lão thành Tống Hồ Cầm nên viết
bài này.
II
Đọc
và viết về Tô Đông Pha do các cụ của ta viết
về vị thi sĩ nhà Tống này “rất
lịch sự”. Tự ái dân tộc trong tôi dâng trào.
So sánh với Cao Chu Thần của ta, ông Tống Tàu Tô Đông
Pha còn kém cạnh xa.
Tô
Đông Pha con nhà đại phú hào, thân sinh ra ông được
phong tiến sĩ, rồi làm quan lớn. Cao Bá Quát
- Cao Chu Thần chỉ là con một cụ đồ, cụ đồ Cao Cửu
Chiếu ở làng Phú Thị, huyện Gia Lâm tỉnh Bắc
Ninh. Không thấy sách nói cụ có ứng thí rồi trượt hay
đã đậu bằng cấp gì. Nhà cụ đồ rất nghèo
nhưng anh em Cao Bá Đạt, Cao Bá Quát học rất giỏi. Được
thụ giáo chính thân phụ là cụ đồ Cao.
Nhà
nghèo, ngay từ còn đang học đang thi Cao Chu
Thần đã phải đi dạy học để lấy lương
ăn. Một câu nói lúc còn trẻ của ông khiến người
ta nhớ mãi, nhớ một cách thù hận rằng: “Cả thế
gian này có bốn bồ chữ,
Quát tôi có hai bồ. Anh tôi là
Bá Đạt và bạn tôi là Nguyễn Văn Siêu chia
nhau một bồ. Còn một bồ phân phát cho các kẻ
học trong thiên hạ”.
“Tiếng
lành đồn xa - Tiếng dữ đồn xa”. Cả thiên hạ mà có
mỗi một bồ chữ để chia nhau. Thế ra thiên
hạ dốt cả, - Thiên hạ có mình. Mà mình thì có quyền
có thế. Vua biết mặt chúa biết tên. Cao Bá Quát!
Mi là ai? Mi đi thi, mi làm quan rồi mi biết.
° Năm Minh mạng thứ 12 (1831), Cao Bá Quát đã đậu Á Nguyên
kỳ thi Hương, thay vì khôi nguyên Thủ khoa. Thế mà “Bộ
Học xét lại” đánh tuột xuống cử nhân hạng
bét. Mấy lần đi thi Hội, ông đều bị đánh trượt
về phạm trường qui do sự dụng tâm của quan trường.
°
Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841) Quan tỉnh Bắc Ninh có bụng
liên tài nên đề bạt với triều đình, Cao Bá Quát được
sung chức Hành Tẩu Bộ Lễ là một chức
quan nhỏ, tạm thời để làm những việc
vặt trong Bộ. Nhân được phái làm Sơ Khảo
trường thi Thừa Thiên, ông dùng muội
đèn sửa quyển giúp mấy thí sinh văn bài rất khá
lại bị phạm húy. Việc bị phát giác do các đồng sự
tố cáo, Cao Bá Quát bị phát phối vào Đà
Nẵng. Gặp lúc Sứ bộ sang Tân Gia Ba, Phái bộ này do Phạm
Phú Thứ là Chánh sứ, Ngụy Khắc Đản là Phó sứ ra
lệnh cho Cao Bá Quát tháp tùng với chức
danh Bồi sứ. Được đi ra ngoài, nhãn giới được
mở rộng, Cao Chu Thần không dâng biểu điều trần như
quý vị Phan Thanh Giản, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn
Trường Tộ... Vua và đình thần sẽ không tin
những điều ông mắt thấy tai nghe khi bẩm báo. Biết
đâu họ chả khép vào tội “yêu ngôn yêu thư”... Nhưng
không nói không được, Cao Chu Thần
ký thác tâm sự vào một bài thơ có cái tên dài là: “Đề
Sau Khúc Yên Đài Anh Ngữ của Quan Đô
- Sát Bùi Công”. Bùi Công là ai? Nhà văn Trúc
Khê mất công dịch ra quốc âm theo thể lục bát gồm 30
câu lại không chú thích rõ họ Bùi là ai.
Xin trích tám câu sứ trình là tâm trạng Cao Chu Thần:
Nhai
văn nhá chữ buồn ta,
Con
giun có biết đâu là
cao sâu
Tân
- gia vừa vượt con tầu
Mới
hay vũ trụ một bầu bao la
Giật
mình khi ở xó nhà
Văn
chương chữ nghĩa chỉ
là trò chơi
Không
đi khắp bốn phương trời
Vùi
đầu án sách uổng đời làm trai.
Không
học không biết, không đi không hay. Mà có
đi thật nhiều, đi đến mòn gót, dốt nát quá
cũng chẳng nhìn ra vấn đề. Đất nước thì
thù trong giặc ngoài, cứ như cái nhà cũ ọp ẹp trong
mối mọt đục khoét ruỗng ruồng, ngoài
thì mưa gió bão bùng.
Nếu
Tô Đông Pha bị bọn Trình Chu triệt đường
tiến thủ bởi họ nhân danh Tống Nho để tác oai
tác quái với mục đích dương danh hậu thế. Tô Đông
Pha không bị áo cơm ràng buộc. ỷ vào chỗ thế gia nguy
khoa hiển hoạn, họ Tô chỉ bị ghét vì tính kiêu
ngạo bất hợp tác với cánh họ Vương và sau là cánh họ
Trình.
Trái
lại, Cao Chu Thần phải làm quan vì sinh kế. Làm
quan để thực hiện những hoài bão lớn đã ấp
ủ từ ngày còn tấm bé: “Nét hào
hoa chừng nấn ná Tân, Dương lời khí
khái thì thầm Y, Phó”, để
“xoay bạch ốc lại lâu
đài” để “gánh vác giang sơn”.
Cao
Chu Thần đã sanh nhầm thời. Ông ra đời giữa lúc
Việt Nho tan rã. Từ thời Minh Mạng; dân nước đã
lưu vong đói khổ, lại thêm chế độ hà khắc,
bạo động xảy ra ở khắp nơi. Phan Bá Vành, Lê Duy
Lương, Nông Văn Vân, lê Văn Khôi... Những ông ấy
tự cho mình cái quyền tàn sát dân chúng.
Bọn tham quan ô lại lợi dụng thời cơ vơ vét tạo
ra cảnh rối bời trên khắp nước.
Thời
loạn là cơ hội ngàn vàng cho bọn võ dõng
múa gươm hò hét chứ đâu phải là
thời cho văn nhân thi sĩ múa bút. Cao Chu Thần lại không
giống như Nguyễn Công Trứ cam tâm “nghiêng mình
đứng chực cửa hầu
môn... mỏi gối quỳ mòn sân tướng phủ”
để tự hãnh: “Lúc bình Tây cờ
Đại tướng. Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Đến lúc chầu trời, dân Doanh Điền
tại Kím Sơn Tiền Hải ở Nam Định Ninh Bình đã
có đôi câu đối thờ Quan Doanh Điền Sứ, để báo
cựu ân:
Sự
nghiệp kinh luân thiên hạ
hữu
Phong
lưu đáo lão thế gian hy”.
Nghĩa:
Sự
nghiệp như “ông”
nhiều kẻ có
Chơi
bời giống “Cụ” ít ai
đương.
HVĐS tạm
dịch
Ngoài
nội nhiễu nhương như thế. Trong triều vua quan an nhiên
tự tại “nhai văn nhá chữ ”ở Mặc Vân Thi Xã, ca tụng
vẻ thanh bình giả tạo. Hội thơ này lại chính
“đức kim thượng” Dực Tông là Nguyên soái.
Hội thơ được lập bởi các Vương Công, và các quan lớn
trong triều.
Cao
Chu Thần được sự tiến cử của quan đầu tỉnh Bắc
Ninh, ông vào kinh trổ tài văn học. Một quan chức
nhỏ xíu mà vua biết mặt chúa biết tên. Cả nước kính
phục cụ đồ Cao đã cùng một lúc đào tạo được hai
nhân tài cho đất nước để vua Tự Đức phải khen
- Nhân tiện đức vua khen cả hai ông Chú của mình
là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương thành
đôi câu đối thật chỉnh:
Văn
Như Siêu, Quát vô tiền Hán
Thi
đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường
Thói
đời, thấy vua yêu thì chúa mến, Chu Thần
được xưng tán là: “Thần Siêu Thánh Quát”.
Các quan lớn cầu thân, mời ông vào Thi xã.
Ông chối từ bằng:
“Ngán
thay cái mũi vô duyên
Câu
thơ Thi Xã con thuyền Nghệ
An”.
Cao
Bá Quát ghét thói ngụy quân tử mà đại diện
là Nguyễn Công Trứ và tài cán của các quan
lớn như Hà Tôn Quyền là đại biểu; bằng đôi câu
đối dán ở cổng nhà nhân ngày Tết; ông lấy nghĩa chữ
trong sách Trung Dung (mỗi vế xin bỏ 4 chữ đầu,
không cần thiết):
“Quân
tử ố kỳ văn chi Trứ
“Thánh
nhân bất đắc dĩ dụng Quyền
Câu
đối, nghĩa chính nghĩa thực rất tốt. Nhưng nghĩa
xấu, nghĩa mỉa mai rất ác:
“Người
Quân tử không thể nào ưa được (anh) Trứ
“Đấng
Thánh nhân bất đắc sĩ mới dùng (anh) Quyền ”.
Thế
là Cao Chu Thần tự cô lập mình. Càng dữ
dội hơn khi ông giễu cợt cả Vua. Khi vua Tự Đức đang
đắc ý với hai câu thơ vừa sáng tác trong đêm mà
Vua nói do một vị thần nhân đọc cho nghe lúc chiêm bao:
“Viên
trung oanh chuyển khà khà ngữ
“Dã
ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Đình
thần đồng thanh khen là thánh thơ thần thơ. Duy có Cao Chu
Thần tâu: Đó là hai câu Thực trong một bài thơ mà ông
đã nghe hồi còn bé. Vua hỏi toàn bài, ông ứng khẩu liền:
“Bảo
mã tây phong huếch hoác lai
Huênh
hoang nhân tự thác đề hồi
Viên
trung oanh chuyển khề
khà ngữ
Dã
ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân
nhật bất văn sương lộp bộp
Thu
thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khề
khà thi tứ đa nhân thức
Khệnh
khạng tương lai vấn tú
tài”.
Bản
dịch của Trúc Khê!
Ngựa
báu theo gió tây huếch hoác lại
Huênh
hoang người tự theo về
Trong
vườn tiếng oanh hót khề
khà
Ngoài
đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày
xuân chẳng thấy sương lộp
độp
Trời
thu chỉ thấy những mưa bài nhài
Khù
khờ câu thơ đã nhiều người biết
Còn
khệnh khạng đem hỏi các nhà
văn học”
Cái
mẫn tiệp có tính cách cao ngạo đã đến độ
quá mức chịu đựng của mọi người.
Cái người họ Cao đáng yêu bao nhiêu khi “chỉnh lý”
đôi câu đối ở Điện Thái Hòa:
Thần
khả báo Quân ân
Tử
năng thừa Phụ nghiệp.
thành
ra:
Quân
Ân thần khả báo
Phụ
nghiệp tử năng thừa.
Chu
Thần chỉ xắp xếp lại từ ngữ (viết theo
lối chữ nho) cho thứ bực vua tôi, cha con không
còn nghịch đảo nữa. Kể ra ông cũng biết
tự giới thiệu mình khi mới tới kinh thành.
Kiêu
khí của ông ngày còn trẻ ở Bắc Hà
khiến ít kẻ ưa. Đến lúc vào Kinh
biến thành ngạo khí. Ở Tân Gia Ba về thì biến ra kiêu
ngạo. Ông chán đời thì đời cũng chán ông.
Ông khinh thế ngạo vật một, “thế vật”
ngạo lại ông gấp mười lần hơn.
♣ ♣
Về
phương diện cá nhân, Tô Đông Pha chỉ buồn
là không được đem sở học phục
vụ vua, không được gần vua Tống để tận
tụy. Còn Cao Chu Thần thì ngược lại, ông có
tất cả rồi lại không tất cả. Có
nguyên nhân tiềm ẩn từ xa xưa:
° “Người hùng áo vải đất Lam Sơn” Thanh Hóa vào Thăng
Long tuyên Bình Ngô Đại Cáo xong là lần lượt
khử Trần Nguyên Hãn cho dứt sự dây dưa với
Triều Trần. Kế đến chu di tam đại Nguyễn Trãi để
sĩ phu Bắc Hà răm rắp phục vụ. Rồi nhà Lê
thua nhà Mạc. Nhà Lê trung hưng, đất nước có
vua lại có chúa. Quyền uy tập trung về bên phủ Chúa. Bên
Phủ Liêu mới là “triều đình” do lính Tam Phủ được
Trịnh Kiểm mang từ Thanh Nghệ ra bảo vệ.
Họ trở thành Kiêu Binh do nhà Chúa
ban cho rộng quyền được hãm hiếp, được phá nhà,
được giết bỏ những người Chúa
không ưa. Lâu dần thành quen thành tật. Dân buôn bán
ở kinh kỳ gọi họ là cậu hay các cậu và sợ như
sợ hủi.
° “Người hùng áo vải đất Tây Sơn” Qui nhơn ra Bắc diệt
Trịnh rồi Đại phá quân Thanh. Lần thứ nhất Nguyễn Huệ
ra với danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh. Lần thứ
nhì chặt cổ cha con Nguyễn Hữu Chỉnh. Lần thứ ba băm
xác cháu rể là Vũ Văn Nhậm và lần thứ tư Đại
phá quân Thanh. Mỗi lần Nguyễn Huệ sau là Quang Trung ra
Bắc là một lần hủy diệt. Dân khổ dân oán, sĩ
phu coi thường ở sự:
“Cương
lồng chinh mã què chân hạc
Củi
thổi quân lương chẻ chữ
thờ.
Đông
Hồ
Đại
thắng quân Thanh, đuổi Thống soái Tàu Tôn Sĩ Nghị chạy
dài. Chưa ai dám so sánh lính Đàng Trong của Tây Sơn
với lính Tam Phủ của Chúa Trịnh. Nhưng dân Bắc
Hà vẫn coi quân Tây Sơn là quân ngoại nhập, quân
chiếm đóng. Chắc là cũng tàn ác lắm ở chế độ
cai trị khắc nghiệt. Đến lúc Cảnh Thịnh thua
Nguyễn Ánh, chạy ra Bắc bị dân Bắc
Hà nổi dậy chống đánh chưa hẳn là họ theo Nguyễn
Ánh. Nhà vua lúc ấy mới biết quan,
tướng của mình là lũ ác ôn, đã làm mất lòng dân, khiến
trăm họ Bắc Hà lầm than:
“Chiến
công dẫu kín thành lầu Bắc
Chính
khí còn cao dấu cột cờ”.
Đông
Hồ
°
“Người hùng Áo Gấm “Nguyễn Ánh lên ngôi năm 1802 lấy
đế hiệu là Gia Long. Cũng lập Quốc đô ở
Phú Xuân như Quang Trung. Ông lập Trấn Bắc Thành
cai trị cả miền Bắc có quan Tổng trấn. Thủ đô Thăng
Long chỉ còn là một tỉnh, tỉnh Hà Nội. Nên
bà Huyện Thanh Quan “Nhớ nước
đau lòng con quốc quốc”. Ông hay bà Hồ Xuân Hương:
“Trấn Bắc hành cung cơ dãi dầu”. Nguyễn Du ra làm
quan với Gia Long để cứu đại gia đình vẫn rầu rĩ như
cô Kiều bị mất trinh tiết với Mã Giám Sinh:
“Nghĩ mình mình lại
thương mình xót xa”. Trước đó, bào huynh ông là Nguyễn
Nễ cũng phải cộng tác với Nguyễn Huệ để giữ
gìn được mồ mả tổ tiên và ngôi Từ Đường
dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền.
Nguyễn
Ánh thắng được Tây Sơn khi Quang Trung đã băng
hà. Đuổi và bắt được Quang Toản Cảnh
Thịnh và quan, tướng Tây Sơn. Người hùng áo gấm, xuất
thân danh gia đã ở cương vị Quân Chủ rồi mà phẩm
lượng như kẻ thất phu khi đem các văn thần của
Quang Trung gốc Bắc; như Ngô Thời Nhiệm,
Phan Huy Ích ra hành nhục tại Văn Miếu. Ai tham vấn cho Gia
Long làm việc ấy? Tổng Trấn Bắc Thành Nguyễn Văn
Thành hay ai khác? Đâu có phải Đặng Trần Thường
tự ý dám chuyên quyền hành bạo .
Ý
hẳn Gia Long muốn dằn mặt sĩ phu Bắc Hà. Thì ra, ai cũng
than cũng khóc mất nước là đúng. Dân Bắc Hà một
lần nữa lại coi Gia Long như kẻ xâm lăng. Người
Việt Nho cuối cùng là ông Nghè Phú Thị Chu Mạnh Trinh
cũng được liệt vào hàng nguy khoa hiển hoạn của
nhà Nguyễn, ông vẫn coi sự chiếm đóng song trùng của
nhà Nguyễn và của Pháp là một điều đau đớn:
Cung
miếu triều xưa nay vắng ngắt
Trăng
tà khắc khoải quốc kêu thâu.
Nguyên
tác
Tịch
mịch tiền triều cung ngoại miếu
Đỗ
quyên đề đoạn nguyệt âm âm.
Chu Mạnh
Trinh
Chính
sách phân biệt đối xử với người Đàng Ngoài
rất rõ rệt: Từ học hành thi cử đến
thăng bổ quan chức. Đã là Đàng Ngoài thì phải
chấp nhận là công dân hạng hai. Tất cả ưu tiên
giành cho dân Đàng Trong, nhất là vùng đất
mới khai phá Nam kỳ Lục tỉnh, thế mà mới
có mỗi tiến sĩ Phan Thanh Giản và nhóm Tam Gia
Thi, học trò thầy Võ Trường Toản và một
vài Tú Cử. Vạn bất đắc dĩ mới sử dụng
“các anh Bắc kỳ” vào cơ chế công quyền nhưng
phải tuyệt đối trung thành như quý
vị họ Nguyễn ở Yên Đổ, họ Dương ở Vân Đình...
Trường
hợp cử nhân Bùi Viện, người Thái Bình được ưu
ái vì có công vượt biển sang tận nước Mỹ cầu
viện trợ uy và nhân lực đánh đuổi
Pháp là một ngoại lệ. Còn với Cao Bá Quát, một tên Bắc
Kỳ ngang ngược. Việc thi đậu Á Nguyên rồi lại phải
xuống rốt bảng ở kỳ thi Hương và không
được đậu ở thi Hội có trong một kế sách nào không?
♣ ♣
Một
tác giả hý hước viết về Trần Tế Xương, đại
ý: Một tiên đồng nhà trời làm bể cái chén
ngọc. Thượng Đế cho nghị tội. Có Nam Tào
Bắc Đẩu ghi chép, Một Tiên Cô đề nghị cho “nó”
xuống trần gian làm người Việt Nam. Ban cho “nó”
trí thông minh, học giỏi. Nhưng chỉ cho đậu
Tú Tài, lấy vợ mắn đẻ.
Vị
Tiên Ông khoảng 34 tuổi Tây lấy làm thắc mắc hỏi:
- Tại sao lại cho hắn đậu Tú Tài để làm
cái giống gì?
- Cho đậu Tú Tài để không làm được quan,
mà cũng không làm được cái giống gì khác.
Ngoài việc làm đàn ông. Vì ở Việt Nam chúng
nó trọng người có học lắm, dù chỉ có đậu Tú Tài.
Tiên Cô trả lời.
Lại
một Tiên Cụ trên cổ lai hy mắt lóe sáng hỏi
tới:
- Thế cho hắn lấy vợ mắn đẻ để làm
gì? Thế thì tối ngày hắn phải làm vú đực
à? Không đi đâu được, buồn bỏ mẹ chứ chả chơi!
- Em cam đoan ở hạ giới chúng nó không buồn
vì nhiều trò du hí. Còn sinh năm đẻ bảy thì
mới đầu ba năm đôi, sau là lôi thôi năm một.
Để cả ổ nhà nó nheo nhóc chơi: Để:
Một
đàn rách rưới con như bố
Ba
chữ nghêu ngao vợ chán chồng.
Một
Tiên Bà ái ngại cho tên Tiên Đồng lên tiếng:
-
Chữ nghĩa có chỉ để nghêu ngao thế là
“nó” phải ăn đói mặc rét rồi. Còn đâu khả
năng mà du hí.
-
Chị đừng lo. Ở hạ giới, nhất là ở
Việt Nam. Nhiều đứa coi sách vở là đồ
quốc tặc, chữ nghĩa là kẻ đại thù. Hễ có tí
chữ nghêu ngao không thiếu gì kẻ đưa người đón
đến ca lâu tửu điếm cho đỡ vã. Còn thường thì: đã
nghèo là phải khổ rồi, đã khổ là phải ngông...
- Cô em còn trẻ, nói những lời phi lý ấy ra làm
gì. Chị không tin! Mà sao cô em biết kỹ như rứa?
- Em mới đi công tác Việc Trời, nhân tiện kết hợp
đi thanh sát rồi Giải Độc. Thích lắm cơ chị ơi!
Một
tiếng thét như sấm rền, một tiếng đập bàn
như sét đánh. Thượng đế ra lệnh.
- Thôi! Khỏi nghị án. Thiên Lôi đâu? Liệng cổ
“phạm tiên tiểu đồng xuống hạ giới
ngay!” Cửa trời từ nay đóng kỹ. Các Tiên Nam
đi đâu? Làm gì cũng phải có phép của ta. Các Tiên
Nữ mỗi khi xuất Thiên Môn phải có phép
bằng giấy tờ. Phép phải ta đóng củ triện vào mới
hợp lệ. Nam Tào Bắc Đẩu và Thiên Lôi chấp hành!
♣ ♣
Cao
Chu Thần hơn hẳn Trần Vị Xuyên ở khoản
bằng cấp: Cử nhân rốt bảng. Còn Trần Vị Xuyên là:
“Tú rốt bảng trong năm Giáp Ngọ”. Chu Thần
có đủ tư cách ra làm quan. Nhưng cái chức quan ấy
hơi kỳ cục với Chu Thần: Hành Tẩu Bộ
Lễ! Bộ Lễ là Bộ dạy cả nước Lễ Nghĩa Liêm
Sỉ (như Bộ Văn hóa Giáo dục ngày nay). Còn Hành Tẩu?
Hành là đi, là làm. Tẩu là chạy, chạy nhanh.
Công việc luôn luôn phải gấp gáp do các
quan lớn trong Bộ sai vặt. Nhưng Cao Chu Thần lại được
phái đi làm Giám Khảo kỳ thi Hương ở ngay
Phú Xuân. Việc đã xảy ra như đã thưa ở trên.
Nếu
quan đại thần Phạm Phú Thứ, Trưởng phái bộ đi
công cán Tân Gia Ba không thiếu một Bồi Sứ có tài
thì có lẽ không gây tai họa cho đại gia đình họ
Cao. Sau sứ trình, ông được phục nguyên chức cũ, vài
năm sau được thăng chức Chủ Sự. Chủ sự là chức
tương đưong với Trưởng phòng ở Sở, Nha
hay Bộ bây giờ. Từ chức vụ khiêm nhường này Cao
Chu Thần được thăng vượt cấp lên Giáo Thụ. Ra
Sơn Tây làm Học Quan ở tỉnh này. Theo quan chế nhà
Nguyễn, Học quan có bốn cấp : Huấn đạo ở huyện, Giáo
Thụ ở phủ hay tỉnh nhỏ, Đốc Học ở tỉnh
lớn, ở trong Kinh là Thượng Thư coi cả Bộ.
Cao
Chu Thần tự nhiên được thăng vọt lên hàng quan
lớn. Có phải là cách tống xuất ông khỏi
kinh thành khi đức Vua và Công Hầu Khanh
Tướng không ưa?
Đến
nhậm chức tại Sơn Tây kế cận tỉnh sinh quán:
“Nhà
trống, một thầy một cô một chó cái
Học
trò; dăm đứa nửa người nửa ngợm nửa
đười ươi”.
Chu
Thần buồn bực vì chí chưa thành, danh chưa
đạt theo ý mình mà phát bẳn ra như
vậy. Chắc quan Giáo Thụ buồn vì quang cảnh ở tỉnh
lẻ, ở “Học Phủ” hoang lạnh nên nói là “nhà trống”.
Còn học trò đã qua sự khảo hạch kỹ lưỡng
của quan Huấn Đạo đưa lên cấp: Tỉnh học, họ đã
là các khóa sinh chuẩn bị Hương thí, đâu phải
là thứ “đười ươi, nửa người, nửa ngợm”.
Nhiệm
vụ của quan Giáo Thụ là giáo dục cho
các sĩ tử một khu vực biết: Quân Thần,
phụ tử, phu phụ, huynh đệ, bằng hữu...
theo đúng đạo lý. Nhưng người ta đi học mong làm
quan chứ ít ai mong làm người. Nên cảnh:
“Mô
phạm dăm ba thằng mặt trắng
Đỉnh
chung chiếc rưỡi cái lương vàng”.
Nhưng
làm quan lương quá thấp. Đỉnh chung gì mà
có chiếc rưỡi cái lương vàng. Lương màu
vàng là lương bằng thóc. “Chiếc rưỡi” là
bao nhiêu cân, bao nhiêu ký? Chỉ nên biết là Làm - Quan
- Lương - Rất -
Thấp. Muốn “Đỉnh Chung” cứ việc xoay sở thoải
mái. Cao Chu Thần không có “máu” ấy. Ông nhìn
toàn bộ nền giáo dục của nhà Nguyễn chỉ đào tạo
ra đười ươi, cùng lắm thì nửa người, nửa ngợm. Đất
nước gì mà sản sanh ra người lại biến thành dười ươi?
Dân tình nheo nhóc khốn khổ vì lũ đười
ươi quyền thế cai trị. Bọn thời văn xun xoe
quanh vua đâu cần biết đến cảnh ngoài kinh thành;
cảnh:
“Nhân
dân trói buộc vòng nô lệ
Tám
vế thơ văn giấc ngủ
nồng”.
Nguyên tác:
Vạn
dân nô lệ cường quyền
hạ
Bát
cổ văn chương túy mộng trung.
Phan Chu
Trinh
Vua
quan như thế, chính sách cai trị thì hà
khắc của nhà Nguyễn đối với toàn dân,
nhất là đối với dân Bắc kỳ khiến Cao Chu Thần
có những ưu tư. Ông không thể ngủ vùi để cầu
cạnh một thứ ân sủng mà chính ông tởm lợm rồi mong
thăng quan tiến chức như một đồng liêu Học Quan
cấp huyện:
Hoàng
Triều, Tự Đức Quân Vương Thánh
Huấn
Đạo, Yên Phong Huấn Đạo Thần.
(?)
Cao
Chu Thần dư sức làm thơ cầu danh vọng kiểu đó,
lại dư hoàn cảnh vì ở ngay trong kinh thành với các
ông Hoàng bà Chúa mến mộ ông.
Ông
đang mong mỏi có một sự thay đổi lớn rộng thì Lê Duy
Cự đến mời ông làm Quân Sư cho cuộc đổi thay này.
Cuộc
nổi dậy chống nhà Nguyễn được phát động với
cờ thêu đôi câu đối:
“Bình
Dương Đồ Bản vô Nghiêu Thuấn
Mục
Dã Minh Điền hữu Võ
Thang.
Dĩ
nhiên Cao Bá Quát thua,
“đeo vòng thư kiếm... xoay bạch
ốc lại lâu đài” cho muôn dân đâu có dễ như
múa bút, viết văn, làm thơ.
Sử
nhà Nguyễn ghi: “Mùa
đông năm 1854, cuộc biến loạn phát khởi
tại Mỹ Lương (Sơn Tây) và
tràn ra các vùng lân cận”.
Sử
thần của Triều đình cũng không dám ghi Cao Bá
Quát làm giặc, chỉ nhân năm đó vùng trung
du Bắc Việt bị nạn châu chấu hoành hành
tàn phá mùa màng mà gọi là Giặc Châu-Chấu có
Cao Bá Quát tham gia.
Kết thúc tang thương này dẫn đến: Hai con ông là Cao Bá
Phùng và Cao Bá Thông phải chết chém ngay năm
1854 tại bản quán là làng Phú Thị. Anh ông là Cao
Bá Đạt đang làm tri Huyện huyện Nông Cống
Thanh Hóa bị bắt ngay tại Huyện đường và đã
tự tử ngay khi bị áp giải. Cháu ông là Cao Bá Nhạ
trốn thoát nhưng cuối cùng cũng bị bắt, bị xử tội
chết sau khi Đức vua Tự Đức đọc văn bản Tự Tình
Khúc. Họ Cao phải tuyệt tự!
Riêng
Cao Bá Quát thì mỗi “nhà” ghi mỗi khác:
°
Người thì biểu: ông và hai con bị đưa về làng Phú
Thị, chém đầu ngay để “thị chúng” và cũng
để cho các cánh quân khác của ông cùng
những tàn quân hết hy vọng trỗi dậy.
°
Người lại biểu: Cao Bá Quát bị đóng cũi? Đóng gông
giải về Hà Nội, rồi đưa về Kinh xét xử
nên mới có đôi câu Cảm Khái:
“Một
chiếc cùm lim chân có Đế!
Ba
vòng xích sắt bước thì
Vương!
° Sách Thực Lục Chánh Biên thì chép:
“Khi ông đem viện binh cho cánh
quân ở Yên Sơn. Ông bị viên Suất
Đội (của triều đình) là
Đinh Thế Quang bắn chết”.
Đâu
là sự thật? Ai? Ở đâu? Nghe được đôi câu này:
Ba
hồi trống giục: đù cha kiếp!
Một
nhát gươm đưa đéo mẹ
đời!
Kể
từ năm Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi: Gia Long nguyên
niên (1802) đến ngày vua Bảo Đại thoái vị (1945)
tính ra được 145 năm. Trên
danh nghĩa, triều đình nhà Nguyễn làm chủ đất nước.
Trong thực tế thì không phải vậy, những người
có huyết khí nổi dậy chống đối nhà
Nguyễn ở miền Bắc đều bị triều đình kết án là
giặc. Còn tụi đói ăn vụng, túng làm càn
cũng tụ bè kết đảng lợi dụng sự hà lạm của các
quan cai trị mà hoành hành. Điều mà các sử
thần nhà Nguyễn viết là: “Thế tổ Cao
Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người
theo phục...” chỉ là những điều được đẽo
gọt trưng ra cho đẹp. Nhà Nguyễn chả
làm chủ được toàn cõi Bắc kỳ bao giờ. Danh nghĩa
triều đình Huế càng mờ nhạt với dân Bắc kỳ
khi đất này biến thành Bảo Hộ của Pháp. Vì
thế, nhà Nguyễn đã mất đất Bắc từ năm 1802.
Cái
tính kiêu kỳ của Sĩ Phu Bắc Hà: “Uy vũ bất
năng khuất” tạo thành rất nhiều Cao Bá Quát. Còn
nhiều Cao Bá Quát “đói thấy thóc Chu
mà trả” chứ không làm Bắc kỳ gian như Ngô Thời
Nhiệm, Đặng Trần Thường...
Thái
độ của Sĩ Phu ảnh hưởng đến tính cách người
dân toàn cõi: Ù lì, cam chịu, nhọc nhằn cuốc bẫm
cày sâu để quan quyền bóp hầu bóp họng. Họ
coi như “bố thí” cho quân ăn cướp. Thái độ ghẻ lạnh
của dân Bắc kỳ với nhà Nguyễn là việc coi cuộc
xâm lăng của Pháp vào quốc thổ như ông
Tây Sơn ra thay ông Trịnh Khải, ông Vũ Văn
Nhậm ra thay ông Nguyễn Hữu Chỉnh. Ông Tây
Trắng thay ông Nguyễn da vàng. Không
hơn không kém.
Trường
hợp dấn thân của Cao Chu Thần là một hiện tượng.
Hiện
tượng Cao Bá Quát muốn cứu lấy quê
hương nhỏ bé của mình.
Đáng
thương cho tác giả “Văn Tế Tướng Sĩ Trận Vong”
- Một kiệt tác trong văn chương là ông Nguyễn
Văn Thành, người thi hành và tác ác thay
Gia Long ở Qui Nhơn. Khi bình định xong đất khởi nghiệp
của nhà Tây Sơn, Qui Nhơn đổi là tỉnh Bình Định.
Từ Bình Định, Nguyễn Văn Thành ra làm
Tổng Trấn Bắc Thành. Công việc cả đất Bắc nhiều
hơn, tế nhị hơn. Thế mà Nguyễn Văn Thành vẫn làm
tốt công việc trấn áp.
Không
biết có phải những oan hồn của người Qui Nhơn và
của cả đất Bắc kỳ báo oán hay không mà ông bị vua
Gia Long khử vì cái tội ngông nghênh của cậu con trai
làm thơ tự khí nhiễm cái ngạo khí tuổi trẻ của
thanh niên Bắc Hà thuở ấy. Người tố cáo ông là
Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Nam Thành (Gia Định Thành)
.
Như
vậy là Tổng Trấn Gia Định Thành nhất cử lưỡng
tiện. Vừa trả được cái hận bị Nguyễn Văn
Thành coi khinh là đồ yêm hoạn vô học. Vừa tỏ dạ trung
thành với Quân Vương là không để một chi tiết nhỏ nào
xâm hại đến triều đình.
Rồi
Đức Tả Quân quyền uy một cõi cũng “bị tiêu
vong danh giá” bởi vị vua thứ nhì nhà Nguyễn là Minh
Mạng. Hậu quân Lê Chất đang là Tổng trấn Bắc Thành
kế nhiệm Tiền Quân Nguyễn Văn Thành - Cũng bị xử tội
chết. Chỉ có Hữu Quân Võ Di Nguy chết giữa trận tiền
là mồ yên mả đẹp.
Các
vua nhà Nguyễn đối đãi với những huân thần
có công hãn mã phò giúp cho chiếm ngôi thái cực
mà còn bị như thế. Ai dám hết lòng nữa? Nhất là
dân Bắc kỳ.
Những
năm tháng sống ở đế kinh, Cao Bá Quát đã nhìn rõ tâm
can đấng vương thượng nên bày ra trò ngạo ngược
giống như Đông Phương Sóc của Tàu để bỡn
cợt cho vui. Biết đâu lại thay đổi được phần nào.
♣ ♣
So
sánh hai nhân vật ở hai đất nước cùng có chung
một nền văn minh lấy chữ Nho làm điểm tựa:
Tô
Đông Pha với cái học Tống Nho, bế tắc. Vua thì
ấm ớ, không chuyên quyết. Quyền thần thì
vênh váo lại là bọn Học Phiệt hám
danh, suy tưởng viển vông rồi lập ra tông phái để
dương danh. Tô Đông Pha là nạn nhân thời
cuộc lúc ấy ở bên Tàu. Nhờ uy tín của cha và
anh, ông được toàn mạng. Nhờ có hai lần ra đất
Trích nên ông đã có thêm hai nguồn tư tưởng
nữa là Phật và Lão.
Cao
Chu Thần với cái học Việt Nho cũng bế tắc chẳng kém.
Vua thì vô nhân bất đạo. Văn võ bá quan vướng vào
cái vòng luẩn quẩn: Có tỏ
dạ trung thành mới được thăng bổ. Có
được thăng bổ mới có tiền có bạc. Có
tiền có bạc rồi phải có “cúng khấn”
theo hệ thống. Có trong hệ
thống mới được thăng mau bổ
sớm...
Cao
Chu Thần đã được ở trong hệ thống
khi sửa đôi câu đối ở Điện Thái Hòa.
Ông đã gãi đúng chỗ ngứa của Đức Kim
Thượng ở vế xuất: “Quân
ân thần khả báo”. Coi như xong khi đã hưởng phấn
vua lộc nước. Còn vế đối; “Phụ nghiệp
tử năng thừa”? Cụ đồ Cao Cửu Chiếu là danh
sĩ, là sĩ phu Bắc Hà. Cao Chu Thần không thể ra luồn
vào cúi “mỏi gối
quì mòn sân tướng phủ”.
Đọc
“Tố Như Thi” do Thi sĩ Quách Tấn sưu tập và dịch ra
quốc ngữ. Có bài: Tiễn Ngô Nhữ Sơn Ra Trấn
Nhậm Nghệ An – Tống Ngô
Nhữ Sơn Công Xuất Nghệ
An:
Cẩm
La dừng lại vó chinh an
Gặp
dễ xa nhau chẳng dễ
dàng
Hai
nước danh thơm tài ngọc chuốt
Đầy
xe mưa thấm dặm Châu Hoan
Việc
theo tánh đạm mong thường rảnh
Trời
vị dân đen khiến chửa nhàn
Ngắm
vọi Hồng Sơn cao đức mọc
Rượu
xa mừng rót chén hương quan
Nguyên
tác
Cẩm
La giang thượng khấu chinh an
Bái
hội phi nan tích biệt nam
Bát
đại kỳ văn hoa lưỡng quốc
Nhất
xa cao vũ nhuận toàn Hoan
Nhân
tòng đạm bạc tư vị
chánh
Thiên
vị kiềm lê bất phóng nhàn
Bắc
vọng Hồng Sơn khai đức diệu
Thiên
nhai cử tửu khách hương quan.
Triều
Nguyễn có rất ít quan cai trị thanh liêm như Ngô Nhơn
Tịnh. Biết Ngô ra làm Hiệp Trấn Nghệ An quê hương mình.
Nguyễn Du đang là Cai Bạ (Phó tỉnh trưởng hành chánh)
tỉnh Quảng Bình ra đón Ngô NhơnTịnh trước
đầu ngựa vì mừng cho quê hương đã có cứu tinh.
♣ ♣ ♣
Cao
Chu Thần chỉ là con một cụ đồ nghèo, vì
cơm áo phải nay đây mai đó nên có nhiều
gặp gỡ để hơn Tô Đông Pha về mặt lịch duyệt giang
hồ, còn hơn Tô Đông Pha ở sự làu thông Tam Giáo là vốn
đã có sẵn, lại được Tổ Tiên Việt Nam hào hiệp
cho đồng qui. -/.
________________________________________________________
Tài
liệu:
1.
Việt Nam Văn học Sử yếu : Dương Quảng Hàm
2.
Việt Nam Sử lược : Trần Trọng Kim
3.
Việt Nam Từ điển: Lê Ngọc Trụ
4.
Việt văn Giản dị: Lữ Hồ
5.
Tố Như Thi : Quách Tấn (dịch)
6.
Hoàng Lê Nhất Thống Chí: Ngô gia văn phái.
VVM.02.01.2025.
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
Hoàng khuyển ngọa hoa âm
Chó vàng ngủ trong hoa.
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm.
Xứ sở thị chân tông
Chân tông như thị huyễn
Huyễn hữu tức không không.
Định Hương Trưởng Lão (Vietnam)
Xứ sở là chân tông
Chân tông như huyễn hoặc
Huyễn hoặc lại chân không.
Hoàng khuyển ngọa hoa tâm
Vị đáo sanh bình hận bất tiêu
Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
Lô sơn yên tỏa Chiết giang triều.
Đi chưa đến đặng hận muôn ngàn
Đến rồi về lại không chi lạ
Mù tỏa Lô giang sóng Chiết giang.
Trúc Diệp Thiền sư (Huế - Việt Nam)
Khi chưa đến đó luống mơ màng
Đến rồi hóa vẫn không gì khác
Khói ngút non Lô sóng Chiết giang.
Trúc Thiên (Saigon - Vietnam)
Con giun có biết đâu là cao sâu
Tân - gia vừa vượt con tầu
Mới hay vũ trụ một bầu bao la
Giật mình khi ở xó nhà
Văn chương chữ nghĩa chỉ là trò chơi
Không đi khắp bốn phương trời
Vùi đầu án sách uổng đời làm trai.
Phong lưu đáo lão thế gian hy”.
Chơi bời giống “Cụ” ít ai đương.
HVĐS tạm dịch
Thi đáo Tùng, Tuy thất thịnh Đường
Câu thơ Thi Xã con thuyền Nghệ An”.
“Thánh nhân bất đắc dĩ dụng Quyền
“Đấng Thánh nhân bất đắc sĩ mới dùng (anh) Quyền ”.
“Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bất văn sương lộp bộp
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhài
Khề khà thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài”.
Huênh hoang người tự theo về
Trong vườn tiếng oanh hót khề khà
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm
Ngày xuân chẳng thấy sương lộp độp
Trời thu chỉ thấy những mưa bài nhài
Khù khờ câu thơ đã nhiều người biết
Còn khệnh khạng đem hỏi các nhà văn học”
Tử năng thừa Phụ nghiệp.
Phụ nghiệp tử năng thừa.
Củi thổi quân lương chẻ chữ thờ.
Đông Hồ
Chính khí còn cao dấu cột cờ”.
Đông Hồ
Trăng tà khắc khoải quốc kêu thâu.
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt âm âm.
Chu Mạnh Trinh
Học trò; dăm đứa nửa người nửa ngợm nửa đười ươi”.
Đỉnh chung chiếc rưỡi cái lương vàng”.
Tám vế thơ văn giấc ngủ nồng”.
Bát cổ văn chương túy mộng trung.
Phan Chu Trinh
Huấn Đạo, Yên Phong Huấn Đạo Thần.
Mục Dã Minh Điền hữu Võ Thang.
Ba vòng xích sắt bước thì Vương!
Một nhát gươm đưa đéo mẹ đời!
Gặp dễ xa nhau chẳng dễ dàng
Hai nước danh thơm tài ngọc chuốt
Đầy xe mưa thấm dặm Châu Hoan
Việc theo tánh đạm mong thường rảnh
Trời vị dân đen khiến chửa nhàn
Ngắm vọi Hồng Sơn cao đức mọc
Rượu xa mừng rót chén hương quan
Bái hội phi nan tích biệt nam
Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc
Nhất xa cao vũ nhuận toàn Hoan
Nhân tòng đạm bạc tư vị chánh
Thiên vị kiềm lê bất phóng nhàn
Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu
Thiên nhai cử tửu khách hương quan.
________________________________________________________
Tài liệu:
1. Việt Nam Văn học Sử yếu : Dương Quảng Hàm
2. Việt Nam Sử lược : Trần Trọng Kim
3. Việt Nam Từ điển: Lê Ngọc Trụ
4. Việt văn Giản dị: Lữ Hồ
5. Tố Như Thi : Quách Tấn (dịch)
6. Hoàng Lê Nhất Thống Chí: Ngô gia văn phái.