N
guyễn Bỉnh Khiêm (1491- 1585),
quê làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, nay thuộc Vĩnh Bảo, Hải
Phòng. Ông xuất thân từ một gia
đình, thân phụ là một nhà
nho tài văn chương, thân mẫu là
con một vị Thượng thư, có
học vấn. Chờ thời, tuổi bốn mươi lăm, khoa
Ất Mùi (1535), ông thi đỗ Trạng nguyên. Làm quan nhà
Mạc 8 năm, thấy triều chính rối ren,
ông cáo quan về quê trí sĩ. Sau, do nhà
Mạc khéo trọng dụng nhân tài,
ông lại ra làm Lại bộ Tả
thị lang, thăng Thượng thư bộ
Lại, Thái phó, tước Hầu, thường
được gọi là Trình Tuyền hầu, hoặc Trạng Trình.
Ông là nhà thơ lớn, lại chuyên về
Dịch học, là bậc tiên tri kỳ
tài. Tuổi bẩy mươi, ông mới thực sự
từ quan, về làng mở trường dạy học.
Ông đã đào tạo nhiều nhân tài cho
đất nước : Nguyễn Quyện, Phùng Khắc Khoa, Lương Hữu
Khánh, Nguyễn Dữ… Tác phẩm :
Bạch Vân am thi tập, Bạch Vân quốc ngữ
thi… Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm, hiện
đã sưu tầm được 180 bài thơ Nôm, 800 bài thơ chữ Hán.
Thơ trong Bạch Vân thi tập (BVTT) của Nguyễn Bỉnh
Khiêm uyên bác sâu sắc, đến nay có
nhiều bài nhiều câu gần giống hoặc lẫn với thơ
trong Quốc Âm thi tập (QÂTT) của Nguyễn Trãi. Ví
dụ, giữa bài 47
BVTT với bài 66 QÂTT, bài 51 BVTT với bài 24 QÂTT…
Bài 52 BVTT của Nguyễn Bỉnh Khiêm có
hai câu: Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa/ Nước chớ
cho đầy nước ắt vơi. Bài 85- QÂTT của Nguyễn Trãi
có hai câu gần giống: Hoa càng khoe tốt, tốt thì
rữa/ Nước chớ cho đầy, đầy
ắt vơi. Thơ ai dám lẫn với thơ
Nguyễn Trãi? Chỉ có Nguyễn Bỉnh Khiêm. Không biết trong
tương lai, có thể phân định?
Nhiều năm ẩn dật, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn một lòng
vì giang sơn xã tắc :
Lo
trước nhưng vui sau thiên hạ
Ta
nguyện trong lòng chẳng phút ngơi.
(Ngụ hứng, bài 3)
Cùng
với Bạch Vân thi tập, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn có
tập Trình Quốc Công sấm
ký, tiên đoán nhiều điều trong thiên hạ.
Về sấm ký, chỉ dẫn câu Hoành sơn nhất
đái, vạn đại dung thân-
một dải Hoành Sơn có thể dung thân muôn
đời- ông nói với Nguyễn Hoàng,
đủ thấy một trí tuệ siêu việt. Nhân dân, triều chính
thời ấy coi ông là vị thánh.
Lại nói thêm, sau ba năm Nguyễn Bỉnh Khiêm
đỗ Trạng, đến khoa Mậu Tuất (1538), Giáp Hải (1507 -
1586) người Dĩnh Kế, Bắc Giang cũng
đỗ Trạng. Người ta thường gọi là
Trạng Kế. Kém Nguyễn Bỉnh Khiêm 16 tuổi, sau Trạng Kế
cũng trải Lục bộ Thượng thư
kiêm Đông các đại học sĩ, thăng
đến Thiếu bảo... Các vua Mạc thường uý dụ , vời các
danh sĩ ở lại để giúp chính sự, quyết
đoán cơ mưu, “phải quên nhà giúp nước”, nên Giáp Hải
cũng về hưu muộn. Giáp Hải làm nhiều thơ, trong số đó có
Tiết Trai thi tập.
Gần
đây, nhân đọc sử sách về triều Mạc mà chúng tôi
thu lượm được một bài thơ chữ Hán, thú vị là bài
thơ này của hai ông Trạng tặng nhau, Trạng Kế tặng Trạng
Trình:
Xin
dịch ra thơ để bạn
đọc cùng tham khảo:
THỨ
VẬN THƯỢNG
TRÌNH
QUỐC CÔNG
Tước kiêm xỉ đức đạt tôn tam
Phủ ngưỡng càn khôn lưỡng bất tàm
Cổn cổn đông chi đào lạm chướng
Lăng lăng trung lập tiết liêm tham
Chu kinh Mặc sử thi thiên thủ
Nhũ nguyệt song mai thảo nhất am
Đại lữ hoàng chung hoà đạm tấu
Trường lưu thanh giá trọng thiên Nam.
Dịch
thơ:
Nối vận dâng
Trình Quốc Công
Tước cùng tuổi đức thảy đều cao
Cúi ngửa càn khôn há thẹn nào
Sóng trắng triều đông trôi cuộn cuộn
Uy liêm tiết tháo sáng làu làu
Gối kinh kê sử thơ ngàn tứ
Nương cỏ ngắm mai nguyệt mấy thâu
Gác lớn chuông vàng hoà khúc điệu
Trời Nam danh tiếng gửi muôn sau.
Duy Phi dịch
Nhân hoạ
thơ của Trạng trình mà
Trạng Kế ca ngợi ông
đọc nhiều sách, đã viết hàng nghìn bài thơ, một con
người sống giản dị, liêm chính, tiết tháo, sánh với
chuông vàng... , để tiếng thơm muôn thuở.
Đề bài, chữ “thượng” có
nghĩa là dâng lên, “dâng lên Trình Quốc Công”. Thời
ấy, chưa có Quốc ngữ, tiếng NGƯỜI chưa ai bẻ
ra thành NƠI GỪ (Việt Phương trong tập thơ
Cửa mở), những người tài tôn quý
nhau. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm
được Trạng nguyên Giáp Hải sùng kính.
Đương thời, thiên hạ đã coi Trạng Trình là
một vị thánh sống.
Học giả Phan Huy Chú viết: “Nguyễn Bỉnh Khiêm là
bậc kỳ tài hiển danh muôn thuở”.
VVM.14.11.2024.
Ta nguyện trong lòng chẳng phút ngơi.
(Ngụ hứng, bài 3)
TRÌNH QUỐC CÔNG
Tước kiêm xỉ đức đạt tôn tam
Phủ ngưỡng càn khôn lưỡng bất tàm
Cổn cổn đông chi đào lạm chướng
Lăng lăng trung lập tiết liêm tham
Chu kinh Mặc sử thi thiên thủ
Nhũ nguyệt song mai thảo nhất am
Đại lữ hoàng chung hoà đạm tấu
Trường lưu thanh giá trọng thiên Nam.
Trình Quốc Công
Tước cùng tuổi đức thảy đều cao
Cúi ngửa càn khôn há thẹn nào
Sóng trắng triều đông trôi cuộn cuộn
Uy liêm tiết tháo sáng làu làu
Gối kinh kê sử thơ ngàn tứ
Nương cỏ ngắm mai nguyệt mấy thâu
Gác lớn chuông vàng hoà khúc điệu
Trời Nam danh tiếng gửi muôn sau.
Duy Phi dịch