Việt Văn Mới
Việt Văn Mới
      



NĂM BÀI THƠ XUÂN ĐẶC SẮC ĐỜI ĐƯỜNG



T  rong gần 50.000 bài thơ Đường còn lưu lại đời sau, có một mảng đậc sắc mà các thi nhân lấy cảm hứng từ  mùa xuân.

Giữa những ngày xuân này, thiết tưởng sẽ là đều thú vị nếu chúng ta cùng nhau giở áng cảo thơm, ngâm ngợi một vài bài thơ xuân tiêu biểu của các thi nhân lỗi lạc đời Đường để một lần nữa thấy rằng những cảm xúc của người xưa tinh tế biết chừng nào!

Sau đây tôi xin giới thiệu về năm bài thơ xuân nổi tiếng:

Bài thứ nhất:

           XUÂN HIỂU

           Mạnh Hạo Nhiên

Xuân miên bất giác hiểu
Xứ  xứ văn đề điểu
Dạ  lai phong vũ thanh
Hoa lạc tri đa thiểu?

[   SỚM XUÂN

Đang giấc xuân, chợt sáng
Chốn chốn rộn chim ca
Trong mưa gió đêm qua
Biết bao là hoa rụng?

                Kiều Văn  dịch]

Bốn câu thơ đánh thức niềm vui sống khi con người chợt giao cảm với thiên nhiên tuyệt mĩ của mùa xuân. Sau một giấc ngủ rất ngon (hẳn là do thời tiết mát mẻ của mùa xuân), ngay sau phút bàng hoàng nhận ra “trời chợt sáng”, thi nhân lập tức rơi vào một khoảnh khắc mộng mơ lúc còn nằm nán lại trên giường. Tưởng tượng bỗng nhiên cất cánh. Tuy chưa đứng dậy bước ra vườn, nhưng trong niềm vui háo hức của tâm hồn, thi nhân đã hình dung ra một cảnh tượng đầy ắp chất thơ. Đó lả cảnh hoa rơi đầy mặt đất sau một đêm xuân mưa gió và ẩm ướt. Ôi mùa xuân tươi đẹp biết bao đang tràn đến với những âm hưởng náo nức và những bước đi kì diệu của nó trong trời đất và trong hồn người!

Bài thứ hai:    

        XUÂN TỨ

Lí Bạch

Yên thảo như  bích ti
Tần tang đê lục chi
Đương quân hoài quy nhật
Thị  thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức
Hà  sự nhập la vi?


[  Ý XUÂN

Cỏ Yên tựa tơ xanh
Dâu Tần sà cành mướt
Khi chàng mong ngày về
Lúc em buồn héo ruột.
Gió xuân chẳng hề quen
Màn ta sao dám lọt?

              Kiều Văn  dịch ]

Lí  Bạch đã lập tứ bài thơ trên hai tuyến: tuyến thứ nhất diễn tả mùa xuân chín, tuyến thứ  hai diễn tả nỗi khát khao yêu đương lên tới cực điểm của cặp vợ chồng trẻ phải cách xa nhau vì chiến tranh.

Trong bài thơ, mùa xuân được đặc trưng bởi hai loài cây non tơ, mơn mởn, tượng trưng cho tuổi trẻ:  cỏ  và  dâu . Lí Bạch đã thản nhiên vứt bỏ những hình ảnh điển phạm của văn chương quý tộc như  đào, lí, tùng, cúc, trúc, mai…  để đến thẳng với ngọn nguồn của thiên nhiên chốn dân dã (cỏ, dâu).

Song hành với sự tròn đầy của mùa xuân là sự dâng trào niềm khao khát yêu đương của đôi vợ chồng trẻ xa nhau (chồng đi lính). Tình yêu ấy xanh thắm như cỏ như dâu mùa xuân nhưng nó đã bị chiến tranh hãm vào tình trạng vô cùng bi đát. Nỗi đói khát tình yêu đã cộng hưởng dữ dội từ cả hai phía chinh phụ và chinh phu trong cùng một thời điểm đặc biệt thôi thúc: lúc xuân về! Nàng chinh phụ trẻ đã tỏ ra là một người có tâm hồn cực kì nhạy cảm. Nàng nghe thấy một thứ vô thanh, nhìn thấy một thứ vô hình: đó là  gió, người khách không quen biết đã táo tợn lọt vào màn the của nàng! Bởi vì nàng không giây phút nào rời khỏi tâm trạng chờ đợi chồng nên bất cứ một vận động nào dù cực nhỏ ở xung quanh nàng cũng dễ dàng hoá thành một tín hiệu nhắc nàng rằng chồng nàng đã về tới. Nàng đã lầm tưởng gió là chồng và sau đó nàng thất vọng, nàng trách móc oan gió. Một khát vọng cực điểm không được thoả mãn tất yếu sẽ chuyển hoá thành một nỗi đau. Thiên tài Lí Bạch đã nhìn thấu hết diễn biến của tình trạng bi kịch ấy. Mùa xuân càng tươi đẹp bao nhiêu, tình xuân càng nồng cháy bao nhiêu thì cảnh chia li càng gây ra nỗi nhớ mong đau khổ “đứt ruột” bấy nhiêu: sự phát hiện nghịch lí ấy đã tạo nên cái thần của bài thơ.

Bài thứ ba:

            KHUÊ OÁN

  Vương Xương Linh

Khuê  trung thiếu phụ bất tri sầu
Xuân nhật ngưng trang thướng thuý lâu
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc
Hối giao phu tế  mịch phong hầu.


[ NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ

Thiếu phụ phòng khuê, nỗi sầu chưa trải
Ngày xuân tươi ngừng trang điểm, lên lầu
Chợt thấy đầu đường xanh rờn sắc liễu
Hối để chồng đi vì  cái tước hầu.

  Kiều Văn  dịch]

Không giàu “kinh nghiệm tình trường” bằng người thiếu phụ trong bài “Xuân tứ” của Lí Bạch, người thiếu phụ ở đây còn quá trẻ, còn  đang ở độ tuổi hồn nhiên yêu đời (còn chưa biết buồn). Mọi cử chỉ của nàng trong ngày xuân mới dường như còn phơi phới, vô tư (Ngày xuân tươi ngừng trang điểm, lên lầu).  Cho đến lúc ấy tâm hồn nàng vẫn ở trong trạng thái yên bình.

Thế  nhưng tất cả đã đột nhiên biến động qua chỉ một động ngữ  hốt kiến  (chợt thấy). Một hình ảnh vô cùng khêu gợi của mùa xuân đã bất chợt đập mạnh vào mắt khuê phụ: đó là hình ảnh những cây liễu xanh rờn ở đầu đường. Hình ảnh ấy nhắc nhở nàng nghĩ đến tuổi trẻ của nàng, nhớ đến tình yêu và hạnh phúc mà nàng đã lỡ để rơi tuột mất! Trong chớp nhoáng, một phản ứng tâm lí diễn ra trong lòng nàng. Nàng chợt nhận rõ cái nghịch lí của cuộc sống vợ chồng nàng, đang giữa tuổi yêu đương mà phải sống đằng đẵng trong xa cách. Trí óc nàng bừng sáng, và nàng nhận ra sai lầm nghiêm trọng của mình đã để mặc chồng lao vào một canh bạc thật là vô bổ so với hạnh phúc tình yêu: đi  vì cái tước hầu . Nàng lập tức rơi vào trạng thái hối hận và nàng cảm thấy vô cùng đau khổ.

Chộp bắt được cái giây phút xảy ra sự “biến động tâm lí” của người thiếu phụ có chồng đi lính, từ chưa “giác” đến “giác”, từ chưa hối tiếc đến hối tiếc, chưa sầu đến sầu, nói cách khác, chưa bi kịch đến bi kịch, với tác nhân là một cảnh sắc tuyệt mĩ của mùa xuân: đó là cái thần của bài thơ.

Bài thứ tư:

            ĐỀ TRƯƠNG THỊ ẨN CƯ

        Đỗ Phủ

Xuân sơn vô  bạn độc tương cầu
Phạt mộc tranh tranh sơn cánh u.
Giản  đạo dư hàn lịch vĩnh tuyết
Thạch môn tà  nhật đáo lâm khâu.
Bất tham dạ  thức kim ngân khí
Viễn hại triêu khan mê  lộc du.
Thừa hứng yểu nhiên mê  xuất xứ
Đối quân nghi thị phiếm hư chu.


[ ĐỀ NƠI Ở ẨN HỌ  TRƯƠNG

Núi xuân thiếu bạn, kiếm bơ  vơ…
Tiếng đẵn gỗ vang giữa núi mờ.
Lạnh rớt đường khe sau tháng tuyết
Ánh tà cửa đá dọi rừng xưa.
                 Chẳng tham đêm ngửi hơi vàng bạc
Tránh hoạ ngày xem hươu nhởn nhơ.
Đang hứng nẻo ra quên hết lối
Bên người mà ngỡ dạo thuyền mơ.

                          Kiều Văn  dịch]

Thi nhân “du xuân” đơn độc vào nơi sơn dã, khao khát và quyết đi tìm gặp một người bạn hiền đang ở ẩn, để được sống những giờ phút đích thực của tâm hồn. Xuân ở nơi cô lánh này (chỉ có những kẻ ẩn cư và thảng hoặc một người tiều phu) thật khác xa với xuân ở nơi đô hội. Dư vị của mùa đông còn đậm (Lạnh rớt đường khe sau tháng tuyết), ánh xuân còn yếu ớt, cảnh xuân vẫn hết sức u tịch (Ánh tà cửa đá dọi rừng xưa). Rốt cuộc thì thi nhân đã được đền đáp: được tận hưởng những ngày xuân đắc ý nhất trong một cảnh sống thanh tao, thoát tục và đậm đà tình tri kỉ. Trong cảnh sống ấy, cả sự cám dỗ của giàu sang (hơi vàng bạc) lẫn sự hiểm nguy của cái “hoạ công danh” đều không hề bén mảng tới, chỉ có thú tiêu dao cùng tạo vật hoang dã (ngày xem hươu nhởn nhơ). Lại nữa, thi nhân được thù tạc vô cùng khoái chá cùng người tri kỉ là nhà ẩn sĩ họ Trương, đến nỗi

Đang hứng, nẻo ra quên hết lối
Bên người mà ngỡ dạo thuyền mơ.

Cho hay khách phong lưu có lối sống và cách truy cầu hạnh phúc thật là minh triết và cao diệu!

Bài thứ năm:

TRIỆU THÔN HỒNG HẠNH

Bạch Cư Dị

Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai
Thập ngũ  niên trung khán kỉ hồi
Thất thập tam nhân nan tái  đáo
Kim niên lai thị  biệt hoa lai.


[ HOA MẬN ĐỎ THÔN TRIỆU

Mỗi năm mận  đỏ thôn Triệu nở
Mười lăm năm ngắm  đã nhiều rồi
Tuổi bảy ba khó  phen tới nữa
Năm nay tới giã  biệt hoa thôi.]

Bài thơ đề cập tới một vấn đề khiến ai nấy  đều xúc động: sự giã từ cuộc sống. Bài thơ vang lên âm hưởng buồn bã. Mười lăm năm qua, cuộc sống của thi nhân đã diễn ra êm  ả và vui thú: mỗi lúc xuân về, thi nhân thường tới thăm hoa mận đỏ thôn Triệu nở (giống như người Hà Nội đến thăm làng đào Nhật Tân). Những cuộc viếng thăm một làng hoa như vậy là nếp sống văn hoá vô cùng tao nhã của thi nhân cũng như của bao người khác. Nó là bằng chứng cho thấy Bạch Cư Dị là một con người “nặng tình” với loài “hoa mận đỏ” như thế nào. Nó cũng mách bảo rằng ông là người nặng tình với tất cả tạo vật (trong đó tất nhiên con người là đối tượng cao nhất) mà hoa mận đỏ là một tạo vật tượng trưng. Nhưng rồi đến một mùa xuân kia, ở tuổi 73, thi nhân bỗng linh cảm thấy nỗi bi thương của  sự tử biệt, và ông hiểu rằng mùa xuân này là mùa xuân cuối cùng ông còn được gặp gỡ loài hoa ấy. Vì vậy ông đã làm một cuộc du xuân để “trối già” với chúng! Chúng ta bỗng gặp một tứ thơ lạ: không phải sự “trối già” của con người với con người như vẫn thường thấy mà là sự “trối già” thầm lặng của con người với một... loài hoa! Cái cao diệu của tính người, tình người, cũng là cái cao diệu của bài thơ này chính là ở điểm đặc sắc ấy.

Cuộc giã biệt giữa người và hoa ấy cũng chứa chất những cảm xúc đau tiếc như một thứ “sầu vạn cổ”. Nỗi sầu ấy như nghẹn lại, như dồn nén vào tận đáy lòng, như một tiếng thở dài:  Năm nay tới giã biệt hoa thôi.  Chính cái tình yêu thắm thiết và lạ thường của thi nhân với hoa mận đỏ đã khiến chúng ta xúc động và mến phục con người ông.

Bài thơ khắc hoạ nỗi nuối tiếc của kẻ đi với người ở, của cái hữu hạn với cái trường cửu, của cái vô thường với cái vĩnh hằng. Đó là  bài thơ thuộc dòng thi ca mang tính chất bi ai như   bi ca, sầu ca, ai ca, élégie, hành khúc tang lễ…  của văn hoá nhân loại. Điều ấy cho thấy độ chín nhân văn và tầm vóc thi nhân rất cao của nhà thơ lớn, tác giả của  Tì bà hành  và  Trường hận ca.

  (Bài  đã trích đăng trên báo Giáo Dục và Thời Đại)



VVM.04.02.2024.

| UNIVERSELLE LITERATUR | UNIVERSAL LITERATURE | LITERATURA UNIVERSAL | LETTERATURA UNIVERSALE | УНИВЕРСАЛЬНАЯ ЛИТЕРАТУРА |
. newvietart@gmail.com - vietvanmoinewvietart007@gmail.com .