KỲ 1
Giới
thiệu
Việt
Nam và Tân Cương xưa nay chưa bao giờ có quan hệ ngoại
giao. Việt Nam là một quốc gia, ở phía Nam nước Tầu.
Tân Cương ở phía tây Trung Hoa, gồm nhiều bộ lạc, chủng
tộc khác nhau, xưa người Tầu gọi là “rợ”, mọi rợ?,
- cũng như người Tầu gọi những dân tộc ở phía nam của
nước họ là man - dã man?- thường bị người Tầu xâm
lăng và cai trị. Cũng có khi nhân nước Tầu suy yếu thì
họ mạnh lên, lật đổ ách cai trị, chống lại người
Tầu và bắt phải đem vàng bạc và người cống cho họ
như câu chuyện “Chiêu quân cống Hồ.”
Một
xứ ở phía tây, một nước ở phía nam Trung
Hoa, không giao thiệp, không tiếp xúc, thì tại sao lại
có chuyện việc bên Tân Cương vào “ngồi”
trong văn học Việt Nam. Điều ấy, sở dĩ có
là vì người Tầu.
Người
Tầu làn trung gian giữa Tân Cương và Việt Nam.
Người
Tầu không bao giờ nằm yên trong địa giới của họ, khi
thì họ gọi là Tây chinh – chinh phục vùng phía tây - khi
thì họ gọi là Nam phạt, - trừng phạt nước Việt ở
phương Nam. Họ tự cho là trung tâm (Trung Quốc, nước ở
giữa). Các nước chung quanh là chư hầu, là phiên ly, rào
dậu bảo vệ cho Trung Quốc, thành ra văn hóa, văn học của
họ có ảnh hưởng đến người phương Nam, nước Đại
Việt.
Những
cuộc Tây chinh của người Tầu tạo nên nhiều ly cách,
chết chóc, đau khổ… không chỉ cho những dân tộc bị
họ chinh phục, cho những “rợ” ở phương bắc,
phương Tây, như “rợ Hồ”, “rợ Thuyền Vu” (hay Thiền
Vu?), “rợ Quắc”, v.v… như đã mô tả trong câu thơ Chinh
Phụ Ngâm: “Máu Thuyền Vu, Quắc nhục chi, Ấy thì bữa
uống, ấy thì bữa ăn” (1) mà ngay cả cho người Tầu,
cho chính dân tộc của họ nữa.
Việc
đem quân đánh Tân Cương, tạo ra những ly cách và
đau khổ đã khiến những nhà thơ Tầu làm
thơ trách oán, than vãn, ghi lại nơi họ hay người
Tầu đã chiến đấu, kinh qua… Những nơi đó,
những địa danh đó là ở Tân Cương. Khi những địa danh
đó, những câu chuyện chiến chinh đó đi vào thơ Tầu là
vô tình đi vào thơ Việt vì người Việt học và viết
theo văn học Tầu.
Ảnh
hưởng đó rõ lắm. Khi độc giả đọc Cổ Văn Việt
Nam như Chinh Phụ Ngâm, Cung Oán Ngâm Khúc hay Truyện Thúy
Kiều… sẽ thấy những ảnh hưởng đó, từ những từ
ngữ thông thường như “quan ải”, “quan san”, “quan
tái”, v.v… cho tới những truyện cổ như Thiên Thai, Hoàng
Hạc, những địa, danh, điển tích như Liễu Chương Đài,
Hãn Hải, Tiêu Quan, Thanh Hải, Bạch Thành, Thiên Sơn… Việc
nầy tôi sẽ nói thêm về sau.
Cũng
có thể có người cho rằng đó chỉ là
tình trạng văn chương Việt Nam của những thế kỷ
trước, những thời kỳ văn Nôm của thế kỷ
thứ 18, 19 chứ còn bây giờ thì đâu còn
nữa. Ảnh hưởng văn học học Pháp và Âu Mỹ đã đánh
bạt ảnh hưởng văn thơ Tầu ra đứng ngoài lề.
Cũng
có thể!
Nhưng
bị đứng hẵn ngoài lề văn chương Việt Nam hiện
đại thì không!
Dù
nói không, phủ nhận thì chúng ta lại phải
đọc nó, tìm hiểu nó, nghiên cứu nó để xem thử
ý nghĩa cổ văn là gì, văn chương hiện đại là gì và
nó có giao hòa gì với nhau?
Hơn
thế nữa, trong hơn nửa thế kỷ nay, nhất
là kể từ những năm 53-54 nền giáo dục ở miền Nam ngày càng phát triển
và cũng không thiếu tự do. Nền giáo dục đó
phát triển hai hướng khác nhau. Mặt thứ nhất thì hướng
về văn học Âu Mỹ hiện đại, kể cả văn chương của các
nước trong khối Cộng Sản, hướng thứ hai thì quay về
với Cổ Văn, không những chỉ với Cổ Văn Việt Nam mà
cả với Cổ Văn Trung Hoa. Sự kiện bây giờ nhiều người
làm thơ Đường luật nhiều hơn, không chỉ “cô đơn”
như Quách Tấn với Mùa Cổ Điển thời tiền chiến, chính
là một biểu hiện hướng thứ hai như tôi vừa trình bày
vậy.
Tôi
xin chứng minh như sau đây:
Hoàng Hạc Lâu là một bài thơ nổi tiếng của Thôi Hiệu,
một thi nhân “Thịnh Đường”. Ông quê ở Biện Châu,
Hà Nam, đậu tiến sĩ và làm quan đời Huyền Tông.
Tương
truyền ở ngọn núi đá Hoàng Hộc có tiên hay cưỡi
hạc đi về, nên dân chúng dựng lên ở đó một ngôi lầu
cho tiên ghé chân, gọi là Hoàng Hạc Lâu. Ông Phí Văn Vi
khi thành tiên cũng thường hay cưỡi hạc lui tới nơi nầy.
Dĩ nhiên, một bận Thôi Hiệu qua chơi Hoàng Hạc Lâu rồi
làm bài thơ cùng tên. Bài thơ Tầu như sau:
Hoàng Hạc Lâu
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Bài
thơ nầy nổi tiếng hay đến nỗi khi Lý Bạch đến
chơi ở đây, đọc bài thơ của Thôi Hiệu
viết trên vách (?), phải than rằng:
Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...
Có
nghĩa là:
Trước mắt thấy cảnh không tả được
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu!
Bản
dịch của Tản Đà:
Hạc
vàng ai cưỡi đi đâu?
Mà
đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc
vàng đi mất từ xưa
Nghìn
năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán
Dương sông tạnh cây bày
Bãi
xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê
hương khuất bóng hoàng hôn
Trên
sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Dĩ
nhiên, vì là một bài thơ hay nên có nhiều
người dịch ra tiếng Việt, như Tản Đà, Ngô Tất tố,
Trần Trọng Kim, Trần Trọng San và một số người trẻ
hiện tại. Tôi chỉ chọn chép lại đây bản dịch của
Tản Đà vì bản dịch của ông, theo ý kiến nhiều người
là hay nhứt, có lẽ nhờ ông là một nhà thơ hay và cũng
vì tại đây là một bài báo, không đủ chỗ để chép
hết ra!
Bài
thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu có ảnh hưởng
đến văn chương nước ta. Dĩ nhiên! Nói về Cổ
Văn, Nguyễn Du là một người trong số các cổ
nhân thích bài thơ nầy.
Nguyễn
Du làm quan đời nhà Nguyễn, trong lần đi sứ Trung
Quốc, không rõ có ghé thăm Hoàng Hạc Lâu hay không nhưng
trong tập thơ của ông nhan đề Bắc Hành Tạp Lục có bài
thơ như sau:
Hoàng Hạc lâu
Hà
xứ thần tiên kinh kỷ thì
Do
lưu tiên tích thử giang mi
Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng
Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi
Hạm
ngoại yên ba chung diểu diểu
Nhãn
trung thảo thụ thượng y y
Trung
tình vô hạn bằng thùy tố
Minh
nguyệt thanh phong dã bất tri
Dịch
(không rõ dịch giả):
Lầu
Hoàng Hạc
Thần
tiên đâu đó bấy lâu nay
Tích
xưa lưu lại bến sông này
Lư
nhân một giấc mộng vẫn thế
Thơ
Hạo lầu không hạc đã bay
Ngoài
sông khói sóng vẫn bao la
Nhìn
xem cây cỏ chẳng khác xa
Biết
ngỏ cùng ai tình dào dạt
Trăng
trong gió mát hiểu gì ta.
Đề
tài chung thì như thế, là Lầu Hoàng Hạc và tiên đi về
lui tới, nhưng xem trong câu cuối của Nguyễn Du thì mỗi
người mỗi tâm sự, chắc gì ai đã hiểu ai. Hèn chi trong
Kiều, Nguyễn Du tâm sự: “Một mình mình biết, một mình
mình hay” hoặc “Ai tri âm đó mặn mà với ai.”
Người
ta vẫn thường cho rằng hai câu cuối trong bài Hoàng Hạc
Lâu của Thôi Hiệu là hay nhất. Tản Đà dịch là: “Quê
hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai!” Chữ Yên ba giang thượng dịch là khói sóng trên
sông. Bài thơ của Nguyễn Du viết là “Hạm ngoại yên
ba chung diểu diểu”. Người dịch dịch là “Ngoài sông
khói sóng vẫn bao la.”
Cũng
có tài liệu nói rằng Yên Ba là danh từ riêng,
là tên một khúc sông gần lầu Hoàng Hạc. Hiểu nó
là một tên sông thì cái hay của bài thơ mất
đi nhiều lắm.
Ngay
hai tiếng Yên ba nầy, hồi thập niên 1960, trên nhựt báo
Tự Do, nhà văn Như Phong Lê Văn Tiến cũng cho đăng một
truyện dài của ông nhan đề là “Khói Sóng”. Có lẽ
Như Phong cũng không nằm ngoài những người yêu bài thơ
Hoàng Hạc Lâu.
Trở
lại ý trong bài thơ Hoàng Hạc Lâu, chúng ta
thấy gì?
Lầu
thì còn trơ lại ở đó (“Mà đây
Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ- TĐ). Tiên thì đã
đi mất từ hồi nào (Hạc vàng đi mất từ xưa
– TĐ), và (Nghìn năm mây trắng bây giờ còn
bay - TĐ ) (“Ngàn Năm Mây Bay.” - tiểu thuyết
của Văn Quang, phim của Hoàng Anh Tuấn -) và … buồn
vì nhớ nhà (Quê hương khuất bóng hoàng hôn, Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai!)
Những
ý tưởng đó, chúng ta cũng thấy ngay trong thơ của
Tản Đà như “Tống Biệt” đã có và
còn thấy lại nữa, ở nhiều nhà thơ khác, thế hệ trẻ
hơn.
Trong
bài thơ Tống Biệt Tản Đà viết “Cái hạc bay lên
vút tận trời” thì đó là cái hạc cho tiên cưỡi, hay
chính cái hạc đó là tượng trưng cho tiên?
Nếu
trong Thôi Hiệu có “Ngàn năm mây trắng bây giờ
còn bay” thì trong Tống Biệt, Tản Đà viết
là “Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi”. Dù hình
ảnh có khác đi (mây và trăng) nhưng cả hai đều biểu
tượng cho thời gian. Thời gian “trôi” mãi, không bao giờ
dứt, mặc dù, Tống Biệt của Tản Đà là cảnh Thiên Thai
chứ không phải là Lầu Hoàng Hạc.
Thiên
Thai và Lầu Hoàng Hạc giống hay khác nhau?
Không
khác nhau vì nơi nào cũng là nơi tiên ở.
Ở đó, Lầu Hoàng Hạc khác chi cảnh tiên. Tiên cưỡi
hạc đi về khác chi nơi tiên cảnh.
Tống biệt
Lá
đào rơi rắc lối thiên thai,
Suối
tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi!
Nửa
năm tiên cảnh,
Một
bước trần ai,
Ước
cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá
mòn, rêu nhạt,
Nước
chảy, huê trôi,
Cái
hạc bay lên vút tận trời!
Trời
đất từ đây xa cách mãi.
Cửa
động,
Đầu
non,
Đường
lối cũ,
Ngàn năm lơ lửng bóng trăng soi
Tôi
sẽ không phân tích cái hay của bài Tống Biệt, xin
hẹn một dịp khác.
Cũng
không ra ngoài những ý tưởng đó, sau Tản Đà
một thế hệ, Thế Lữ viết bài thơ Tiếng
Sáo Thiên Thai:
Tiếng
Sáo Thiên Thai
Tặng Ngô-Bích-San
Ánh
xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên
rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng
đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn
ơi! xa vắng, mênh mông là buồn...
Tiên
Nga tóc xõa bên nguồn.
Hàng
tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây
hồng ngừng lại sau đèo,
Mình
cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời
cao, xanh ngắt. - Ô kìa
Hai
con hạc trắng bay về Bồng-lai.
Theo
chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại
theo giòng suối bên người Tiên-Nga.
Khi
cao, vút tận mây mờ,
Khi
gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm
như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp
như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Thiên
Thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc
Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
Trong
khi Thôi Hiệu viết “sử nhân sầu” thì
Thế Lữ viết “Buồn ơi xa vắng, mênh
mông là buồn”. Những tiếng “Xa vắng”, “mênh mông”,
nghe phảng phất như có “Bãi xa anh vũ” hay “May trắng
còn bay” của Thôi Hiệu. Thôi Hiệu viết “Hạc vàng ai
cưỡi đi đâu?” thì Tản Đà viết “Cái hạc bay lên
vút tận trời”. Thế Lữ viết rõ hơn một chút “Hai
con hạc trắng bay về Bồng Lai.” Thế Lữ viết “Hai con
hạc trắng” là ám chỉ hai chàng Lưu Nguyễn đó chăng?
Trong cách viết như thực như hư ấy, nhưng rất biểu tượng
thì hạc là phương tiện của tiên di chuyển hay hạc chính
là tiên?
Một
thế hệ sau, Trịnh Công Sơn viết “Như
Cánh vạc bay”. Trong suốt trong bài hát của ông, người
ta chỉ thấy bóng hạc có một lần: “Như
cánh vạc về chốn xa xôi”. Về hình ảnh chim
hạc, hình như có một sự “gần gũi” giữa Thế Lữ
và Trịnh Công Sơn. Trong khi Thế Lữ viết “Tiên Nga xỏa
tóc bên cồn” thì TCS viết “Tóc em… rớt xuống đời
làm sóng lênh đênh.” “Sóng lênh đênh” của đời có
phải cũng làm bằng nước mắt người đẹp “Từng giọt
lệ… rớt xuống hồ thành nước long lanh.”
Tiên
ở Bồng Lai thì đẹp. Người trần cũng “đẹp
như tiên”. Tuy nhiên, thời đại của TCS là
thời chinh chiến. Súng đạn không làm cho người đẹp bớt
đẹp đi nhưng tạo ra đau khổ thì nhiều hơn. Bài thơ của
Thế Lữ có buồn, buồn xa vắng, buồn mênh mông, dù buồn
như thế nào thì đó cũng chỉ là một nỗi buồn êm đềm
của một thuở thanh bình, có tiếng chim, tiếng sáo… “lên
khơi.” Té ra “tiên đời thanh bình” và “tiên thời
chinh chiến” khác nhau nhiều lắm, dù môi em có đẹp hơn
nắng hồng (“Nắng có hồng bằng đôi mắt em”), dù mây
hay tóc em có buồn bằng “đôi mắt em.”
Thời
gian thì trôi mãi, vô hạn, không thủy, không chung,
dù đôi khi “Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi”
như Thế Lữ thấy. “Bóng chiều không đi” không có nghĩa
là thời gian ngừng lại. Một giây, một phút hay một ngày
một năm… tất cả chỉ là biểu tượng, một định mức
của thời gian, một cách diễn tả, còn bản chất của
thời gian là chuyển động không ngừng nghỉ.
Không
gian cũng vô cùng, như “Trời cao xanh ngắt - Ô
kìa. Hai con hạc trắng bay về Bồng Lai.” Nhận xét ấy,
TCS ví “Như cánh vạc về chốn xa xôi” hay là… “xa
nghìn trùng.”
Tất
cả những điều người đời sau nói về thời
gian và không gian, chúng ta có thể thấy trong Hoàng Hạc
Lâu. Ở bài thơ đó, thời gian thì:
Hạc
vàng đi mất từ xưa
Nghìn
năm mây trắng bây giờ còn bay
Và
không gian thì:
Mà
đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
và
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Những
hình ảnh “Lầu còn trơ” hay cảnh “Hán Dương sông tạnh
cây bày” hoặc bãi cỏ xa cũng chỉ là dùng
để nói lên cái vô cùng của vũ trụ.
Qua
thi ca, người ta thường thấy không gian và thời gian
được biểu tượng bằng những hình ảnh cụ thể.
Cũng
đề tài nầy, Hoàng Nguyên, lớn lên trong chiến tranh nên
ông thấy đời đau đớn, tuyệt vọng hơn. Vì đau
đớn, tuyệt vọng, muốn đi tìm một thế giới hạnh phúc
khác nên ông cứ hỏi mãi: “Đường nào lên Thiên Thai”.
Hỏi tới ba lần như thế là ông khao khát Thiên Thai lắm!
Làm gì có Thiên Thai trong đời thực nên không có đường
lên Thiên Thai. Hoàng Hạc Lâu thì có thật, nhưng tiên ở
Lầu Hoàng Hạc chỉ là hư truyền. Thiên Thai hay Bồng Lai
cũng chỉ là hư truyền.
Những
tác giả như Tản Đà thuộc đầu thế
kỷ 20, Thế Lữ thời tiền chiến, Hoàng Nguyên,
Trịnh Công Sơn thuộc thời kỳ chinh chiến. Và
Hoàng Hạc Lâu, như thế đã chấm dứt trong văn học Việt
Nam!
Không
phải vậy. Mãi đến 1968, Vũ Đức Sao Biển còn
viết Thu Hát Cho Người. Thính giả, nếu có theo dõi
một dòng xuôi văn học như trình bày ở trên,
sẽ không ngạc nhiên khi nghe “Hoàng hạc bay, bay mãi
bỏ trời mơ.” Hoàng hạc còn bay đấy, nhưng Hoàng
Hạc ngày nay có khác gì Hoàng Hạc của Thôi Hiệu ngày
xưa? Tiên cuỡi hạc về cõi tiên. Tiên là cõi người đời
mơ ước. Vậy thì khi “hoàng hạc bay mãi bỏ trời mơ”
thì người đời nay đã đánh mất niềm tin rồi chăng?
Dù
còn niềm tin hay không thì hạc vàng cũng sẽ bay ngàn năm
và “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay.”
Thời
gian và không gian bao giờ cũng vô cùng vô
tận!
Một
hôm nào đó, nghe “Thu Hát Cho Người” , nghe “hoàng
hạc bay mãi…” và chúng ta thấy vui. Té ra người ngàn
năm trước và người đời nay vẫn còn gặp nhau!
VVM.19.9.2024-NVATCHLH.
Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ,
Thử địa không dư Hoàng Hạc Lâu.
Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản,
Bạch vân thiên tải không du du.
Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ,
Phương thảo thê thê Anh Vũ châu.
Nhật mộ hương quan hà xứ thị,
Yên ba giang thượng sử nhân sầu.
Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu...
Vì Thôi Hiệu đã đề thơ trên đầu!
Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai!
Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì
Do lưu tiên tích thử giang mi
Kim lai cổ vãng Lư sinh mộng Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi
Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu
Nhãn trung thảo thụ thượng y y
Trung tình vô hạn bằng thùy tố
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri
Thần tiên đâu đó bấy lâu nay
Tích xưa lưu lại bến sông này
Lư nhân một giấc mộng vẫn thế
Thơ Hạo lầu không hạc đã bay
Ngoài sông khói sóng vẫn bao la
Nhìn xem cây cỏ chẳng khác xa
Biết ngỏ cùng ai tình dào dạt
Trăng trong gió mát hiểu gì ta.
Lá đào rơi rắc lối thiên thai,
Suối tiễn oanh đưa luống ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm lơ lửng bóng trăng soi
Tặng Ngô-Bích-San
Ánh xuân lướt cỏ xuân tươi,
Bên rừng thổi sáo một hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên lòng,
Buồn ơi! xa vắng, mênh mông là buồn...
Tiên Nga tóc xõa bên nguồn.
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Trời cao, xanh ngắt. - Ô kìa
Hai con hạc trắng bay về Bồng-lai.
Theo chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại theo giòng suối bên người Tiên-Nga.
Khi cao, vút tận mây mờ,
Khi gần, vắt vẻo bên bờ cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc Nữ uốn mình trong không,
Thiên Thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc Chân buồn tưởng tiếng lòng xa bay...
Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay
Bãi xa Anh Vũ xanh dầy cỏ non